ĐỨC GIÊSU TRƯỚC KHI CÓ KITÔ-GIÁO
MỘT NỖ LỰC HIỆN ĐẠI TRỞ VỀ
VỚI ĐỨC GIÊSU LỊCH SỬ
.

(JESUS BEFORE CHRISTIANITY - Albert Nolan)

LM Micae Trần Đình Quảng

I. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM.

Đây là một tác phẩm được in đi in lại nhiều lần kể từ ấn bản đầu tiên năm 1976 (Ấn bản chúng ta khảo sát là ấn bản năm 1992 đã được sửa chữa). Nhà thần học Harvey Cox coi đây là một "sự tái tạo vắn tắt chính xác nhất và quân bình nhất về cuộc đời của Đức Giêsu lịch sử".

Tác giả là một linh mục dòng Đa Minh sống ở Nam Phi. Vào thời điểm tác phẩm được xuất bản, Nam Phi là quốc gia giàu có nhất Châu Phi, nhưng chỉ có một thiểu số da trắng nắm giữ toàn bộ quyền lực kinh tế và chính trị. Đây cũng là quốc gia duy nhất trên hành tinh thực hiện chế độ phân biệt chủng tộc (apartheid), hợp thức hóa sự phân chia bất công giữa các chủng tộc và thành phần xã hội về tất cả các lãnh vực đời sống. Nhà nước dùng bạo lực giải tán hoặc dẹp tan bất cứ hình thức nổi dậy đấu tranh nào.

Chính trong bối cảnh này mà tác phẩm "Đức Giêsu trước khi có Kitô-giáo" ra đời. Tác giả muốn gửi sứ điệp cho các nước thuộc thế giới thứ ba (như ông đề ở trang đầu sách), là những nước có những điều kiện ít nhiều giống như trên. Ông nói cho chúng ta về một thế giới thường xuyên cảm nghiệm đến giới hạn cuối cùng sự kinh hoàng và phi lý của các mâu thuẫn xã hội.

Nhưng tác giả cũng muốn nhấn mạnh rằng đã có một người nhân danh Thiên Chúa lên tiếng giải phóng cho con người đương thời và cho cả nhân loại. Người đó là Giêsu Nazareth, một Giêsu có trước và ở trên Kitô-giáo. Dựa vào hoàn cảnh ông sống và vào kết quả của khoa chú giải hiện đại, tác giả giúp ta nhìn Đức Giêsu bằng con mắt của người đồng thời với Ngài. Ông muốn giới thiệu Đức Giêsu trong thực tế làm người trước khi Ngài trở thành đối tượng của niềm tin Kitô-giáo. Trong một hoàn cảnh có nhiều bất công và tai họa thời ấy, Đức Giêsu đã chọn lựa thế nào, đấu tranh thế nào, tâm tình của Ngài đối với Thiên Chúa và con người ra sao.

Tìm hiểu một Đức Giêsu như thế để làm gì ? Như tác giả nói trong phần dẫn nhập, tác phẩm của ông không nhằm đi tìm sự thật lịch sử về Đức Giêsu. Điều ông quan tâm là những nỗi khổ đau hằng ngày của biết bao nhiêu người. Thế nên ông muốn đề ra một cách đáp ứng. Như vậy, tác phẩm có một mục đích rất thực tiễn.

II. NỘI DUNG TỒNG QUÁT.

Ngoài phần dẫn nhập, sách gồm 4 phần. Sau phần nói về tai họa của thời đại là 2 phần trình bày hành động và lời rao giảng của Đức Giêsu. Phần cuối bàn về sự đụng độ giữa Đức Giêsu và quyền lực đương thời.

Trong phần I, trước hết tác giả cho biết cách ông tiếp cận với Đức Giêsu lịch sử : không dựa trên ý kiến tiên thiên, nhưng căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử hôm nay để tìm hiểu sự thật về Đức Giêsu (hoặc, nói chung, sự thật của quá khứ). Vậy hoàn cảnh hiện nay như thế nào ? Có những tai họa lớn đe dọa sự sống còn của cả hành tinh. Và người ta lo sợ không có cách giải quyết chúng. Đức Giêsu cũng đã từng phải đương đầu với một vấn đề như thế, tuy ở một tầm mức nhỏ hẹp hơn. (Ở thời đại Ngài, người ta nghĩ rằng tận thế sắp đến nơi). Trong bối cảnh đại họa đó, Đức Giêsu đã dấn thân, hướng về cuộc giải thoát toàn diện và sự hoàn thành vận mệnh của con người. Vậy chính hoàn cảnh đầy tai họa hiện nay cho phép ta nhìn về Đức Giêsu một cách thật mới mẻ và bất ngờ, để có thể biết Ngài muốn nói gì với ta lúc này (ch.I).

Đức Giêsu đã dấn thân ra sao ? Đã chọn lựa và quyết định làm gì ?

Điều quan trọng là cần biết chính những lời Đức Giêsu nói và những việc Ngài làm (ipsissima vox et facta). Nhưng điều quan trọng hơn là khám phá ra ý định nguyên thủy của Ngài (ipsissima intentio). Biết các lời nói và việc làm, việc đó chỉ có giá trị trong mức độ chúng cũng giúp ta khám phá ra những ý định nguyên thủy của Đức Giêsu (tr.14).

Tác giả lấy ngay sự kiện khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu : Ngài đã chọn để Gioan làm phép rửa cho mình. Sự kiện này ít ra cho thấy Đức Giêsu quyết định đi với Gioan Tẩy Giả hơn là với bất cứ nhân vật hay phong trào nào khác của thời ấy. Và hiểu được Gioan khác những người đương thời ở chỗ nào tức là nắm được đầu mối giúp định hướng tư tưởng của Đức Giêsu. Gioan khác với mọi hạng người đương thời. Ông là một ngôn sứ, cảnh cáo về tai họa sắp đến, tuyên bố có một người sắp nhân danh Thiên Chúa xét xử Israel, nhưng cũng loan báo ơn Thiên Chúa cứu độ. Lời cảnh cáo cũng như lời hứa hướng tới toàn dân và từng người. Họ phải hối cải thật lòng, qua việc lãnh nhận phép rửa của Gioan.

