THIÊN CHÚA TRONG TÂN ƯỚC
(Theo K. Rahner, Dieu Dans Le
Nouveau Testament - S.J., Desclée de Brouwer 1968)
Lm. Giuse Nguyễn Đức Cường
I. DẪN NHẬP
A. MỘT VÀI LƯU Ý
1. Ý niệm Thiên Chúa ngoài và trong Kitô-giáo
Nói chung, tôn giáo, triết học ngoài Kitô-giáo thời
Tân Ước cho rằng thế giới có một nguyên lý tối hậu. Con người có thể nhận biết
nguyên lý này từ thế giới với lý trí của mình.
Kitô-giáo khẳng định : Thiên Chúa là Đấng duy nhất,
cá vị, siêu việt, nguyên lý và cứu cánh tối hậu của thế giới. Con người có thể
nhận biết Thiên Chúa qua lý trí và qua Mạc Khải, hay nói khác đi, có thể có một
nhận biết tự nhiên về Thiên Chúa và một nhận biết siêu nhiên nhờ mạc khải. Mạc
khải không những xác nhận những gì đúng cách tự nhiên nơi các tôn giáo, triết
học ngoài Kitô-giáo, mà còn cho con người biết những điều về Thiên Chúa, hoàn
toàn vượt ra ngoài khả năng của trí tuệ tự nhiên.
Kitô-giáo bác bỏ mọi hình thức thần hóa vũ trụ dưới
dạng đa thần hay phiếm thần, vì bản chất của vũ trụ là hướng về cứu cánh siêu
nhiên.
Kitô-giáo diễn tả cách rõ ràng việc Thiên Chúa cá
vị, siêu việt đã đi vào mối tương quan với thế giới như thế nào. Dựa vào Mạc
Khải, Kitô-giáo biết rằng Thiên Chúa, Đấng tự biểu lộ cách tự do và nhưng không
cho con người, dẫn con người vào đời sống thân mật với Người, đặt con người vào
một tình trạng tốt nhất, buộc con người phải lựa chọn cách nghiêm túc điều mang
lại hạnh phúc hay điều chúc dữ.
Theo Kitô-giáo : Thiên Chúa xác nhận cách dứt khoát
sự hiện hữu của thế giới qua Mầu nhiệm Nhập thể của Con Một Người và kêu gọi
thế giới thông dự vào đời sống Ba Ngôi.
2. Ý niệm Thiên Chúa trong lịch sử Mạc Khải
Chúng ta cần lưu ý đến những điểm khác nhau về ý
niệm Thiên Chúa trong chính lịch sử mạc khải. Để nhận thấy sự khác biệt này,
chúng ta phải hiểu tính lịch sử của Mạc Khải. Mạc Khải là toàn bộ các lời nói
và hoạt động mà Thiên Chúa đã thực hiện để thiết lập mối tương giao với con
người. Các lời nói và hoạt động của Người phát xuất từ một quyết định tự do.
Một quyết định tự do là một biến cố, nên quyết định mang tính lịch sử. Do đó,
Mạc Khải là một lịch sử và là lịch sử theo hai nghĩa :
- Tính lịch sử thần linh : Mạc Khải
phát xuất từ một quyết định tự do của Thiên Chúa. Con người cũng là kết quả của
hành vi tự do của Thiên Chúa, nhưng tự do tạo dựng và tự do hoạt động của Thiên
Chúa nơi thế giới khác nhau. Thiên Chúa nói và hoạt động cách tự do với con
người đã hiện hữu. Vì thế lời nói và hoạt động của Thiên Chúa có mọi đặc điểm
của lịch sử.
- Tính lịch sử nhân loại : Thiên Chúa
nói và hoạt động không chỉ một lần, nhưng nhiều lần ở nhiều nơi và nhiều thời
điểm khác nhau, nên có nhiều biến cố khác nhau. Tuy nhiên, các biến cố này vẫn
là một toàn thể vì được nối kết với nhau, và có cùng một mục đích. Trong các
hoạt động tự do này, có một hoạt động trung tâm, một khối các biến cố nối kết
với nhau, đó là : Nhập thể, Thập giá và Phục sinh của Đức Kitô. Các biến cố Cựu
Ước đều hướng về, chuẩn bị cho biến cố trung tâm là Tân Ước. Do đó, có thể nói
như Thánh Augustinô : "Tân Ước đã ẩn tàng nơi Cựu Ước". Cựu Ước là
chuẩn bị. Tân Ước là hoàn tất. Cựu Ước là lời hứa. Tân Ước là thực hiện lời
hứa. Tân Ước đã hiện diện nơi Cựu Ước dưới hình thức ngôn sứ : Lời nói trong
Cựu Ước được sắp xếp để hướng tới lời nói quyết định, lời nói cuối cùng mà
Thiên Chúa sẽ nói trong và bởi Đức Kitô. Đức Kitô là lời nói cuối cùng. Như
thế, ý niệm về Thiên Chúa giữa Cựu Ước và Tân Ước có khác nhau. Dĩ nhiên điều
đó không có nghĩa là Thiên Chúa Cựu Ước khác Thiên Chúa của Tân Ước. Sự khác
nhau này thuộc phạm vi mức độ, vì lịch sử Mạc Khải là một toàn thể và lịch sử
cứu độ là một mạc khải tiệm tiến.
B. Ý NIỆM THIÊN CHÚA TRONG THẾ GIỚI HYLẠP VÀ TRONG
CỰU ƯỚC
1. Ý niệm Thiên Chúa trong thế giới Hylạp
Trong thế giới Hylạp, ý niệm Thiên Chúa là gì ? Độc
thần hay đa thần ? Chúng ta cần tìm hiểu cách sơ lược nền văn hóa, tôn giáo của
họ vào giai đoạn sứ điệp Kitô-giáo mà trọng tâm là niềm tin độc thần, được loan
báo.
Với người Hylạp, từ "Theos" không nhắm
tới một ngôi vị duy nhất. Ý niệm Thiên Chúa của họ bản chất là đa thần. Thế
giới các thần này có tổ chức phẩm trật. Từ văn chương đến triết học đều hiểu
như thế. Trong các tác phẩm của Homère, thần Zeus được gọi là Cha của loài
người và của các thần. Phái Khắc kỷ thì cho rằng quan niệm độc thần làm hạ giá
Thiên Chúa. Plotin nói đa thần biểu lộ sự cao cả của Thiên Chúa.
