CHÚA THÁNH THẦN “ĐỒNG THIẾT LẬP” GIÁO HỘI
ĐGM
Phaolô Bùi Văn Đọc
Bài 2
III. CHÚA THÁNH THẦN TẠO LẬP
GIÁO HỘI BẰNG ĐỜI SỐNG PHỤNG VỤ.
Nhờ trở về nguồn Kinh Thánh, nhờ canh tân phụng vụ, nhờ đối thoại Đại
Kết, mà đời sống bí tích được lồng trong lịch sử cứu độ. Trong bối cảnh ấy, chúng ta khám phá trở lại vai trò của Chúa Thánh
Thần trong phụng vụ như Đấng nối kết quá khứ với hiện tại, để mở ra cho tương
lai. Công việc của chúng ta là nỗ lực nhìn phụng vụ
trong Thánh Thần, và nhìn Thánh Thần trong phụng vụ.
A. THẦN HỌC LỜI KHẨN NGUYỆN.
Trên bình diện lịch sử, có thể ghi nhận một số điểm
sau đây :
1. Tranh luận giữa Đông và Tây về
vấn đề truyền phép mới nảy sinh sau này, từ trước Giáo Hội vẫn gán việc bánh và
rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô cho tác động của Chúa Thánh Thần.
2. Hai giáo phụ tiêu biểu cho
truyền thống Latinh là Ambrôsiô và Augustinô đều nhấn mạnh vai trò của Lời Chúa
Kitô, Lời Thiên Chúa
làm cho bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa, và lưu ý đó
là lời của Thiên Chúa chứ không phải lời con người, hiểu ngầm sức mạnh của Lời
là Chúa Thánh Thần. Về sau, người ta giải thích nghiêng dần về công thức truyền phép, đến mức độ quên đi vai trò của Chúa Thánh
Thần.
Trái
lại, bên Đông phương, vai
trò của Chúa Thánh Thần luôn được đề cao trong phụng vụ. Ví dụ
thánh Cyrille de Jérusalem : “Chúng ta khẩn cầu Thiên
Chúa nhân từ sai Thánh Thần xuống trên lễ vật đặt trước mặt chúng ta, để Ngài
biến đổi bánh trở nên Mình Thánh Đức Kitô và rượu trở nên Máu Thánh Đức Kitô. Điều mà Chúa Thánh Thần chạm tới được hoàn toàn và thực sự hiến
thánh và biến đổi” (Cat. 5, 7). Trong truyền thống Đông phương, vinh dự
lớn nhất của linh mục là được quỳ gối khẩn nguyện Chúa Cha ban Thánh Thần để
thực hiện sự biến
đổi thánh.
3. Như vậy cả hai truyền thống
đều có thể giải thích mềm dẻo và sống động, thay vì trở thành cực đoan và đối
lập nhau. Truyền thống Đông phương cũng có nói tới vai trò
của Lời trong việc truyền phép. Năm 512, Sévère, Thượng phụ Antiokia
khẳng định là việc hiến thánh bánh và rượu được thực hiện nhờ những lời thiết
lập mà không nhắc đến Chúa Thánh Thần. Trái lại, trong Giáo Hội Latinh, thánh
Ambrôsiô cũng đã nói : “Không có phúc lành trọn hảo, nếu Thánh Thần không được
ban xuống” De Spir.S. 1, 89). Thánh Augustinô cũng đã nói : “Sự hiến thánh làm nên một bí tích lớn lao như thế
không thể thực hiện được nếu không có sự can thiệp vô hình của Chúa Thánh Thần”
(De Trin. 3, 4.10). Thánh Tôma cũng nói : “Trong các bí tích Giao Ước Mới bắt
nguồn từ Chúa Kitô, ân sủng do các bí tích như dụng cụ mà thôi, chủ yếu là do
sức mạnh của Chúa Thánh Thần tác động nơi các bí tích” (IV Sent. 8, 2.3)
“Việc Biến Thể được gán cho Chúa Con với tư cách là tư tế và là của lễ,
được gán cho Thánh Thần nhờ đó mà Ngài hiến tế” (IV Sent. 10).