Lúc ấy Gioan là nhân vật duy nhất gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giêsu. Thế nên Ngài đã hưởng ứng lời ông, và để ông làm phép rửa cho mình. Cũng như Gioan, Ngài ý thức một cuộc tàn phá sẽ xảy ra cho người Dothái, vì họ đụng độ với người Rôma.

Có những lần Đức Giêsu tiên báo thảm họa sẽ xảy đến cho Giêrusalem (Lc 19,43-49 ; 21,20-24...). Nhiều nhà chú giải không mấy quan tâm tới những đoạn văn về lời tiên báo này, vì cho rằng chúng chỉ được viết thêm vào, sau khi thảm họa đã xảy ra năm 70 (vaticinia ex eventu). Nhưng những nghiên cứu mới đây cho thấy không phải như thế. C.H.Dodd (trong cuốn The fall of Jerusalem and the abomination of desolation, Journal of Roman studies, 1947, pp. 47-75) dẫn chứng rằng không thể nói các đoạn văn đó đã được viết sau biến cố năm 70, vì chúng mô phỏng những lời tham chiếu của Thánh Kinh về cuộc sụp đổ của Giêrusalem năm 586 trước Công Nguyên, chứ không ám chỉ tới biến cố năm 70 (tr.22-23).

Cuộc tàn phá này được coi như sự xét xử của Thiên Chúa. Viễn ảnh đó khiến Đức Giêsu phải rơi lệ (Lc 19,41). Vậy Ngài làm gì ? (ch.II).

Sang phần II, tác giả nói đến hành động này của Đức Giêsu. Ở đây, sự lựa chọn của Ngài khác với của Gioan : Không làm phép rửa, nhưng đi tìm các chiên lạc nhà Israel. Những người này thuộc thành phần hạ đẳng trong xã hội, gọi chung là những người nghèo khổ và bị áp bức, mà Tin Mừng quen gọi là đám đông.

Sự đau khổ của người nghèo không ở chỗ thiếu thốn, đói khát cho bằng phải chịu xấu hổ và nhục nhã. Càng nhục nhã, vì ở Trung Đông, danh giá vinh dự quan trọng hơn cái ăn, hơn ngay cả sự sống. Người nghèo là người phải lệ thuộc người khác, không danh giá, không vinh dự. Cuộc đời của họ vô nghĩa. Đó là lý do tại sao trong Tin Mừng, "nghèo" có thể hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả những ai bị áp bức, những người lệ thuộc vào sự thương hại của người khác. Đó cũng là lý do tại sao "nghèo" có thể bao gồm tất cả những ai hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa, gọi là người có tinh thần nghèo khó (Mt 5,3 - tr. 29). Đặc biệt người nghèo khổ và bị áp bức lại dễ mắc bệnh. Mà bệnh tật là do thần dữ gây ra, được coi là tai họa Thiên Chúa gửi đến để phạt vì tội lỗi của đương sự, hoặc của một ai trong gia đình hay tổ tiên của đương sự (tr.32).

Tác giả mô tả khá chi tiết những hạng người này, những người làm nên đại đa số dân chúng, nhưng thường ra lại không được lịch sử biết đến. Điều đáng nói là, tuy xuất thân từ giai cấp trung lưu, không phải chịu những thiệt thòi đáng kể, nhưng Đức Giêsu lại trà trộn với giai cấp hạ đẳng, đồng hóa mình với họ. Ngài chọn làm một người sống ngoài lề như họ, vì thương xót nuốn giúp đỡ và cứu vớt họ (ch.III).

Khi chữa lành các bệnh tật, Đức Giêsu làm khác với các thày thuốc hay phù thủy. Không bao giờ Ngài dùng bùa chú. Chủ yếu là dựa vào đức tin nơi bệnh nhân.

Đức Giêsu không nói, hoặc ít nhất không minh nhiên nói rằng người bệnh đã được Thiên Chúa chữa lành, nhưng nói : "Đức tin của ngươi đã chữa ngươi" (Mc 5,34). Lời quả quyết này thực sự làm người ta phải ngạc nhiên. Như bất cứ một người Dothái đạo đức nào, Đức Giêsu biết rằng "Mọi sự đều có thể cho người tin". (Mc 9,23). Người có đức tin trở nên giống Thiên Chúa, làm gì cũng được. Đối với Đức Giêsu, đức tin là một quyền năng tuyệt vời, một quyền năng có thể làm điều không thể làm. Đức tin là một sự xác tín tốt và thật, xác tín rằng một điều gì đó có thể và sẽ xảy ra, vì nó tốt và thật, xác tín rằng cái tốt có thể và sẽ chiến thắng cái xấu. Nói khác đi, là xác tín rằng, Thiên Chúa tốt với con người, rằng Ngài có thể và sẽ chiến thắng mọi sự dữ. Quyền năng của đức tin chính là quyền năng của sự thiện và sự thật. Mà đây lại chính là quyền năng của Thiên Chúa (tr.38-39).

Đức Giêsu làm nhiều phép lạ chữa bệnh cho dân.

Phép lạ thường được coi là những sự kiện xảy ra ngược với các định luật của thiên nhiên, và vì vậy không thể giải thích chúng dựa vào khoa học hay lý trí. Nhưng đây hoàn toàn không phải là điều Thánh Kinh muốn nói qua phép lạ. Định luật của thiên nhiên là một khái niệm khoa học ngày nay. Thánh Kinh không nói đến tự nhiên và những định luật của thiên nhiên. Thế giới là tạo thành của Thiên Chúa. Mọi điều xảy ra trên thế giới, bình thường hay khác thường, đều do Thiên Chúa quan phòng. Thánh Kinh không phân chia biến cố thành tự nhiên và siêu nhiên. Cách này hay cách khác, Thiên Chúa ở đàng sau mọi biến cố. Hơn nữa, những định luật của thiên nhiên tuy quan trọng nhưng không phải là tiêu chuẩn để quyết định điều gì là phép lạ hay không là phép lạ. Rất có thể những sự tích phép lạ trong Tin Mừng bao gồm cả những điều khởi thủy không phải là phép lạ hay hiện tượng lạ lùng gì cả. Tuy vậy, điều chắc chắn là Đức Giêsu đã làm những phép lạ, đã trừ quỷ, đã chữa bệnh một cách hoàn toàn khác thường (tr.40-43).