Thế giới các thần hầu như được đồng hóa với vũ trụ.
Khuôn mặt huyền bí của các thần trong các tác phẩm của Homère, nguyên lý tối
thượng (archè) của khoa vật lý của phái Ioniens, hay ý tưởng (idea) của triết
học đều bắt nguồn từ thế giới. Điều gì lớn lao vĩ đại trong thế giới, người
Hylạp đều cho đó là Thiên Chúa. Trật tự, sự hài hòa của thế giới là Thiên Chúa.
Từ "Theos" luôn là vị ngữ (prédicat). Chủ từ của mệnh đề mà
"Theos" là vị ngữ chính là vũ trụ.
Do đó, ta dễ hiểu tại sao đa thần và phiếm thần
hiện diện khắp nơi trong thế giới Hylạp, tới tận những biểu lộ tinh tế nhất của
nền văn hóa.
Tuy nhiên, sắc thái độc thần cũng phảng phất nơi
chính niềm tin đa thần và phiếm thần này. Qua phụng tự của tôn giáo đa thần,
người ta thấy có ý tưởng về một Thiên Chúa cá vị và siêu việt. Họ cầu xin Thiên
Chúa, gọi Người ở ngôi thứ hai (Ngài). Triết học Platon, Aristote đặt vấn đề về
sự hiện hữu của Nhất thể tối thượng (LUn). Triết học tiền Socrate là Xenophane
và Heraclite chống lại đa thần được Homère mô tả. Đây có thể là tiếng vọng của
Mạc Khải về niềm tin độc thần.
Ý niệm Thiên Chúa nơi người Hylạp có tiến triển :
từ ý niệm Thiên Chúa vô danh, tới ý niệm Thiên Chúa như nền tảng của thế giới,
rồi tới ý niệm những điều thuộc thần linh như luật lệ (nomos), công bình
(dikè), tinh thần, ý tưởng. Tuy nhiên, họ cũng có cảm giác rằng bên trên vị
Thiên Chúa này có sự ngự trị của định mệnh (destin).
2. Ý niệm về Thiên Chúa trong Cựu Ước
Tôn giáo Cựu Ước là tôn giáo độc thần. Điều cần làm
ở đây là xác định rõ ý nghĩa của từ "độc thần" này.
Niềm tin độc thần của Cựu Ước không phải là một học
thuyết siêu hình trừu tượng, không dựa trên sự tìm tòi của lý trí để nhận ra
cái nguyên lý tối cao nhưng phát xuất từ chính kinh nghiệm của người Cựu Ước,
về hoạt động cứu độ của Giavê giữa lòng thế giới, và trong lịch sử của dân
Người. Giavê, tên của Thiên Chúa, là một ngôi vị, hoạt động theo ý muốn của
Người, can thiệp vào lịch sử cụ thể của dân riêng và của nhân loại. Người là
Thiên Chúa hay ghen, đòi cho mình danh xưng El-Elohim (Thần các thần),
các thần khác (Elohim) chỉ là hư vô. Người là ngôi vị thiêng liêng : tất cả đều
tuỳ thuộc cách tuyệt đối vào hành động tự do của Người. Như thế, ý niệm Thiên
Chúa của Cựu Ước có tiến triển : từ ý niệm Thiên Chúa là Chúa của dân tộc họ
tới ý niệm Thiên Chúa là Chúa của mọi dân tộc, từ Thiên Chúa là Chúa của thiên
nhiên, nguyên lý cuối cùng của mọi thực tại tới ý niệm Thiên Chúa là Đấng
thiêng liêng, siêu việt trên thế giới, là Đấng vô hạn. Qua đó, ta hiểu được
đường lối sư phạm của Thiên Chúa. Một cách tiệm tiến, Người dẫn con người tới
chỗ hiểu Người cách chính xác hơn. Tuy ý niệm Thiên Chúa ngày càng cao siêu,
người Cựu Ước vẫn nhận thấy Thiên Chúa là một ngôi vị cụ thể.
Tới đây, chúng ta có thể nhận ra rằng công thức nền
tảng của giáo thuyết độc thần Cựu Ước không phải là "Có một Thiên Chúa duy
nhất" hay "Nguyên lý tối cao của thế giới là duy nhất", nhưng là
: "Giavê là Thiên Chúa duy nhất".
II. THIÊN CHÚA (HO THEOS) TRONG TÂN ƯỚC
A. KHỞI ĐIỂM
1. Với người Tân Ước, sự hiện hữu của Thiên Chúa
là hiển nhiên
Tân Ước không đặt vấn đề về sự hiện hữu của Thiên
Chúa. Với người Tân Ước, Thiên Chúa đương nhiên hiện hữu. Điều bận tâm chính
yếu của họ là tìm ra cách thức Thiên Chúa hoạt động để biết Người là ai, Người
đã thiết lập mối tương giao nào với thế giới. Để làm điều này, họ không khởi đi
từ thực tại thế giới như khoa siêu hình, nhưng khởi đi từ Thiên Chúa qua các
hoạt động của Người. Do đó, ta thấy không có chỗ nào trong Tân Ước gắn kinh
nghiệm về Thiên Chúa với cái biết siêu hình.
Tuy Tân Ước không phủ nhận việc con người có thể
nhận biết Thiên Chúa cách siêu hình (Rm 1,20) và đưa ra một vài cái nhìn siêu
hình để nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa (1 Cr 1,21 ; Rm 1,32), nhưng mục đích
không phải chỉ là chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, Tân Ước có mục đích
khác như phân tích dưới đây :
- 1 Cr 1,21 : Khi thế gian đứng trước sự khôn ngoan
của Thiên Chúa, đã không lợi dụng khoa khôn ngoan mà nhìn biết Thiên Chúa thì
Thiên Chúa đã quyết ý dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu kẻ tin.
- Rm 1,32 : Chúng là những kẻ biết án của Thiên
Chúa : những kẻ làm thế thì đáng phải chết, thế mà chẳng những chúng làm, chúng
lại còn tán thành những kẻ làm như vậy.