Như vậy là giữa hai quan điểm chỉ có khác biệt về dấu nhấn, chứ không
đối chọi. Thần học Latinh dần dần hướng phụng vụ theo chiều hướng Kitô, quên dần chỗ đứng của lời khẩn
nguyện, đề cao tối đa vai trò của linh mục đọc lời truyền phép. Phương Đông vẫn đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ
cho đến ngày hôm nay. Giáo Hội Đông phương coi kinh nguyện Thánh Thể như một lời cầu
nguyện vĩ đại của toàn thể Giáo Hội được Chúa Thánh Thần linh hoạt, nhờ Chúa
Kitô, dâng lên Chúa Cha, và do đó chắc chắn được chấp nhận. Sự hiện diện của
Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể là “hồng ân vĩ đại mà
Chúa Cha ban trong Thánh Thần”. Ngày nay, sự gặp gỡ giữa Đông và Tây mang lại nhiều hoa trái cho
đời sống phụng vụ của Giáo Hội.
B. PHỤNG VỤ TRONG THÁNH THẦN.
Phụng vụ thánh là phượng tự trong Thánh Thần, là tôn thờ Chúa Cha trong
Thánh Thần và chân lý (Ga 4, 23). Trong Thánh Thần, phụng vụ là
chén tổng hợp triển nở tất cả các chiều kích của mình.
1. Chiều kích Ba Ngôi.
Phụng
vụ là “vinh danh Chúa
Cha nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”. Phụng vụ diễn tả và thể hiện chương
trình cứu độ của Chúa Cha, tưởng niệm mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ và ban ơn Thánh
Thần. Thánh Thần là môi sinh của phụng vụ ; là tác
nhân huyền nhiệm và hiện diện, được Chúa Cha sai đến để làm cho Chúa Kitô hiện
diện trong Giáo Hội “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”. Trong
chiều đi xuống của phụng vụ, Thánh Thần là hồng ân mà Chúa Cha ban cho Giáo Hội
trong Chúa Kitô ; trong chiều hướng đi lên, Thánh Thần là tác giả chính của Lời
nguyện trong chúng ta, trong Đức Kitô - Giáo Hội, dâng lên cho Chúa Cha.
Trong
phụng vụ, Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội và trong thừa tác viên, để thừa
tác viên có thể hành động “đại diện Chúa Kitô” và “nhân danh Giáo Hội”. Chúa
Thánh Thần còn hiện diện nơi các yếu tố bí tích, làm cho chúng có được sự hiện
diện của Chúa Kitô và ân sủng của Ngài.
Chúa
Con Nhập Thể là trọng tâm sống động cùa phụng vụ, Chúa Cha là Khởi Nguyên và là
Cùng Đích, nhưng Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Cha ban Đức Kitô cho Giáo Hội và
khiến cho Giáo Hội có thể dâng Đức Kitô lên Chúa Cha.
2. Chiều kích lịch sử.
Bí tích không chỉ là cử hành biến cố cứu độ, mà còn là biến cố cứu độ. Dĩ nhiên phụng vụ bí tích là dấu chỉ hữu hiệu, nhưng không chỉ như
vậy, mà còn là chính mầu nhiệm được hiện tại hóa trong bí tích. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là “ngày hôm nay của phụng vụ”
(le hodie liturgique).
Chính Thánh Thần tạo nên ngày hôm nay của phụng vụ, vì Ngài là khả năng
hiệp thông mạnh mẽ đến nỗi vượt mọi biên giới không gian và thời gian và làm
cho chúng ta thông phần ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang đến. Thánh Thần không làm cho quá khứ trở nên đồng thời với chúng ta,
nhưng làm cho chúng ta trở nên đồng thời với công trình cứu độ của Chúa Kitô.
Nhờ
Chúa Thánh Thần mà phụng vụ thực sự là lịch sử (không chỉ là tưởng niệm lịch
sử), do đó mở ra cho hiện tại và hướng tới tương lai ;
tất cả lịch sử trở thành phụng vụ của Thánh Thần.