Thế nhưng các tác giả Tin Mừng, dù thích tìm cho được khía cạnh lạ lùng có thể có trong các sự việc, vẫn ghi nhận rằng Đức Giêsu rất dè dặt trong việc làm phép lạ, và từ chối khi người ta đòi hỏi nó. Ngài coi đòi hỏi như thế là thiếu lòng tin và là đòi hỏi của ma quỉ (ch.IV).

Khi đứng về phía người nghèo, Đức Giêsu đã thực sự chung đụng với họ, đồng bàn với họ. Qua cử chỉ này, Ngài giúp họ thoát khỏi mặc cảm xấu hổ, nhục nhã, tội lỗi. Khi tỏ cho họ biết rằng, đối với Ngài, họ là những con người được tôn trọng, thì Ngài giúp họ ý thức về phẩm giá con người. Về phía họ, vì thấy Đức Giêsu được người ta coi như một người của Thiên Chúa và một ngôn sứ, họ có thể giải thích cử chỉ thân tình của Ngài như một cử chỉ chứng tỏ chính Thiên Chúa chấp nhận họ, gián tiếp tha thứ tội lỗi của họ. Hành vi đồng bàn của Chúa, sự kiện các bệnh tật được chữa lành, họ đều hiểu như dấu chỉ của ơn tha tội. Do đó mà họ vui, vui cùng với Đức Giêsu là người giải thoát họ (ch.V).

Trên đây là hành động của Đức Giêsu đối với người nghèo khổ và tội lỗi. Trong phần III, tác giả đề cập đích danh lời rao giảng Tin Mừng của Ngài : về Nước Thiên Chúa, đối chiếu nó với những quyền lực của thế gian như tiền bạc, danh giá, quyền hành.

Loan báo Tin Mừng cũng là một thành phần của công trình giải thoát. Nội dung của nó là Nước Thiên Chúa đã đến, đến cho người nghèo khổ và bị áp bức. Nền tảng của nó là các mối phúc (Lc 6,20). Nước Thiên Chúa này ở ngay giữa thế gian, khi người nghèo không còn nghèo, người bị áp bức thoát ách khốn khổ.

Lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa làm cho người ta hy vọng. Nhưng lúc ấy, niềm hy vọng này không liên quan gì đến cõi trời, ít nhất được hiểu như một cõi hạnh phúc ở đời sau. Vì sao ? Vì trời là của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa ngự. Con người không thể tới đó được. Sau khi chết, người ta phải vào Shéol, thế giới dưới mặt đất. Nơi đây chia thành 2 khu vực, một dành cho người tốt, một dành cho người xấu (x. Lc 16,23-26). Niềm tin của Kitô-giáo vào cõi trời chỉ bắt nguồn từ sau cái chết của Đức Giêsu, vì nghĩ rằng Ngài đã được đưa lên ngự bên hữu Thiên Chúa.

Vậy Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng không phải là một thực thể ở trên trời, nhưng là một tình trạng tương lai ở thế gian, khi người nghèo không còn nghèo, người áp bức không còn bị áp bức. Nó được biểu thị bằng một ngôi nhà hay một đô thị có tường thành bao quanh (Mc 3,23-25. 37 ; Mt 12,25).

Qua những cách nói này, chắc hẳn Đức Giêsu đã nghĩ về một xã hội có cơ cấu chính trị, theo chế độ quân chủ, ngay trên mặt đất này. Lời Ngài nói "Nước của tôi không thuộc thế gian" không có nghĩa là nước đó hiện hoặc sẽ không ở trong thế gian này. Phải hiểu lời đó theo cách sử dụng từ của Gioan. Trong Gioan (17,11-14.16), Đức Giêsu nói Ngài và các môn đệ đều ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Cũng phải hiểu như vậy về Nước Thiên Chúa : Nước Thiên Chúa ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, vì các giá trị của nó khác và ngược với các giá trị của thế gian (tr.57-60).

Đối lập với Nước Thiên Chúa là các nước thiên hạ, và nhất là nước của Satan. Satan dùng tay chân là những nhà cầm quyền tàn ác để thống trị người nghèo. Đức Giêsu coi hành động giải thoát của Ngài như một việc chiến đấu giành quyền, chống lại Satan. Ngài cũng xác tín rằng Nước Thiên Chúa sẽ có ngày chiến thắng nước Satan, thay thế nó ngay trên mặt đất này. Thay là đem các giá trị tốt thế vào các giá trị xấu. Vậy đâu là các giá trị xấu của thế gian phải được thay thế bằng các giá trị tốt của Nước Thiên Chúa ? (ch.VI).

(Từ chương VII đến chương X, tác giả nói lên sự khác biệt giữa Nước Thiên Chúa và nước thế gian).

Thế gian coi tiền bạc là chủ. Nếu muốn tìm kiếm Thiên Chúa và Nước của Ngài thì phải loại trừ chủ này. Người giàu chỉ có thể vào Nước Thiên Chúa nếu họ biết từ bỏ của cải (Mc 10,17tt). Nói đúng ra, của cải phải từ bỏ hay bán đi là những cái thặng dư và không được coi sự gì là của riêng (Cv 4,32 ; 44-46). Hơn nữa, phải biết chia sẻ chứ không thuần túy bố thí (ch.VII).