Nếu đặt hai câu này vào mạch văn, ta thấy đây chỉ
là những trưng dẫn để giúp người thời đó ý thức về sự vô tri của họ, giúp làm
sống lại sự nhận biết Thiên Chúa đã bị khô cứng do tội nguyên tổ và tội riêng.
Ở đây, Tân Ước không trình bày cái nhìn siêu hình như một điểm khởi hành hay
một động cơ trở về với Thiên Chúa hằng sống. Điểm khởi hành luôn là Mạc Khải
được tỏ ra qua các hoạt động của Thiên Chúa, đặc biệt nơi sự điên rồ của Thập
giá (1 Cr 1,18t) và trong sự Phục sinh của Đức Kitô (Cv 17,31). Mục đích của
Tân Ước khi nói về vấn đề này không nhằm đưa tới một cái biết lý thuyết nhưng
là một sự nhận biết trong tuân phục. Do đó, sứ điệp Tân Ước có chức năng của
khoa phân tâm thần học (psychanalyse théologique), và đồng thời cho thấy Mạc
Khải và nhận thức tự nhiên về Thiên Chúa không mâu thuẫn mà còn hỗ trợ cho
nhau.
2. Mạc khải : Nền tảng của tính hiển nhiên
Với người Tân Ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho họ
qua lời nói và hoạt động của Người trong lịch sử.
- Qua lịch sử Cựu Ước : Người Tân Ước nhận thấy
sự can thiệp sống động của Thiên Chúa nơi lịch sử dân giao ước (Cv 7,2-53.). Họ
nhận biết Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp là Thiên Chúa của họ.
- Qua lịch sử của chính họ nhờ Đức Giêsu Kitô
: Người Tân Ước cũng nhận biết Thiên Chúa qua sự can thiệp sống động của Thiên
Chúa vào lịch sử riêng của họ nhờ Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô (Dt 1,2).
Nhờ người Con Một này, họ tin vào Thiên Chúa (1 Pr 1,21). Nhờ sự hiện diện của
người Con Một này, họ thấy tận mắt sự cao cả của Thiên Chúa (2 Cr 4,6).
3. Kinh nghiệm về Thiên Chúa khởi đi từ Mạc Khải
Họ nhận ra mối dây nối kết bền chặt giữa Đức Kitô
và Thiên Chúa. Các biểu thức đức tin diễn tả mối dây này : sự sống đời đời là
nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến
là Đức Giêsu Kitô (Ga 17,3 ; x. 1 Tx 1,9-10 ; 1 Ga 1,3 ; 2 Pr 1,2).
Với Tân Ước, Thiên Chúa và Con của Người không là
hai thực thể đặt cạnh nhau, nhưng là sự hiệp thông mật thiết giữa hai Đấng, đến
nỗi khi phủ nhận Đấng này thì Đấng kia không còn nữa : "Phàm ai chối
Con thì chẳng có Cha" (1 Cr 1,23 ; x. Ga 5,23 ; 14,6-14).
Tân Ước xác tín rằng Đức Kitô đến từ Thiên Chúa,
được Thiên Chúa sai đi. Tuy Tân Ước nhìn nhận rằng những ai chưa biết Đức Kitô
vẫn có thể nhận biết Thiên Chúa, nhưng những người đã gặp gỡ Đức Kitô như người
Dothái thời Ngài (Rm 2,17t) mà không tin vào Ngài thì không đủ điều kiện để
sống tương quan với Thiên Chúa đích thực.
B. NỘI DUNG CỦA Ý NIỆM THIÊN CHÚA TRONG TÂN ƯỚC
1. Duy nhất tính của Thiên Chúa
a. Tầm quan trọng
Cũng như Cựu Ước, Tân Ước tin rằng chỉ có một Thiên
Chúa duy nhất. Đức Giêsu Kitô đã xác định tính duy nhất của Thiên Chúa khi
trích lại toàn bộ lược đồ Cựu Ước : "Hãy nghe đây, hỡi Israel, Chúa,
Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất (Mt 12,32). Niềm tin độc thần hiện
diện khắp nơi trong Tân Ước (Ga 17,3 ; 1 Cr 8,4 ; Rm 3,30.) Mặc dù các công
thức của niềm tin độc thần Tân Ước thường mượn ở truyền thống Cựu Ước, nhưng
không phải theo nghĩa tùy phụ mà thực sự là nền tảng của đức tin Kitô-giáo.
Chính Đức Kitô đã nói tới niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất là yếu tố quan trọng
để có sự sống đời đời : "Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha, Thiên
Chúa độc nhất và chân thật và là Đấng Cha đã sai là Đức Kitô" (Ga
17,3). Thánh Phaolô đã viện dẫn niềm tin Thiên Chúa duy nhất để trình bày hai
chủ đề quan trọng :
Dân ngoại và dân Dothái đều được kêu mời gia nhập
Dân mới của Thiên Chúa (Rm 3,28-30 ; 1 Tm 2,4-5).
Có sự duy nhất trong các biểu lộ khác nhau của
Thánh Thần nơi các kitô-hữu được kết hợp trong cùng một thân thể của Đức Kitô
(1 Cr 12,6 ; Ep 4,6).
Do đó, niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất là một yếu
tố chính yếu, quan trọng của Tin Mừng được Đức Kitô rao giảng.
b. Ý nghĩa của niềm tin độc thần trong Tân Ước
Thiên Chúa duy nhất là một ngôi vị sống động được
biểu lộ nơi Đức Kitô : cũng như Cựu Ước, Tân Ước tin rằng Thiên Chúa duy nhất
là nguyên lý tuyệt đối của thế giới, là Chúa thiên nhiên, là Đấng siêu việt
trên thế giới, là một ngôi vị cụ thể (1 Cr 8,6 ; Ep 4,6 ; 1 Cr 12,6 ; Cv
17,25-28 ; 1 Cr 8,5). Con người có sự hiểu biết về Thiên Chúa như thế là do
chính Thiên Chúa tự biểu lộ qua lời nói, hoạt động của Người trong lịch sử. Đặc
biệt, với Tân Ước, Thiên Chúa tự khải trọn vẹn nơi Đức Kitô và vị Thiên Chúa
duy nhất đó cũng chính là Cha Đức Giêsu Kitô. Do đó, biểu thức đức tin độc thần
Tân Ước không là : có một Thiên Chúa duy nhất như những người thuộc trường phái
Ánh Sáng (Aufklarung) nói, nhưng là : chúng tôi tin vị Thiên Chúa được biểu lộ
trong Đức Kitô là Thiên Chúa duy nhất, hay Cha của Đức Kitô và của chúng ta là
Thiên Chúa duy nhất.