3. Chiều kích Giáo Hội.
Phụng
vụ là lời cầu nguyện của Chúa Thánh Thần và Giáo Hội là Hôn Thê hướng tới Chúa Kitô : “xin hãy đến”, và là lời đáp trả của Chúa Kitô bảo
đảm sự hiện diện của mình : “Ta kíp đến”. Chính Đức Kitô được
Chúa Thánh Thần làm cho hiện diện (khẩn nguyện hiến thánh), trở nên Đấng ban
phát Thánh Thần (khẩn nguyện hiệp thông).
Giáo
Hội khẩn cầu Chúa Cha sai Thánh Thần đến làm cho Chúa Kitô hiện diện trong Mình
Thánh và trong Nhiệm Thể, và đó là lời cầu nguyện “trong Thánh Thần” nên luôn
được Chúa Cha chấp nhận.
4. Chiều kích thần nhiệm.
Thánh Thần là bộ mặt vô hình của buổi cử hành. Ngài tự biểu lộ bằng cách ẩn giấu mình trong Chúa Kitô và trong
Giáo Hội. Ý nghĩa sự hiện diện của Ngài nằm trong sự
hiện diện khác, đó là sự hiện diện của Chúa Kitô cho Giáo Hội và của Giáo Hội
cho Chúa Kitô. Chúa Kitô là Hôn Phu, Giáo Hội làHôn Thê
và Thánh Thần là tình yêu giữa Hôn Phu và Hôn Thê.
Chính
vì thế, lời đáp trả đầu tiên cho sự hiện diện của Thánh Thần, cho tiếng nói của
Hôn Phu là sự thinh lặng đầy tình yêu, một sự thinh lặng khẩn cầu, được Thánh
Thần linh hoạt, làm cho Ngôi Lời được sinh ra trong lòng Giáo Hội và các tín
hữu.
C. CHÚA THÁNH THẦN TRONG PHỤNG
VỤ BÍ TÍCH.
Nếu Giáo Hội là Bí tích mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô trong Chúa
Thánh Thần, các bí tích không có tác dụng gì khác hơn là thông truyền mầu nhiệm
Khổ Nạn - Phục Sinh của Chúa.
1. Bí tích Thánh Thể là luơng thực thần
linh.
Trong
bí tích Thánh Thể, truyền thống Latinh nhấn mạnh đến Mình và Máu Đức Kitô là
của ăn cho chúng ta. Chúa Kitô hiện
dưới hình bánh và hình rượu nuôi dưỡng chúng ta. Điều
đó được thể hiện nhờ lời truyền phép. Truyền thống
Latinh dựa trên Ga 6, 53 và 1Cr 11, 27-29. Dù vậy cả
Augustinô và Tôma đều nhấn mạnh đến đức tin và lòng mến trong việc kết hiệp với
Đức Kitô Thánh Thể.
Truyền thống Đông phương có một ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần trong bí tích Thánh Thể. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta không
những lãnh nhận Mình và Máu Đức Kitô, mà lãnh nhận cả Thần Khí của Ngài. Trong
một bài giảng tuần thánh, thánh Ephrem trình bày về việc thành lập bí tích
Thánh Thể như sau :
“Ngài
gọi bánh là thân mình sống động của mình, Ngài làm cho bánh đầy bản thân và
Thần Khí của Ngài... Ai ăn bánh ấy với đức tin, thì ăn lửa và Thánh Thần cùng
với bánh... tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn ; hãy ăn Thánh Thần cùng với
bánh... Ngài hiến thánh chén, chúc tụng, đổ vào đó đầy Thánh Thần và trao cho
các môn đệ...”
Có một
đoạn thánh thi của Giáo Hội Đông phương diễn tả rất sống động và sâu xa mầu
nhiệm này :
Lửa và
Thánh Thần trong lòng dạ Mẹ Ngài,
Lửa và
Thánh Thần trong nước sông Giođan,
Lại lửa
và Thánh Thần trong Phép Rửa của chúng ta,
Lửa và Thánh Thần trong bánh và chén.
Théodore
de Mopsueste thì so sánh việc truyền phép với việc Chúa Giêsu được xức dầu :
bánh và rượu như được xức dầu Thánh Thần, trở nên Mình và Máu Thánh Đức
Kitô, bất tử, bất hoại, giống như thân
xác phục sinh của Đức Kitô (Hom. Cath. 16. 11s). Sự
sống mới do phục sinh cũng được Thánh Thần thực hiện nơi các kitô-hữu thông
phần mầu nhiệm Thánh Thể. Thánh Thần cũng được ban như trong ngày lễ Ngũ Tuần.