Thế gian coi trọng danh giá. Ở Đông Phương, danh giá còn được coi trọng hơn cả tiền bạc. Người không có địa vị danh giá là người cùng đinh trong xã hội, bị khinh miệt. Đức Giêsu tố giác sự phân biệt giai cấp này, cho thấy phải đặt lên hàng đầu phẩm giá con người, chứ không phải danh giá hay địa vị. Có thể thấy thí dụ trong việc Ngài lên án người Biệt phái tìm danh giá nơi dân chúng. Đó là hạng người đạo đức giả. Không có chỗ cho họ trong Nước Thiên Chúa, nơi không còn phân biệt đẳng cấp, nơi mỗi người được yêu thương tôn trọng trong tư cách con người, nơi dành cho những ai hoán cải nên như con trẻ, tức những người không địa vị, không thế giá, trong đó cụ thể là những người nghèo khổ và bị áp bức.

Khi dạy người ta hoán cải nên như con trẻ để có thể vào Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu không có ý đề cao trẻ em vì chúng ngây thơ, vô tội, thật thà. Ngài hiểu chúng cũng có những lúc ngang bướng, điều mà Ngài có lần nhắc đến trong một dụ ngôn, trong đó nhóm Biệt phái được so sánh với những đứa trẻ chơi ngoài công trường, không biết múa theo tiếng sáo, không biết khóc theo tiếng than van (Lc 7,31-32). Trẻ em ở đây là hình ảnh sống động về sự nhỏ bé, thấp kém, trái với cao sang, địa vị, danh giá, nên là biểu tượng của tất cả những ai có địa vị thấp kém nhất trong xã hội, và của những người biết từ bỏ mọi tham vọng về danh giá, địa vị (tr.69).

Vậy cũng như việc từ bỏ của cải, người ta cũng phải từ bỏ ước muốn được danh giá, địa vị, saün sàng làm tôi tớ mọi người (ch.VIII).

Thế gian có biết đến sự liên đới, yêu thương, nhưng là sự yêu thương cục bộ trong phạm vi quốc gia, chủng tộc, phe nhóm, nhất là gia đình họ hàng. Nhưng trong Nước Thiên Chúa, sự liên đới yêu thương này phải được thực hiện với mọi người và từng người, bất kể là ai, thậm chí với cả kẻ thù. Liên đới với cả nhân loại là một thái độ cơ bản, vượt lên trên bất cứ hình thức yêu thương hay liên đới nào khác.

Luca có ghi lại lời Đức Giêsu nói : "Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình, và cả mạng sống mình nữa, ắt không đáng làm môn đệ của Ta" (Lc 14,26). Các nhà chú giải luôn cho rằng, vì ngôn ngữ Dothái Aram nghèo nàn, nên tiếng "ghét" được sử dụng để chỉ tất cả những thái độ không phải là yêu. Nó có thể có nghĩa là ghét, thờ ơ, dứt bỏ, không yêu một người nào hơn. Chúng ta biết, theo mạch văn, Đức Giêsu đòi hỏi sự dứt bỏ, tức là không được yêu gia đình hay người thân thuộc hơn. Điều này không sai, nhưng nếu chỉ hiểu như thế, chúng ta không đánh giá đúng cách suy nghĩ của Đức Giêsu và của các người đương thời.

Nếu như yêu có nghĩa là liên đới thì ghét là không liên đới. Đức Giêsu đòi sự liên đới gia đình phải được thay thế bằng một sự liên đới cơ bản hơn với mọi người. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải khai trừ người thân. Họ cũng được kể vào sự liên đới mới vì họ cũng là những con người. Cũng không có nghĩa là phải yêu người thân ít hơn yêu người khác. Ở đây, cái phải thay đổi chính là nền tảng của tình yêu. Người thân được yêu không phải vì họ là gia đình họ hàng của mình, nhưng vì họ cũng là những con người (tr.76).

Riêng thái độ yêu thương kẻ thù là một khía cạnh triệt để nhất, cách mạng nhất. Chính Đức Giêsu đã thực hiện một sự liên đới yêu thương như vậy (ch.IX).

Xã hội thế gian cần có quyền hành, luật lệ. Nhưng Satan đã biến quyền hành thành phương tiện thống trị và áp bức con người. Trong Nước Thiên Chúa, quyền hành là để phục vụ và giúp con người có thể sống tự do. Đối với lề luật (và truyền thống), được coi là phương tiện để các nhà lãnh đạo Dothái thi hành quyền, Đức Giêsu muốn giải thoát người ta khỏi nó, không phải bằng cách hủy bỏ hay sửa đổi, mà bằng cách đánh đổ cái ngai thống trị của nó, vì nó đã trở thành gánh nặng, trong lúc lẽ ra nó phải phục vụ con người (ch.X).

Đức Giêsu công bố Nước Thiên Chúa đến. Để hiểu kiểu nói "Nước Thiên Chúa đến", tác giả giải thích cách người Dothái hiểu về thời gian, khác với chúng ta hôm nay, để cho thấy rõ thời của Đức Giêsu, tuy trùng với thời của Gioan Tẩy Giả, nhưng là một thực tại hoàn toàn mới, khác hẳn thời của Gioan (ch.XI).

Chúng ta quan niệm thời gian như một khoảng cách có thể đo được bằng giờ phút tháng năm, không cần lưu ý đến nội dung của nó. Có thể gọi nó là thời gian số lượng (quantitative time). Còn người Dothái xưa nói và nghĩ về thời gian như một chất lượng (quality). Phải có nội dung. Phải biết nó là loại thời gian nào : thời của tiếng cười hay tiếng khóc, thời chiến hay thời bình... Thí dụ rõ ràng nhất là đoạn sách Giảng Viên 3,1-8. Thời của Gioan Tẩy Giả và thời của Đức Giêsu, xét như là thời gian số lượng thì kể như trùng với nhau, nhưng xét như là thời gian chất lượng thì khác hẳn nhau, như giữa cũ và mới, buồn và vui, phán xét và cứu độ. Tuy nhiên, hai thời đó không đối nghịch nhau. Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều cho thấy hành động của Thiên Chúa, nhưng các Ngài nói về những thời gian và hoàn cảnh khác nhau.