Niềm tin Thiên Chúa duy nhất là một nhận thức có
trách nhiệm : Thiên Chúa duy nhất là Thiên Chúa của con người, của các tín hữu.
Do đó, tin một Thiên Chúa duy nhất không phải chỉ là tin một sự kiện mà còn là
một nhận thức có trách nhiệm. Giới răn yêu mến Thiên Chúa diễn tả chính xác
niềm tin độc thần : phải yêu mến Người vì không còn Chúa nào nữa (Mt 6,24 ; Pl
3,19 ; 1 Cr 10,21.). Tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất là phải phụng sự một mình
Người, vâng phục một mình Người, quay lưng lại với các ngẫu tượng (1 Tx 1,9).
2. "Ngôi vị tính" của Thiên Chúa
Thiên Chúa duy nhất mà người Tân Ước tin là một
ngôi vị sống động, luôn hoạt động nơi họ và nơi thế giới, họ kêu cầu, xưng hô
với Ngài ở ngôi thứ hai. Chúng ta có thể xác định tính ngôi vị của Thiên Chúa
qua các điểm sau đây :
a. Thiên Chúa là Đấng luôn hoạt động
Để phân biệt vật này với vật kia, cần phải nhận ra
những nét riêng biệt của mỗi vật. Việc nhận biết Thiên Chúa theo quan điểm siêu
hình không phân biệt được Thiên Chúa và hoạt động của Người với tạo vật Người
dựng nên, bằng chứng là quan điểm này thường dẫn tới đa thần hay phiếm thần.
Ngược lại, kinh nghiệm về Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước cho thấy, con
người có thể nhận biết hoạt động của Thiên Chúa trong thế giới và lịch sử. Hoạt
động của Người khác biệt với tạo vật Người đã dựng nên, và xuất hiện như một
sáng kiến mới mẻ và nhưng không của Người. Hoạt động của Người có khía cạnh
"hic et nunc" được xác định rõ, khác biệt với mọi thực tại khác, hoạt
động khác trong thế giới và trong lịch sử.
Thật vậy, Tân Ước nhìn thấy Thiên Chúa qua công
trình của Người (Cv 14,17 ; 17,26), nhưng không có chỗ nào trong Tân Ước đồng
hóa Người với tạo vật. Ca tụng hoa huệ đẹp nhưng lại nói tới sự lụi tàn của nó.
Tân Ước quả quyết mọi vật đều trông chờ được Thiên Chúa cứu độ (Rm 8,22). Lý do
sâu xa của việc Tân Ước không bao giờ thần hóa tạo vật phát xuất từ kinh nghiệm
về hoạt động của Thiên Chúa.
Tân Ước nhìn việc Thiên Chúa chọn Israel, ban Con
Một của mình khác với khoa siêu hình. Siêu hình học cho đó là hậu quả tất yếu
của lòng thiện hảo của Thiên Chúa, còn Tân Ước nhìn đó là mầu nhiệm của lựa
chọn tự do và nhưng không của Thiên Chúa.
Nhờ có kinh nghiệm về hoạt động tự do và cá vị của
Thiên Chúa mà việc tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo có ý nghĩa đích thực
và sáng tỏ (Mt 11,25 ; Mc 13,19 ; .). Con người chỉ thực sự có ý tưởng về tạo
dựng nhờ có kinh nghiệm về hoạt động tự do và đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa cứu độ có trước kinh nghiệm về Thiên Chúa sáng tạo.
Hai kinh nghiệm này bổ túc cho nhau : vì là Chúa trời đất (sáng tạo) nên Thiên
Chúa có thể hoạt động cách tự do và đầy quyền năng với tư cách là chủ tể tối
cao (Mt 11,25 ; Cv 4,24t.). Ngược lại, chính nhờ hoạt động của Thiên Chúa mà
con người có kinh nghiệm về quyền năng tạo dựng. Hoạt động của Thiên Chúa được
biểu lộ cách rõ nét nhất nơi việc phục sinh Đức Kitô, nó giúp ta nhận biết sự
lớn lao đặc biệt của quyền năng Thiên Chúa (Ep 1,19-20) và làm ta tin vào sức
mạnh của Thiên Chúa (Cl 2,12). Qua Đức Kitô, ta có thể nhận ra rằng Thiên Chúa
hoàn thành mọi sự theo quyết định riêng của Người (Ep 1,11).
b. Thiên Chúa hoạt động cách tự do
Tính ngôi vị của Thiên Chúa còn được khám phá qua
hoạt động tự do của Người. Tuy mọi tạo vật đều được Thiên Chúa tiền định sẽ đạt
tới cùng đích của mình (Rm 16,25 ; 1 Cr 2,7 ; Ep 1,4 ; 3,9.), nhưng không được
phép hiểu rằng mọi sự đã được chuẩn bị cách tiên thiên và sẽ xảy ra theo một sơ
đồ đã định giống như nguyên tắc nhân quả, và Thiên Chúa chỉ là một khán giả thụ
động chờ đợi kết quả như các nhà thần luận nghĩ. Với Tân Ước, chương trình cứu
độ là một bí mật của Thiên Chúa, tuyệt đối ẩn giấu trong thời gian, nó chỉ lộ
rõ trong thời cuối cùng. Thời cuối cùng đã bắt đầu khi Đức Kitô xuất hiện, nên,
theo các tác giả Tân Ước, chính ngày hôm nay và chỉ ngày hôm nay mà ơn cứu độ
nhờ Đức Kitô đi vào thế giới cách hiệu quả (Tt 2,11 ; 3,4). Chính trong ngày
hôm nay, ơn cứu độ được mạc khải cho chúng ta (2 Tm 1,10). Kinh nghiệm về tự do
của Thiên Chúa qua các biến cố nền tảng của lịch sử Cứu Độ, chứng kiến Thiên Chúa
hoạt động nơi cả người lành, người tội lỗi, người yếu thế, người chẳng có công
lao gì (Mt 11,25 ; Lc 1,51 ; 1 Cr 1,25 .), người Tân Ước hiểu rằng, hoạt động
của Thiên Chúa là một sáng kiến mới mẻ, một hoạt động tự do (Rm 9,19 ; Gc 1,18
; Ep 1,11). Quả thật, Thiên Chúa luôn vượt lên trên mọi tính toán của con
người, Người luôn là một ông chủ can thiệp cách tự do : thương xót hay cứng rắn
khi Người muốn (Rm 9,15-16.18). Vì thế, không được xem hành động của Thiên Chúa
như một điều gì đó tất yếu.