Ngoài ra trong phụng vụ Byzantin, có nghi thức zeon cũng có ý nghĩa biểu tượng
rất sâu xa : phó tế đổ một chút nước nóng vào Máu
thánh trước phần hiệp lễ. Có Người cho rằng nghi thức này nhắc lại “máu và nước
chảy ra từ cạnh sườn Chúa”. Người khác cho rằng nó nhắc tới
các lưỡi lửa xuống trên đầu các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần.
Là
lương thực thần thiêng và là thân mình bí tích của Chúa Kitô trong quyền năng của
Chúa Thánh Thần, bí tích Thánh Thể làm cho Cộng Đồng Giáo Hội trở nên Nhiệm Thể
của Đức Kitô Phục Sinh. Và đó là ý nghĩa của lời khẩn nguyện
hiệp thông.
2. Phép Rửa và phép Thêm Sức
: sự sống mới trong Thánh Thần.
Điều quan trọng nhất trong phép Rửa là Thánh Thần, nhờ đó nước tạo ra
những hậu quả (Chrysost. In Act. Apost. Hom. 1,
5). Các kitô-hữu tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Ga
3, 5), họ được thanh tẩy trong một Thần Khí độc nhất để làm nên một Thân Mình
độc nhất (1Cr 12, 13), họ được thanh tẩy, được hiến thánh và được công chính
hóa nhân danh Đức Giêsu Kitô và trong Thánh Thần Thiên Chúa (1Cr 6, 11).
Chúa Thánh Thần làm cho nước trở thành tạo vật mới có khả năng thánh
hóa, để các kitô-hữu được tái sinh trong đó.
Giếng rửa tội được coi như lòng
dạ của Mẹ Giáo Hội sinh ra những Người con cho Thiên Chúa, những Người anh em
cho Chúa Kitô. Nhưng sự sinh ra ấy chỉ được thể hiện trong
Thánh Thần là môi sinh thánh thiện siêu phàm. Sự sống
mà chúng ta lãnh nhận là một sự sống siêu nhiên, không ngừng lớn lên và hướng
về sự sống bất diệt của Thánh Thần.
Phép Rửa được hoàn tất nhờ phép Thêm Sức. Cả hai bí tích này đều nhằm
đồng hóa chúng ta với cùng một Đức Kitô nhờ cùng một Thần Khí. Vậy
sao cần tới hai bí tích ? Theo thánh
Tôma, phép Rửa là bí tích chỉ sự sinh ra, phép Thêm Sức là bí tích chỉ sự lớn
lên và trưởng thành.
Để xác
định khía cạnh khác biệt và liên tục giữa phép Rửa và phép Thêm Sức, có thể
liên tưởng tới hai lần Đức Kitô ban Thánh Thần cho các môn đệ
: lần I, khi Ngài sống lại và hiện ra ; lần II vào ngày lễ Ngũ Tuần,
hoặc hai lần Thánh Thần can thiệp trên con người Đức Kitô, lần Ngài nhập thể,
lần Ngài chịu phép rửa. Như GH 11 chỉ dẫn, phép Thêm Sức bổ sung phép Rửa trong
ba chiều kích, chiều kích Giáo Hội,
chiều kích Thánh Linh, chiều kích Truuyền Giáo : “Nhờ ơn bí tích Thêm
Sức, họ gắn bó với Giáo Hội cách hoàn hảo hơn và được dư đầy sức mạnh đặc biệt
của Chúa Thánh Thần, do đó họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền
và bảo vệ đức tin bằng lời nói và việc làm như những chứng nhân đích thực của
Chúa Kitô”.
3. Bí tích hòa giải và phép xức dầu bệnh nhân : Chúa Thánh Thần chiến thắng tội lỗi và bệnh tật.
Chúa Cha đã cho chúng ta trở
nên con cái của Ngài trong phép Rửa ; Ngài trung tín
đến cùng trong tình yêu, mặc dù tội lỗi có tách rời chúng ta ra khỏi Ngài :
hồng ân Thánh Thần còn mạnh hơn, và bí tích hòa giải là dấu chỉ rõ rệt. Sự yếu
đuối về thể lý và bệnh tật của con người cũng có thể trở thành cơ hội ân sủng và cứu độ.
a. Bí tích Hòa Giải.