Tác giả khai triển khá dài quan niệm của người Dothái về thời gian, để giúp ta hiểu, chẳng hạn, vì sao Nước Thiên Chúa, thời cánh chung, vừa đang có lại vừa sẽ đến. (Xin đọc chính bản văn).

Sau đó, tác giả minh giải thêm ít điều về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không phải được xây dựng nên, ngay cả do Đức Giêsu, nhưng chỉ có thể đến, vì nó là hồng ân Thiên Chúa ban. Điều kiện làm cho nó có thể đến một cách cụ thể là hoán cải, tin, cậy, thương xót. Như vậy, hoặc Nước Thiên Chúa đến, hoặc thế vào đó là tai họa đến. Tất cả là do sự lựa chọn của con người. Nhưng dù tai họa có đến như đã xảy ra cho người Dothái năm 70, thì Nước Thiên Chúa cũng vẫn sẽ đến, bởi vì Thiên Chúa có tiếng nói cuối cùng (ch.XII).

Trong phần IV, tác giả cho thấy sự đụng độ của Đức Giêsu với các quyền lực chính trị và tôn giáo.

Một câu hỏi được đặt ra : Đức Giêsu có mưu lật đổ chính quyền Rôma không ? Thực sự, Ngài muốn Israel được giải thoát khỏi đế quốc Rôma, cũng y như tâm trạng của những người Zêlốt, Biệt phái, Essêni hay bất cứ ai khác. Theo các học giả, nhiều đoạn Tin Mừng trong Luca (đặc biệt kinh Benedictus) đã được chép lại từ một nguồn nguyên thủy gọi là Luca nguyên thủy (Proto-Luke) viết trước năm 70. Không giống với phần nhiều nguồn khác, Luca nguyên thủy này luôn ám chỉ cuộc giải phóng Israel về phương diện chính trị. Đây là niềm hy vọng của toàn dân. Đức Giêsu đáp ứng, nhưng chắc chắn không theo cách bạo động của phái Zêlốt. Ngài muốn giải phóng Israel bằng cách khuyên họ cải hóa nội tâm, khuyên họ quan sát những dấu chỉ thời đại (trong hoàn cảnh bấy giờ, những dấu chỉ này là dấu chỉ của một đại họa sắp xảy đến, x. Lc 12,54 ; 19,43 ; 17,37). Vì không thể thắng người Rôma bằng quân sự, nên cách duy nhất để được giải thoát khỏi kẻ thù là yêu thương kẻ thù. Đây không phải là chuyện cam lòng để người Rôma đô hộ. Đức Giêsu muốn nhắm tới nguyên nhân tận căn của mọi áp bức và thống trị, tức là không có lòng thương xót (tr.115-116).

Đụng độ chủ yếu là đối với giai cấp lãnh đạo Dothái-giáo. Không phải vì giới này cộng tác với đế quốc Rôma, nhưng vì họ thiếu lòng thương xót đối với các thành phần nghèo khổ. So với sự áp bức của quyền lực Rôma đang thống trị, sự áp bức của giới này còn tệ hại hơn (ch.XIII).

Ngoài những lời phê phán của Đức Giêsu dành cho họ, có một hành động cho thấy rõ hơn sự đụng độ này. Đó là việc Ngài đuổi các con buôn ra khỏi đền thờ. Các đầu mục coi sóc nhà Thiên Chúa hẳn có dính dấp vào việc buôn bán và đổi chác tiền bạc này, bằng cách cho phép hoặc có thể đồng lõa, để trục lợi. Việc xua đuổi con buôn chính là một hành vi tố cáo mạnh mẽ giới lãnh đạo Dothái-giáo. Nhưng cũng từ sau biến cố này, một số người tìm cách mưu hại Đức Giêsu, khiến Ngài không thể công khai hoạt động ở vùng Giuđêa (ch.XIV).

Trong giai đoạn này, có thể Đức Giêsu bị cám dỗ dùng bạo lực nắm lấy quyền hành, để mọi người nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, Vua dân Dothái.

Tác giả nêu ra 2 sự kiện để biện minh cho ý nghĩ trên : sự kiện 5000 người đàn ông tụ họp ở một nơi vắng vẻ để gặp Đức Giêsu và các môn đệ (Mc 6,30tt) ; sự kiện Phêrô muốn chống lại những điều Đức Giêsu tiên báo về số phận của Ngài (Mc 8,31t). Thực ra, Đức Giêsu có bị cám dỗ dùng bạo lực nắm lấy quyền hành đi nữa cũng không phải chuyện lạ. Ngài đã từng bị cám dỗ tương tự trong hoang địa. Thế nhưng, cũng như trong hoang địa, Ngài đã thắng cám dỗ của đám đông và của Phêrô (tr.132-134)

Đức Giêsu không phải là con người chủ hòa trên nguyên tắc. Ngài không bác bỏ bạo lực bất cứ dưới hình thức nào hay trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, đối với Ngài, trong hoàn cảnh thực tế lúc đó, dùng bạo lực để chiếm quyền là tự sát, là tai hại cho dân và vì thế trái với ý muốn của Thiên Chúa. Hơn nữa chấp nhận làm vua trên một dân không thi hành bổn phận của mình đối với Nước Thiên Chúa, và đưa dân ấy vào cuộc chiến, đó là làm công việc của Satan (Mt 4,8). Nhất là không thể dùng bạo lực thiết lập một vương quốc trong đó mọi người được giải phóng toàn diện (ch.XV).

Cũng như các ngôn sứ, Đức Giêsu thấy trước mình sẽ phải chịu khổ và chịu chết. Tuy nhiên, theo Ngài, cả đau khổ lẫn cái chết gắn liền với sự kiện Nước Thiên Chúa đến. Ngài tự nguyện chấp nhận đau khổ và cái chết là để phục vụ ơn cứu rỗi của mọi người. Chết là lối thoát duy nhất để theo đuổi công cuộc phục vụ này.