c. Đối thoại với con người
Tính ngôi vị của Thiên Chúa còn được biểu lộ qua
việc Thiên Chúa đối thoại với con người. Việc nhận biết Thiên Chúa thuần túy
siêu hình không cho thấy cuộc đối thoại này vì thế giới được coi là sự biểu lộ,
là vật thể hóa của nguyên lý tối cao. Cái nhìn siêu hình phủ nhận tính tự lập
một cách nào đó và khả năng hoạt động tự do của thế giới trong tương quan với
Thiên Chúa.
Nhờ lịch
sử Cứu Độ được Thiên Chúa khai mở, giữa Thiên Chúa và con người có một cuộc đối
thoại, bằng chứng là :
Con người
có thể đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa : hoặc đồng ý hoặc không đồng ý (Rm 2,5
; 15,8 ; 16,19 ; Cv 3,20 ; 7,51.).
Con
người có thể khẩn cầu Thiên Chúa.
Những điều này cho thấy hoạt động của Thiên Chúa
trong lịch sử không phải là một cuộc độc thoại nhưng là một cuộc đối thoại dài
và cảm động. Do đó, các thảm kịch xảy ra trong lịch sử có sự góp phần của tạo
vật. Điều này làm cho lịch sử trở nên nghiêm túc. Tuy nhiên, Thiên Chúa có
tiếng nói cuối cùng vì Người là Đấng mạnh nhất, và tạo vật không thể chống lại
Người. Do đó, gắn bó với ý muốn Thiên Chúa thì quan trọng với tạo vật hơn là
gắn bó với bất cứ thực tại nào khác.
3. Các đặc tính của Thiên Chúa
Những hiểu biết về đời sống cá vị, tự do của Thiên
Chúa siêu việt, về cuộc đối thoại với thế giới của Thiên Chúa, cho phép ta tìm
hiểu cách đúng đắn giáo thuyết Tân Ước về các đặc tính của Thiên Chúa. Khi nhận
biết ngôi vị tính của Thiên Chúa, ta nhận ra rằng, với con người, vấn đề thiết
yếu không phải : Thiên Chúa là gì, nhưng là nhận biết Thiên Chúa là ai, tỏ mình
ra cho thế giới cách nào, Người thiết lập mối tương quan nào với thế giới. Mối
tương quan của một người đối với người khác không được xác định bởi các đặc
tính của người đó, nhưng bởi thái độ mà người đó tự do lựa chọn. Điều này rất
đúng với Thiên Chúa trong tương quan với thế giới Người đã dựng nên. Để chứng
minh điều này, chúng ta sẽ so sánh, phân tích cái nhìn của Tân Ước và cái nhìn
của siêu hình :
- Quan điểm siêu hình cho rằng thái độ của Thiên
Chúa đối với thế giới mang tính tất yếu của bản tính Thiên Chúa.
- Quan điểm Tân Ước : không thể nào xác định cách
tất yếu thái độ cụ thể của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể tỏ lòng thương xót
hoặc có thể khép lòng lại, có thể soi sáng cho con người và cũng có thể gửi
thần khí hôn mê đến (Rm 11,8.), nhưng Thiên Chúa vẫn không ngừng là Đấng Thánh
(Dt 12,10), những phán xử của Người vẫn luôn đúng và công bình (Kh 19,2). Những
gì biết được về Thiên Chúa đều qua các hoạt động, qua những thái độ cụ thể của
Thiên Chúa trong lịch sử. Do đó, giáo huấn Tân Ước gửi đến chúng ta không phải
là lý thuyết về yếu tính thần linh qua con đường suy lý, nhưng là cho chúng ta
biết khuôn mặt cụ thể của ngôi vị Thiên Chúa, khuôn mặt mà Người tự biểu lộ với
thế giới. Tuy nhiên, ta thấy trong Tân Ước có những khẳng định liên quan tới
đặc tính siêu hình về bản tính Thiên Chúa như : bản tính thần linh (2 Pr 1,4),
thần tính (Rm 1,20), Thiên Chúa vĩnh cửu (Rm 16,26), vô hình (Rm 1,20), bất
hoại (Rm 1,23). Phải giải thích thế nào đây ?
Tân Ước nhìn nhận rằng các đặc tính của Thiên Chúa
có thể được nhận biết từ thế giới (Rm 1,20), nhưng Tân Ước cũng nói rằng do tội
lỗi, các đặc tính này còn bị che khuất (Rm 1,25). Do kinh nghiệm gặp gỡ Thiên
Chúa qua các hoạt động của Người trong lịch sử, nhờ sự vâng phục đức tin, con
người tái khám phá các đặc tính đó của Thiên Chúa cách đặc biệt mới mẻ. Chẳng
hạn :
- Đặc tính vĩnh cửu của Thiên Chúa : Tân Ước không
chỉ thấy Thiên Chúa vĩnh cửu là Đấng không có khởi đầu và kết thúc, mà còn hiểu
Người là Đấng vượt trên thế giới đến nỗi Người có thể can thiệp vào thế giới để
làm cho thế giới được thông phần bản tính của Người.
- Một ví dụ khác cho thấy sự đối lập giữa hoạt động
hiện sinh, mang tính ngôi vị của Thiên Chúa và các đặc tính siêu hình bất động
của yếu tính thần linh : ví dụ về tình yêu. Đối với Tân Ước, tình yêu của Thiên
Chúa chủ yếu là một ân sủng mà không ai có quyền đòi hỏi. Khẳng định Thiên
Chúa là Tình Yêu không đến từ một nhận biết siêu hình nhưng là từ kinh
nghiệm về hoạt động của Thiên Chúa nhờ đức tin. Nhờ đức tin, người Tân Ước thấy
rằng tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ rõ rệt nhất qua việc Người sai Con
Một xuống thế (1 Ga 4,9). Đây là hoạt động hoàn toàn tự do của tình yêu Thiên
Chúa. Nếu lời nói tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa mang lại các hiệu quả khác
nhau, thì không chỉ là do sự đáp trả tự do của con người, mà trước hết là do sự
tự do của Thiên Chúa ban hay từ chối ban tình yêu của Người (Rm 9,9-11). Tiếng
gọi của Thiên Chúa Tình Yêu luôn là tiếng gọi của kế hoạch Người đã lựa chọn
(Rm 8,28-33 ; 2 Tm 1,9 ; 2 Pr 1,10).