Nước và
nước mắt không thiếu cho Giáo Hội : nước rửa tội, nước
mắt đền tội (Ambrosio, Epist. 41, 12). Hồng ân mà Đấng
Phục Sinh ban cho Giáo Hội là Thánh Thần để tha tội, nhưng Thánh Thần ấy cũng
là nguyên lý sự sống mới (Ga 20, 22).
Chính vì Thánh Thần làm nên tình bằng hữu giữa chúng ta và Thiên Chúa,
nên Thiên Chúa tha tội cho chúng ta nhờ Người (S. Thomas, Summa contra gent.
4.21.11). Nên đào sâu tương quan giữa Thánh Thần và ơn tha
tội : tội, chính là sự chết (Rm 6, 23 ; 7, 11), còn Thánh Thần là Đấng ban sự
sống (Ga 6, 63) ; tội là nô lệ, còn đâu có Thánh Thần, đó có tự do (2Cr 3, 17)
; các việc làm của xác thịt là ích kỷ và khép kín ; còn hoa quả của Thánh Thần
là tình yêu, niềm vui và bình an (Gl 5, 19-21). Chúa Thánh
Thần là sức mạnh cứu độ, thuyết phục con người nhận ra mình là kẻ có tội và
thúc giục hoán cải (Ga 16, 8). Thánh Thần không những ban ơn tha tội, mà
Ngài chính là ơn tha tội. Không đón nhận ơn tha tội là hoàn
toàn đóng kín với Thánh Thần (Mc 3, 39) và như thế là một sự sụp đổ toàn diện.
Một lối
nhìn Thánh-Linh-học về bí tích Hòa Giải giúp chúng ta thoát khỏi cá nhân chủ
nghĩa và quan điểm vụ luật ; giúp chúng ta nhìn bí tích như một biến cố vượt
qua, cùng với Đấng Phục Sinh vượt qua sự chết, đạt tới sự sống, như một biến cố
Giáo Hội, vì Chúa nói với các môn đệ, không với tư cách họ là những cá nhân,
nhưng với tư cách là Giáo Hội : “Hãy nhận lãnh Thánh Thần, các ngươi tha tội
cho ai...”. Chính trong môi trường hiệp thông Giáo Hội mà hối nhân tìm lại được
tương quan làm con Thiên Chúa. Chúng ta còn nhìn bí tích như một biến cố thuộc linh, chứ không phải thuần túy kỷ luật. Bí tích không chỉ có mục tiêu xoá tội, nhưng khơi dậy sự thay đổi
đời sống và đổi hướng tâm hồn về với Chúa Cha.
Trong Ordo Poenitentiae được Đức Phaolô VI cống bố ngày 02.12.1973,
Thánh Thần được nhắc tới hơn 20 lần. Ngài thúc đẩy hối nhân hoán cải ; Ngài ban cho
thừa tác viên ánh sáng và lòng mến, đặc biệt là khả năng biện biệt thần khí cần
cho thừa tác vụ. Trước lời xá giải có cả lời nguyện khẩn nài và cử chỉ đặt tay khẩn nguyện Thánh Thần.
Trong
bí tích Hòa Giải, Thánh Thần là Đấng sẵn sàng xót thương hơn là khắt khe ngặt
nghèo, làm cho sự hèn yếu của con người trở thành cơ hội để kinh nghiệm, để gặp
gỡ Đức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót của Chúa Cha giàu lòng thương xót
(Ep 2, 4).
b. Bí tích Xức Dầu.
Aân sủng của Chúa Thánh Thần diễn tả lòng nhân hậu của Chúa Cha đối với
sự mỏng dòn về phương diện thể lý cũng giống như đối với sự yếu đuối về phương
diện luân lý. Trong bí tích Xức Dầu, sức mạnh
của Chúa Thánh Thần làm cho bệnh nhân thông phần cuộc khổ nạn cứu thế của Đức
Kitô chiến thắng sự chết.