Vì sao lại là lối thoát duy nhất ? Không còn cách lựa chọn nào khác sao ? Chắc chắn Đức Giêsu biết rõ những nguy hiểm do những điều Ngài nói và làm mang lại. Hêrôđê đang tìm giết Ngài (Lc 13,31). Sau sự cố thanh tẩy Đền Thờ, nhiều người trong giới lãnh đạo cũng mưu hại Ngài (Ga 7,1). Ngài phải lựa chọn : hoặc sống lén lút hoặc xuất đầu lộ diện. Nếu sống lén lút, Ngài không thể gây cho người ta niềm tin vào Nước Thiên Chúa, như Ngài đã từng làm. Còn xuất đầu lộ diện để tiếp tục sứ vụ thì chắc chắn phải chết. Đức Giêsu đã chọn giải pháp thứ hai, và quả cảm đi lên Giêrusalem (Lc 9,51), bởi vì đó là cách duy nhất để tiếp tục phục vụ nhân loại, cách duy nhất để ngỏ lời với thế gian (Ga 7,2-4), cách duy nhất để làm chứng cho Nước Thiên Chúa. Việc làm nói nhiều hơn lời nói, nhưng cái chết còn nói nhiều hơn việc làm. Đức Giêsu đã chết để Nước Thiên Chúa có thể đến (tr.140-141) (ch.XVI).

Trước khi nói đến cái chết của Đức Giêsu, tác giả có một nhận định chung về Ngài, trong tư cách một con người, như một dung mạo vượt hẳn lên trên mọi nhân vật trước đó cũng như đồng thời, một con người có sự độc lập phi thường, sự dũng cảm tuyệt vời, sự trung thực vô song, rao giảng và hành động mà không cần quyền bính buộc người ta theo.

Khi giảng dạy, Đức Giêsu muốn cho người ta thấy điều Ngài đã thấy, tin điều Ngài đã tin. Nhưng Ngài xác tín về chân lý của những điều Ngài đã thấy và đã tin. Chính điều này làm cho người ta có cảm tưởng lời Ngài giảng dạy có thế giá, có quyền. Khác với các ký lục, Ngài không bao giờ nại tới thế giá của truyền thống rabbi, ngay cả thế giá của chính Thánh Kinh. Ngài cũng không dựa vào quyền bính của một ngôn sứ, là quyền bính trực tiếp do Thiên Chúa. Quyền bính duy nhất mà Ngài nại tới là quyền bính của chân lý. Và nếu quyền bính của Thiên Chúa được coi là quyền bính của chân lý thì quả Đức Giêsu đã nại tới quyền bính của Thiên Chúa, và có quyền bính này. Đức Giêsu không mong người ta vâng lời Ngài, nhưng mong họ vâng phục chân lý, sống theo sự thật (tr.150-151) (ch.XVII).

Cuối cùng, con người ấy đã bị bắt và xử tử. Như tác giả lập luận, không phải tòa án tôn giáo Dothái mà chính tòa án Rôma đã ra lệnh bắt và kết án Đức Giêsu, vì cho Ngài là mối đe dọa nghiêm trọng trong lãnh vực chính trị. Còn vai trò của các nhà lãnh đạo Dothái chỉ là bắt nộp Ngài cho người Rôma (ch.XVIII).

Kết thúc cho tác phẩm của mình, tác giả hướng người đọc tới chỗ tin vào Đức Giêsu. Tin vì những gì đã cảm nhận về Ngài, như các Kitô-hữu sơ khai đã tin qua những gì họ cảm nhận về Ngài. Tin là chọn Đức Giêsu làm Chúa và loại bỏ những chúa khác. Chọn Ngài làm Chúa tức là lấy Ngài làm nguyên ủy cho những gì chúng ta biết về Thiên Chúa. Qua Đức Giêsu, chúng ta biết Thiên Chúa chúng ta là một "Deus humanissimus" (Schillebeeckx). Lòng tin phải được diễn tả bằng việc làm trong đời sống. Khởi đầu là cố gắng đọc những dấu chỉ của thời đại, để thấy sự dữ đang hoạt động chống lại con người. Thế nhưng tai họa đang đe dọa ấy lại là cơ may độc nhất cho Nước Thiên Chúa đến, nếu ta có lòng tin và thương xót. Điều quan trọng là phải quyết định và hành động (ch.XIX).

III. Ý TƯỞNG CHỦ LỰC.

Ý tưởng chủ lực của tác phẩm là lòng thương xót (compassion) mà Đức Giêsu đã tỏ ra đối với con người nghèo khổ và bị áp bức. Ý tưởng ấy như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm. Đây là thực tế khách quan, nếu khảo sát những lời nói và việc làm của Đức Giêsu. Đây cũng là thâm ý chủ quan của tác giả muốn làm nổi bật thái độ này của Đức Giêsu, nhằm mời gọi con người ngày hôm nay cũng biết thể hiện một thái độ như vậy đối với người nghèo khổ và bị áp bức còn thấy nhan nhản ở chung quanh, nhất là trong các nước thuộc thế giới thứ ba.

Các sách Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông và chữa lành các bệnh nhân trong họ (Mt 14,14). Ngài chạnh lòng thương họ, vì họ bơ vơ vất vưởng, như chiên không người chăn giữ (Mt 9,36 ; Mc 6,34). Ngài chạnh lòng thương trước những giọt nước mắt của bà góa thành Naim, nên nói với bà : "Đừng khóc nữa" (Lc 7,13). Ngài chạnh lòng thương một người phong cùi (Mc 1,41), hai người mù ở Giêricô (Mt 20,34). Ngài xót thương dân chúng đi theo mà không có gì ăn (Mc 8,2). Ngài đã làm những phép lạ cứu họ.

Có người nghĩ rằng Đức Giêsu làm những phép lạ như thế nhằm minh chứng mình là Mêsia hoặc Con Thiên Chúa hay một Đấng quyền năng. Họ hoàn toàn hiểu sai về Ngài. Động lực duy nhất khiến Đức Giêsu chữa lành người ta chính là lòng thương xót. Hơn nữa, trong hầu hết các trường hợp này, Đức Giêsu còn muốn mời gọi dân chúng chung quanh cũng biết tỏ lòng thương xót (và lòng tin) như Ngài (tr.43-44).