- Về sự toàn năng cũng thế, Tân Ước nhìn nhận rằng
con người có thể nhận biết đặc tính toàn năng của Thiên Chúa từ thế giới, nhưng
đặc tính này chỉ hiểu rõ được nhờ kinh nghiệm về hoạt động của Thiên Chúa. Thật
vậy, siêu hình học cho rằng điều gì càng cao quý thì càng gần Hữu Thể thần
linh. Nhưng trong thực tế của lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa lại chọn điều mà thế
gian cho là yếu đuối nhất, điên rồ nhất để biểu lộ mình (1 Cr 1,18-29 ; Cv
12,9.), phận Thiên Chúa tự hư vô hóa trong thân phận tôi đòi (Pl 2,5-8). Ngôi Lời
Thiên Chúa vĩnh cửu và tạo dựng đã trở thành xác phàm (sarx), đi vào thời gian,
vào sự hư hoại, phó nộp cho quyền lực tội lỗi và cái chết (1 Ga 1,14), để, như
Thánh Phaolô viết : "Đừng có xác phàm nào dám vinh vang trước mặt Thiên
Chúa" (1 Cr 1,29). Qua đó, Tân Ước cho thấy điều ở cao hơn cả vẫn ở xa
Thiên Chúa. Điều ở thấp hơn cả cũng không đương nhiên có khả năng lôi kéo Thiên
Chúa. Điều cao nhất và điều thấp nhất chẳng là gì ngoài việc im lặng trước mặt
Thiên Chúa. Vậy Thiên Chúa là ai ? Cái biết siêu hình không thể cho ta biết
đúng về Người. Chỉ qua các hoạt động của Thiên Chúa, chúng ta mới biết điều
Người "muốn là" đối với chúng ta. Do đó, bản chất của giáo huấn Tân
Ước không phải là một hữu thể luận về các đặc tính Thiên Chúa, nhưng là các
kinh nghiệm về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người được chính Thiên
Chúa thiết lập trong lịch sử.
C. THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Kinh nghiệm cốt yếu mà người Tân Ước có được trong
lịch sử Cứu Độ đó là Thiên Chúa của cha ông họ đã muốn, và kêu gọi họ hiệp thông
với Người trong Con của Người. Kinh nghiệm này được diễn tả trong câu : "Thiên
Chúa là Tình Yêu". Đây là lời hết sức cô đọng, cần phải được minh
giải.
Nếu lịch sử cứu độ có thể hiểu như một cuộc đối
thoại tình yêu giữa Thiên Chúa với Dân Người thì có thể nói, Cựu Ước là lời
chuẩn bị, và Tân Ước là lời tối hậu của Thiên Chúa.
Tân Ước biết rằng Thiên Chúa tự do và hằng sống
luôn hoạt động theo những cách thức và vào những thời điểm khác nhau theo ý của
Người. Thế mà điều đầu tiên chúng ta biết được về hoạt động cá vị của Thiên
Chúa trong Tân Ước là Người đã nói lời cuối cùng, lời nói kết thúc cuộc đối
thoại dài và đầy kịch tính với con người. Đây là lời nói cuối cùng vì chính
Thiên Chúa đã tuyên bố rằng hoạt động này của Người không thể bị đảo ngược. Thời
gian đã ngưng lại khi Thiên Chúa nói tiếng nói cuối cùng. Thời gian đây không
phải là thời gian được đo lường bằng chuyển động của đồng hồ, nhưng bằng các
hoạt động luôn luôn mới mẻ và tự do của Thiên Chúa trong thế giới. Vì thời gian
là như thế, nên thời gian (Kairos) đã được hoàn tất thực sự (Mt 1,15), thời
gian cuối cùng đã đến với chúng ta (1 Cr 10,11 ; 1 Pr 4,7).
Để làm rõ nét tình trạng độc nhất và bất khả đảo
ngược này, chúng ta vừa phải phân biệt những thái độ trước kia (Cựu Ước) với
thái độ mới (Tân Ước) của Thiên Chúa trong thời cuối cùng, vừa phải nêu rõ ý
nghĩa thâm sâu của những thái độ mới của Thiên Chúa.
1. Tình yêu của Thiên Chúa trong Cựu Ước
Lời tối hậu của Thiên Chúa hoàn tất lời
chuẩn bị trong Cựu Ước (Dt 1,1 ; 1 Tm 1,6 ; 6,15 ; Tt 1,3), do đó, cần phải
phân biệt giữa lời tối hậu với lời chuẩn bị. Để hiểu được những
khác biệt này, ta nên lưu ý đến các cặp ý niệm đối lập nhưng bổ túc cho nhau
như : tội lỗi - công bình (Rm 3,5), Lề Luật - đức tin (Rm 4,13), tôi
tớ - con cái (Rm 8,15), nô lệ - tự do (Ga 15,1), xác phàm - thần
khí (Rm 8,9), việc làm - ơn sủng (Tt 3,5-7).. Khi trình bày những ý
niệm song đối này, Tân Ước cho thấy Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa của
Tình Yêu và là Tình Yêu. Vậy, trong Cựu Ước Thiên Chúa không tỏ ra là Đấng yêu
thương sao ?
Trước Đức Kitô (Cựu Ước), Thiên Chúa đã tỏ ra là
Đấng yêu thương rồi, đặc biệt là qua công trình sáng tạo.
Sách Khôn ngoan : Thiên Chúa yêu thương mọi loài
(11,24).
Thánh vịnh : Sáng tạo là hoạt động của tình yêu
(186,1-9). Ý niệm Thiên Chúa là Tình Yêu này rất gần với thần học tự
nhiên : mọi tạo vật đều có một nguồn gốc, một nguyên lý tối hậu tốt lành, nhưng
không bao gồm một tương quan ngôi vị giữa Thiên Chúa và con người, và không đủ
để đưa tới một tương giao ngôi vị thực sự.