Theo
Tin Mừng Luca, từ nơi con người Đức Giêsu có một sức mạnh chữa lành tất cả. Sức
mạnh ấy là Chúa Thánh Thần (Cv 10, 38 : Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng
mà xức dầu cho Người). Quyền năng đó, Đức Giêsu đãban cho
các môn đệ, để “các ông trừ được nhiều
quỷ, xức dầu cho nhiều Người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (Mc 6, 13).
Gc 5, 14-15 nói đến việc xức dầu nhân danh Chúa và cầu nguyện cho Người bệnh,
được Công Đồng Trentô giải thích như sau : “Việc
xức dầu diễn tả cách rất phù hợp ân sủng của Thánh Thần giống như dầu mà linh
hồn bệnh nhân được xức cách vô hình” (DS 1695).
Mô thức
của bí tích Xức Dầu cũng cho thấy rõ ơn Thánh Thần được thông ban cho bệnh nhân
qua việc xức dầu : “Nhờ
việc xức dầu thánh này, và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa - xin Chúa dùng ơn
Chúa Thánh Thần mà giúp đỡ con”.
Bệnh nhân được Thánh Thần thúc đẩy dâng sự đau khổ kết hiệp với cuộc khổ
nạn của “Đấng nhờ Thần Khí Hằng Có mà
hiến mình làm lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa” (Dt 9, 14).
Thân xác bệnh nhân được xức dầu là “đền
thờ của Chúa Thánh Thần” (1Cr 3, 16-17) đã nhiều lần lãnh nhận lương thực
trường sinh là Mình Thánh Đức Kitô sống
động nhờ Thánh Thần và có khả năng làm cho sống. Trong bí tích Xức Dầu, Thánh
Thần đảm nhận sự rên xiết của bện nhân và biến thành lời cầu nguyện (Rm 8,
26-27) giống như lời cầu của Chúa Giêsu
trên thập giá (Lạy Chúa, 23, 34).
Việc cử
hành bí tích Xức Dầu khai mở chân trời cánh chung ; Thánh Thần ban cho những
khai ân của Phục Sinh : “Nhờ sự hiện diện
sống động của Đấng Phục Sinh và Thần Khí của Người, việc xức dầu là dấu chỉ hữu
hiệu cho việc hội nhập sau
cùng và dứt khoát vào
mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa (CEI 146).
4. Bí tích Hôn Phối và bí tích Truyền Chức : Thánh Thần để xây dựng Giáo Hội.
Để được
xây dựng và để triển nở, Giáo Hội phải cần có ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần,
Đấng đáp ứng nhu cầu của Giáo Hội bằng bí tích Hôn Phối để thánh hóa tình yêu của đôi bạn và thiết lập
một “Giáo Hội tại gia”, bí tích
Truyền Chức để hiến thánh công việc phục vụ của các mục tử, làm cho trở nên
dụng cụ hữu hiệu của tình yêu của Đức Kitô Mục Tử.
a. Bí tích Hôn Phối.
Khía
cạnh hiệp thông trong Giáo-Hội-học của Vatican II đã ảnh hưởng khá nhiều trên
thần học về bí tích Hôn Phối :
“Nhờ sức thiêng của bí tích hôn phối, các
đôi vợ chồng Kitô-giáo biểu hiện và tham dự mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu
phong phú giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (x. Ep 5, 32) ; họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn
nhân, trong việc đón nhân và giáo dục con cái nên thánh ... Từ sự kết hợp ấy
phát sinh ra gia đình, nơi các công dân mới của xã hội loài Người được sinh ra,
và nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần trong phép Rửa, họ trở nên con cái của Thiên
Chúa... Trong gia đình như một giáo hội nhỏ, ước gì cha mẹ là những Người đầu
tiên dùng gương lành và lời nói mà truyền dạy đức tin cho con cái...” (GH 11).
Gia
đình Kitô-giáo sinh ra từ Chúa Thánh Thần : đó là hồng
ân của Thánh Thần, làm cho đôi bạn được hiến thánh (MV 48). Gốc
rễ cơ bản nhất làm nảy sinh cộng đoàn tại
gia không phải là tình yêu của các thành viên, nhưng là Chúa Thánh Thần,
Tình Yêu làm cho nên một.