(Bản dịch của Cha Thuấn cũng như của Nhóm PVGK dùng từ "chạnh lòng thương" lột tả khá tốt từ Splagchnizomai của tiếng Hy Lạp. Gốc của từ này là Splagchnon có nghĩa là ruột, lòng, quả tim, tức phần bên trong con người, từ đó phát tiết ra những xúc động mạnh mẽ. Vì vậy, động từ splagchnizomai diễn tả một chuyển động hoặc một sức thúc đẩy vọt lên từ lòng dạ, một phản ứng từ tận tâm can).

Ngay cả khi từ "chạnh lòng thương" không được trực tiếp sử dụng đi nữa, thì nhiều lần các sự việc cũng cho ta thấy tình cảm này của Đức Giêsu. Chẳng hạn những lần Ngài nói : "Đừng khóc", "Đừng lo", "Đừng sợ" (Mc 5,36 ; 6,5 0 ; Mt 6,25 ; Lc 10,41...). Hoặc khi đứng trước đền thờ Giêrusalem, chẳng phải vẻ huy hoàng của nó làm Ngài xúc động, nhưng chính là hành vi của một bà góa bỏ đồng xu cuối cùng của mình vào hòm tiền đền thờ (Mc 12,41-44). Lúc mọi người đang kinh ngạc khi con gái của ông Giairô được Đức Giêsu cho sống lại, thì Ngài lại chỉ nghĩ đến chuyện bảo người ta cho nó ăn (Mc 5,42-43).

Điều làm cho người Samari tốt bụng trở thành khác người, chính là lòng thương xót của ông ta trước một nạn nhân bị bỏ nằm bên đường, nửa sống nửa chết (Lc 10,33). Điều làm cho người cha già trong dụ ngôn về tình phụ tử trở thành khác người chính là lòng thương xót quá mức của ông đối với đứa con hư đốn (Lc 15,20). Điều làm cho Đức Giêsu trở thành khác người chính là lòng thương xót vô biên của Ngài đối với những người nghèo khổ và bị áp bức.

Như đã thấy trên, lòng thương xót của Đức Giêsu không phải là một thái độ mơ hồ, trừu tượng đối với nhân loại nói chung. Yêu mọi người chung chung là chẳng yêu ai cả. Nhưng Đức Giêsu yêu từng người mà Ngài gặp gỡ hay nghĩ đến. Yêu vì chính họ chứ không vì lý do nào khác. Không một ai bị loại trừ (chỉ có những người tự loại mình ra khỏi tình yêu của Ngài). Và nếu Đức Giêsu có thương xót những người cùng đinh hơn thì đó là một cách cụ thể nhất thể hiện sự liên đới với cả nhân loại. Chính sự đau khổ và sự chết mà Ngài vui lòng chấp nhận nói lên lòng thương xót của Ngài đối với mọi người (kiểu nói "nhiều người" trong câu "thí mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" : Mc 10,45, theo tiếng Dothái và Aram, thường có nghĩa là "mọi người") (tr.140).

Muốn cho Nước Thiên Chúa có thể đến ngày hôm nay, như ta vẫn xin trong Kinh Lạy Cha, điều kiện cần thiết là, cùng với lòng tin và lòng cậy, phải có lòng thương xót. Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn cho người ta tin, là nước tình yêu và phục vụ, nước của tình huynh đệ (tỉ muội) nhân loại (human brotherhood and sisterhood), trong đó mỗi người được yêu thương và tôn trọng vì là con người. Chúng ta không thể tin tưởng và hy vọng sẽ có một nước như vậy, nếu không tập có lòng thương xót đối với người đồng loại. Ngày nay Thiên Chúa tỏ mình là một Đấng thương xót. Quyền năng của Thiên Chúa là quyền năng của thương xót. Sự thương xót của con người đối với nhau làm lan tỏa quyền năng của Thiên Chúa trên thế giới, là quyền năng duy nhất có thể làm phát sinh phép lạ Nước Thiên Chúa (tr.101-102).

Để dẫn chứng cho những điều mình trình bày, tác giả dựa vào nhiều đoạn văn Tin Mừng, được ông chú giải theo một chiều hướng mới (đúng hơn, dựa vào một số nhà chú giải có uy tín), hoặc chú giải nhằm biện minh cho ý tưởng muốn nhấn mạnh là lòng thương xót.

Ngoài những lời dạy hay dụ ngôn rõ ràng nói đến tình yêu và lòng thương xót, mà nổi bật nhất có lẽ là dụ ngôn về tình phụ tử (Lc 15,11t), tác giả còn dẫn chứng nhiều đoạn văn khác hàm chứa ý tưởng thương xót. Dấu chỉ Giona chẳng hạn, được Matthêu coi là ám chỉ việc Chúa sống lại (Mt 12,40) ; còn Luca thì nghĩ rằng, cũng như Giona là dấu chỉ báo cho dân Ninivê ngày xưa, Đức Giêsu là dấu chỉ báo cho thế hệ bấy giờ (Lc 11,30). Thế nhưng chắc chắn có một điều đặc biệt trong câu truyện này. Giona ngày xưa cũng như nhóm Biệt phái thời Đức Giêsu, đã nổi giận khi nghĩ rằng Thiên Chúa đã tỏ ra yếu đuối khi không còn quyết giáng họa cho Ninivê như Ngài đã đe dọa. Giona cũng như nhóm Biệt phái không nghĩ rằng có một Thiên Chúa xót thương kẻ có tội. Nhưng Thiên Chúa nói với Giona : "Ngươi nổi giận, thế có phải không?... Ta lại không mủi lòng trên Ninivê được sao... trong đó có những người không biết phân biệt giữa tay mặt với tay trái?" (Gn 4,4.11). Vậy qua dấu chỉ Giona, Đức Giêsu cũng muốn nói với nhóm Biệt phái : Ta lại không thể thương xót những người nghèo khổ và bị áp bức hay sao ? (tr.97-98).