Cựu Ước cũng nói tới lòng thương xót của Thiên Chúa
được tỏ ra trong hoạt động cá vị của Thiên Chúa vào lịch sử con người : chọn
dân riêng, ký giao ước. Thiên Chúa luôn yêu thương dân, dù họ thường bất trung.
Nhưng các khẳng định này chưa cho phép nói rằng tình yêu Thiên Chúa đi đến mức
trao ban chính mình Người cho nhân loại. Lòng tốt của Thiên Chúa đối với con
người vẫn còn mang khía cạnh chủ - tớ và không có gì bảo đảm là ông chủ
giàu lòng thương xót này không ở xa con người.
Cựu Ước cũng cho thấy Thiên Chúa quan tâm tới con
người và muốn con người đến với Người bằng một quyết định cá nhân. Nhưng điều
này còn mang đặc tính của một lời hứa. Vì còn mờ tối, lời hứa đó chẳng có gì
bảo đảm sẽ hoàn toàn khác với tương quan chủ - tớ. Do đó, tình yêu con
người đáp lại tình yêu Thiên Chúa chưa là tình yêu hoàn toàn. Thiên Chúa muốn
con người yêu Người hết mình, nhưng con người chưa biết rõ tiếng xin vâng nào
Thiên Chúa đang chờ đợi. Phải chăng Thiên Chúa chờ đợi một tình yêu của kẻ bầy
tôi ? Nếu thế, ông chủ vẫn nghìn trùng xa cách con người vì ông chủ được bao
bọc bằng một ánh sáng huy hoàng không thể đạt tới.
Thực ra, trong Cựu Ước, khi con người đáp trả tình
yêu Thiên Chúa bằng niềm tín thác, con người đã bắt đầu sống phận làm con.
Nhưng con người chỉ nhận ra điều này khi Con Thiên Chúa đi vào lịch sử.
2. Tình yêu của Thiên Chúa trong Tân Ước
Bản chất của mối tương quan giữa Thiên Chúa và con
người.
Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là
đặc tính cơ bản của mối tương quan mà Thiên Chúa thiết lập với con người trong lịch
sử vào thời gian cuối cùng. Vậy tương quan tình yêu này là như thế nào ?
Trước hết, khi nói Thiên Chúa là Tình Yêu,
chúng ta nhắm tới hoạt động tự do của Thiên Chúa được hoàn tất trong Đức Kitô,
và hơn nữa Thiên Chúa muốn thông ban trọn vẹn sự sống thâm sâu nhất của Người
cho nhân loại qua Đức Kitô. Đây là hai điểm cơ bản của một tình yêu ngôi vị mà
Cựu Ước là khởi đầu còn Tân Ước là hoàn tất. Quả vậy, kế hoạch tự do của Thiên
Chúa nhằm đưa con người vào cộng đồng ngôi vị với Người đã trở thành hiện thực
trong Đức Kitô. Đức Kitô là thời gian đã mãn (Mc 1,15), trong Ngài tình
yêu Thiên Chúa được biểu lộ : "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến
nỗi đã ban Con Một." (Ga 3,16 ; Rm 8,28-31). Như thế, lời hứa còn mơ
hồ trong Cựu Ước từ nay đã trở nên rõ ràng, chắc chắn, đã được thực hiện (Rm
15,8). Chẳng có gì trong tương lai (Rm 8,38) có thể trì hoãn biến cố
cuối cùng này.
Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã tự ban mình cho chúng
ta : "Sự thông hiệp của ta là sự thông hiệp với Chúa Cha và Con của
Người" (1 Cr 1,3), và "Thánh Thần" (2 Cr 13,13). Từ "thông
hiệp" (koinônia) của Hylạp chỉ cộng đồng phu thê. Cộng đồng tình yêu
này được thiết lập bởi Thánh Thần của Thiên Chúa (Rm 5,5 ; Gl 4,6 ; 1 Ga 3,24).
Trong Thánh Thần mà chúng ta được kêu gọi tới dự phần vào sự sống thân tình của
Thiên Chúa. Ngài là Thánh Thần của Con (Gl 4,4-6), làm cho ta trở nên con Thiên
Chúa (1 Ga 3,12). Do đó, việc làm con Thiên Chúa của chúng ta tuỳ thuộc trực
tiếp vào Đức Kitô. Như vậy, khi Tân Ước tuyên bố "Thiên Chúa là tình
yêu" là nhằm giải thích nội dung của một kinh nghiệm mà con người có
về Thiên Chúa trong Đức Kitô : Thiên Chúa tự hiến mình cho con người. Người
thông ban tất cả những gì "Người Là" cho con người, thông phần
bản tính của Người cho ta vì lẽ Người đã chọn yêu ta cách tự do. Bản chất của
Kitô-giáo là nhận biết chương trình này của Thiên Chúa.
D. THIÊN CHÚA (HO THEOS) : NGÔI THỨ NHẤT TRONG BA
NGÔI THIÊN CHÚA
Như vừa nói, làm con Thiên Chúa là mục đích mà
Thiên Chúa muốn con người đạt tới. Đây là công trình của cả Ba Ngôi. Vậy Tân
Ước dùng từ "Ho Theos" là có ý chỉ Chúa Cha hay cả Ba Ngôi ? Vấn đề
này liên hệ tới Thần học Tín lý và Thần học Kinh Thánh.
Thần học kinh viện hiểu từ này chỉ ngôi vị Thiên
Chúa sở hữu thần tính, nên từ này có thể chỉ từng ngôi và có thể chỉ chung Ba Ngôi.
Như thế, Thần học kinh viện cho rằng từ "Ho Theos" trên bình diện
ngôi vị là một khái niệm tổng quát. Kinh Thánh Tân Ước có hiểu như thế không ?
Theo Tân Ước, từ "Ho Theos" chỉ Chúa Cha,
Ngôi Thứ Nhất, đồng thời qua đó xác định vị trí của Chúa Con và Chúa Thánh Thần
trong cộng đồng Ba Ngôi.
Trong Tân Ước, có 6 trường hợp "Theos"
chỉ Chúa Con :
- Rm
9,5t : Đức Kitô được gọi là Thiên Chúa vượt trên mọi sự.