Thánh
Thần là Đấng làm cho Chúa Cha và Chúa Con nên một, làm cho nhân tính và thần
tính Đức Kitô nên một, làm cho các kitô-hữu và Đức Kitô nên một. Thánh Thần nhào nặn Giáo Hội, làm cho trở nên một gia đình, thì
cũng làm cho gia đình giống như một giáo hội. Tương
quan giữa gia đình và Giáo Hội không chỉ là tương quan pháp lý và xã hội, mà là
tương quan bí tích và siêu nhiên. Gia đình là giáo hội theo một nghĩa
nhất định : trong gia đình phải có một số yếu tố của
Giáo Hội. Nhờ tình yêu hiệp nhất và sống động của Chúa Thánh
Thần, gia đình là hiệp thông tình yêu, giống
như Giáo Hội là Hôn Thê và là Mẹ nhờ Thánh Thần làm cho nên một với Đức Kitô
(Phaolô VI, LBTM 17).
Hôn
nhân gia đình là công việc của Chúa Thánh Thần. Trong các sách nghi thức hôn
phối sau Công Đồng Trentô có đề nghị Thánh Lễ Chúa Thánh Thần để chuẩn bị cho
hôn phối, ngoài ra còn có những lời khẩn nguyện cầu xin Chúa Thánh Thần xuống
trên nhẫn cưới, hoặc có nghi thức đặt tay trên đầu của đôi bạn hai lần. Trong các nhà thờ của Giáo Hội Đông phương, cao điểm của buổi cử
hành hôn phối là việc đặt triều thiên lên đầu đôi bạn, biểu tượng cho việc lãnh
nhận Thánh Thần.
Như vậy
có thể nói rằng mầu nhiệm lớn lao (Ep
5, 32) của tình yêu hôn nhân là công việc của Chúa Thánh Thần, không những khởi
đầu và luôn được nuôi dưỡng, mà còn được nhào nặn để trở nên hiển linh của Chúa Thánh Thần (1Cr 2,
4), hiển linh của Đấng được mệnh danh là nụ
hôn giữa Chúa Cha và Chúa Con, Đấng là hôn
ước giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
b. Bí tích Truyền Chức.
Chính Thánh Thần đặt các kỳ mục coi sóc các đoàn chiên (Cv 20, 28). Trong
cả ba cấp bậc tư tế theo truyền thống Latinh cũng như Đông phương, đều có lời
khẩn nguyện và việc đặt tay như là cử chỉ thông ban Thánh Thần. Theo tác phẩm Traditio apostolica của Hippolyte, trong
nghi thức truyền chức giám mục, chủ tế và các giám mục đồng tế đặt tay trên đầu
người được tuyển chọn, mọi người cầu nguyện trong thinh lặng nài xin Thánh Thần
xuống trên tân chức. Liền sau đó, chủ sự đọc lời nguyện :
“Lạy Cha, xin hãy tuôn đổ sức mạnh của Cha,
mà Thánh Thần mà Cha đã ban cho Con yêu dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô và Đức
Kitô đã ban cho các Tông Đồ, là những Người lập ra Giáo Hội...”.
Theo
nghi thức phong chức của sách Pontificale được Đức Phaolô VI cho canh tân, dấu
chỉ cốt yếu của bí tích là việc đặt tay và lời khẩn
nguyện hiến thánh. Linh mục thực sự là một người được hiến
thánh cho Thiên Chúa trong Thánh Thần.
Quan điểm nhấn mạnh sự hiện diện của Thánh Thần làm cho chúng ta không
thể coi thừa tác vụ như là sở hữu quyền hành. Hành vi bí tích không phải là hành vi riêng của thừa tác viên,
nhưng là hành vi của Đức Kitô và Giáo Hội. Quan niệm của Phaolô trong thư Rôma
là mẫu mực cho chúng ta về thừa tác vụ thánh :
“... Aân sủng của Thiên Chúa đã ban cho tôi
làm Người phục vụ Đức Giêsu Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự và rao giảng
Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên
lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15, 16).