Một thí dụ khác : câu truyện chàng thanh niên giàu có đến gặp Đức Giêsu xin làm môn đệ, nhưng không đáp ứng được điều kiện Ngài đưa ra (Mc 10,17-22). Khi Ngài bảo anh về bán hết của cải, thì không phải vì một nguyên tắc luân lý nghiêm nhặt và trừu tượng nào đó, mà chính vì Ngài thương xót kẻ nghèo. Sách Tin Mừng của người Dothái (ngụy thư) cũng thuật lại câu truyện này, có thể giúp ta hiểu rõ hơn ý của Đức Giêsu. Sau phần đầu câu truyện, tác giả viết tiếp : Nhưng anh chàng giàu có gãi đầu gãi tai. Điều đó (bán gia sản) không làm anh ta hài lòng. Và Đức Giêsu nói : "Sao ngươi có thể thưa là đã giữ lề luật và các tiên tri ? Vì lề luật chép rằng : ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình. Nhiều anh em ngươi, là con cái Abraham, phải rách rưới đói khát, mà nhà của ngươi lại đầy dẫy của cải và ngươi lại không hề đem chúng cho họ" (tr.65-66).

Trong dụ ngôn về những người làm vườn nho (Mt 20,1t) và dụ ngôn về tình phụ tử, phần cuối (Lc 15,25-32), vấn đề cũng là con người không biết thương xót con người, ngay cả trong những quan niệm thông thường về cái gọi là quyền lợi, công bình. Những người làm từ đầu ngày phàn nàn vì những người đến sau, làm ít giờ, cũng được trả công như họ. Trả lương theo kiểu đó phải chăng là một hành vi bất công ? Không phải đâu. Tiền họ nhận được là tiền trả đúng cho một ngày làm việc, và họ đã thỏa thuận với chủ.

Nhưng ông chủ, cũng như Thiên Chúa, đã tỏ lòng thương xót những người thất nghiệp ngồi đợi ở công trường. Vì quan ngại cho gia cảnh của họ, ông đã nhận họ vào làm lúc cuối ngày. Ông không chiếu theo công việc họ làm để trả lương, mà chiếu theo nhu cầu của họ và gia đình.

Những người làm đầu ngày đã phản đối vì không có lòng thương xót như ông chủ. Thứ công bình của họ, giống như của nhóm Biệt phái, là thứ công bình không có tình thương. Họ ganh tî khi thấy người khác được may mắn. Như Giona, họ lấy làm tiếc về lòng thương xót và quảng đại của Thiên Chúa đối với người khác. Họ cũng giống như người con trai cả trong dụ ngôn về tình phụ tử, trung thành cần mẫn làm việc cho cha, không bao giờ trái lệnh, đã tức giận khi biết cha mình bày tiệc ăn mừng đứa em tội lỗi trở về. Anh ta không biết chia sẻ lòng thương xót của cha, nên thấy việc cha làm là bất công (tr.119).

Câu truyện phép lạ Đức Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều (Mc 6,35-44), có liên hệ với lòng thương xót, được tác giả giải thích theo một quan điểm mới, cho rằng Đức Giêsu muốn dạy người ta biết chia sẻ của cải.

Câu truyện này được các sách Tin Mừng coi là một phép lạ. Tuy nhiên trước các phép lạ, thường ra Tin Mừng ghi nhận phản ứng của dân chúng là sửng sốt. Nhưng ở đây không có phản ứng đó. Marcô chỉ nói là các môn đệ không hiểu (6,52 ; 8,17-18.21). Còn Gioan cho biết dân chúng coi Đức Giêsu là tiên tri và muốn tôn Ngài lên làm vua (Ga 6,14-15). Theo tác giả Nolan, câu truyện này có một ý nghĩa sâu sắc hơn, song chính biến cố không phải làm một phép lạ hóa bánh ra nhiều, mà là một ví dụ nổi bật về sự chia sẻ.

Sau lúc giảng dạy là lúc nghỉ để ăn. Chắc hẳn trong đám đông có người mang theo lương thực, có người không. Nhóm của Đức Giêsu có 5 cái bánh và 2 con cá. Các môn đệ gợi ý giải tán dân chúng, để họ đi mua đồ ăn. Nhưng Đức Giêsu lại bảo : "Các ngươi hãy cho họ ăn". Họ lấy làm thắc mắc. Nhưng Ngài truyền cho họ bảo dân chúng ngồi xuống thành từng nhóm. Cầm lấy bánh và cá, Ngài bảo các môn đệ đem chia cho hết. Lúc này, hoặc Đức Giêsu yêu cầu ai đã đem theo lương thực thì chia sẻ cho người cùng nhóm, hoặc chính dân chúng, khi thấy Đức Giêsu và các môn đệ chia sẻ của ăn, cũng tự động mở giỏ của mình và chia bánh cho nhau.

"Phép lạ" chính là ở chỗ bao nhiêu người đột nhiên không giữ lương thực làm riêng của mình, và bắt đầu chia sẻ. Phép lạ chỉ ở chỗ khám phá ra rằng đã chia nhau ăn mà vẫn còn thừa. Tác giả Tin Mừng ghi nhận số còn thừa là 12 thúng. Sự vật có khuynh hướng bội tăng khi ta biết chia sẻ chúng. Cộng đồng tín hữu sơ khai đã nhận ra điều đó khi họ chia sẻ cho nhau những cái mình có, vì sau đó, "giữa họ không có ai phải túng thiếu" (Cv 4,34).

Chia sẻ để không một ai còn thiếu thốn. Đó là thâm ý của Đức Giêsu, không chỉ trong một trường hợp, một cộng đồng nhỏ, nhưng là trong cả thế giới. Và lý do thúc đẩy Ngài mong muốn như thế là sự thương xót vô biên của Ngài đối với người nghèo khổ và người bị áp bức (tr.64-65).


Trở về Mục Lục Thần Học | Về Trang Nhà
Trở Về Trang Nhà