- Ga 1,1
: Lời (Logos) được gọi là "Theos" (Thiên Chúa).
- Ga
1,18 : nói về người Con Một là Thiên Chúa.
- Ga 20,
28 : Tôma tuyên xưng Đức Giêsu là ".Thiên Chúa của tôi".
- 1 Ga
5,20 : Đức Kitô là Thiên Chúa thật.
- Tt
2,13 : Đức Kitô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ.
Trong sáu trường hợp trên, Theos đều là vị ngữ hoặc
có giá trị của một vị ngữ chứ không phải là chủ ngữ, và cả 6 trường hợp đều chỉ
rõ về Đức Kitô. Trong 6 trường hợp, có 5 trường hợp từ "Theos" không
có mạo tự "Ho". Riêng câu Ga 20,28 : "Ông Tôma thưa Người :
"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con". (Ho Theos mou) : câu
này được dùng ở cas vocatif, theo văn phạm tiếng Hipri, cas vocatif đòi một mạo
tự, nên từ "Theos" ở đây có mạo tự "Ho".
Như thế ta thấy, Tân Ước dùng từ "Ho
Theos" hay "Theos" có xác định chứ không chỉ chung chung. Ngoại
trừ 6 trường hợp trên, từ "Ho Theos" luôn luôn chỉ cách trực tiếp
hoặc gián tiếp về Chúa Cha.
Thật vậy, qua cách dùng từ ngữ của Tân Ước, ta có
thể xác quyết như thế, chẳng hạn :
Khi từ "Ho Theos" có liên hệ tới Đức Kitô
:
"Con Thiên Chúa" (Ga
5,25) : "Thiên Chúa" chỉ Chúa Cha.
". Ngôi Lời của Thiên Chúa (Kh
19,13) : "Thiên Chúa" chỉ Chúa Cha.
Khi từ "Ho Theos" được dùng chỉ hoạt động
của Chúa Cha trên Đức Kitô : ta có thể nói như Thánh Tôma rằng các hoạt động
được Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Kitô trong bản tính nhân loại, có thể gán cho
cả Ba Ngôi (Thomas, Ia, q.43, a.8), nhưng ta không thể nói ngược lại là có thể
gán hoạt động của Ba Ngôi cho Đức Kitô.
Khi hai từ "Theos" và "Đức
Kitô" đặt cạnh nhau thì từ "Theos" chỉ Chúa Cha, Ngôi Thứ Nhất,
và Đức Kitô được xác định là Chúa (Kurios), nghĩa là một ngôi vị thần linh, ví
dụ : (2 Pr 1,2) : "Chúc anh em được đầy tràn ân sủng và bình an, trong
sự nhận biết Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Từ "Ho Theos" trong công thức Ba Ngôi chỉ
Chúa Cha (1 Pr 1,2.).
Từ "Ho Theos" chỉ Chúa Cha trong các câu
nói về Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con Thiên Chúa (Ga 20,27 ; Gl
4,4 ; Rm 8,15.). Do đó, không có lý do gì để cho rằng từ "Ho Theos"
chỉ một Thiên Chúa chung chung, kể cả những đoạn Tân Ước không chỉ Chúa Cha
cách minh nhiên, ta cũng thấy chỉ Người cách mặc nhiên, ví dụ : Cv 3,12-16 ; Dt
1,1 : nói tới vị Thiên Chúa hoạt động trong Cựu Ước.
Chính Đức Kitô tránh áp dụng cho mình từ "Con
Thiên Chúa". Tin Mừng nhất lãm không bao giờ đặt từ này nơi miệng Đức
Kitô. Đức Kitô chỉ coi mình là Con (Fils) và đôi lần là Con Người (Fils de
lHomme), và nói Thiên Chúa là Cha của mình (Mt 11,27 ; Lc 22.). Trong Tin Mừng
Gioan, chỉ có 3 lần, Đức Giêsu xưng mình là Con Thiên Chúa (5,25 ; 10,36 ;
11,4). Từ "Cha" được dùng 102 lần và 23 lần là "Cha tôi".
Chắc chắn không phải là vô cớ mà Đức Giêsu, trong các bản văn Tân Ước, tránh áp
dụng từ "Ho Theos" cho mình. Rõ ràng Tân Ước dùng từ "Ho
Theos" làm tên riêng của Chúa Cha.
Trong công thức Ba Ngôi : Đức Kitô nói tới : Cha,
Con và Thánh Thần. Các tông đồ thêm từ "Theos" vào chữ Cha để chỉ
Ngôi Thứ Nhất. Ngôi Thứ Nhất luôn được chỉ bằng các từ "Ho Theos" hay
"Theos Patèr", không bao giờ chữ "Patèr" được dùng một mình
(x. 1 Cr 12,4t ; 1 Cr 1,21t ; 2 Tx 2,13 ; 1 Pr 1,2.).
Tùới đây, chúng ta có thể khẳng định rằng : trong
Tân Ước trừ 6 trường hợp chỉ Đức Kitô, từ "Ho Theos" luôn luôn chỉ về
Chúa Cha, Ngôi Thứ Nhất.
KẾT LUẬN
Trở về với cách hiểu của Tân Ước là điều cần thiết
không những liên hệ đến niềm tin mà còn liên hệ đến đời sống thiêng liêng của
người kitô-hữu.
Chẳng hạn, nếu bằng lòng cầu nguyện với Thiên Chúa
cách chung chung, không phân biệt, chúng ta sẽ đánh mất vị trí trung gian tối
cần thiết của Đức Giêsu và sẽ tạo ra mối nguy là không tin đủ vào Đấng Trung
gian trong đời sống tôn giáo. Khi xác tín chúng ta là con của Chúa Cha, Cha của
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Thứ Nhất, chúng ta sẽ dễ dàng vượt thắng cám dỗ hiểu việc
làm con Thiên Chúa của chúng ta chỉ thuần túy là đạo đức hay tự nhiên. Như thế,
cấu trúc Ba Ngôi sẽ nổi bật trong đời sống tôn giáo, chúng ta sẽ có ý niệm rõ
hơn về vai trò trung gian của Đức Kitô và ý thức nhiều hơn về khuôn mặt của
Thiên Chúa là Cha.