CHÚA CHA,
NGUỒN MẠCH VÀ CÙNG ÐÍCH CỦA PHỤNG VỤ
Linh Mục Micae Trần Ðình Quảng
I.MẤY Ý NIỆM CƠ BẢN
Sách Giáo Lý Công Giáo,
khi bàn về Phụng Vụ như là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi, đã coi Chúa Cha
là nguồn mạch và cùng đích của Phụng Vụ (Phần II, chương I, mục 1). Xác quyết
này chỉ là một phần của một xác quyết toàn bộ: Chúa Cha là nguồn mạch mọi sự,
mọi sự phát xuất từ Chúa Cha (exitus a Deo) và mọi sự hướng về Chúa Cha
(reditus ad Deum)
Lịch sử cứu độ cho thấy
mọi sáng kiến, hành động đều khởi phát từ Chúa Cha: Tạo dựng, ban sự sống, giải
thoát, cứu độ., chính Người thi ân giáng phúc hoặc chúc lành cho thụ tạo. Nhưng
chúc lành lớn lao nhất, trọn hảo nhất, kỳ diệu nhất, là Người đã sai Ðức Kitô,
Con của Người, đến thế gian thực hiện công trình cứu độ cho cả nhân loại, và
nhờ Ðức Kitô, đã ban cho chúng ta Thánh Thần là Hồng Ân tuyệt vời. Chính nhờ
Ðức Kitô, với sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần trong ta, mà Chúa Cha
không ngừng tiếp tục thánh hóa ta và ban cho ta sự sống.
Ðáp lại hành động của
Thiên Chúa là hành vi đáp trả của con người. Hành vi có ý nghĩa nhất của con
người hướng về Thiên Chúa và cùng với vạn vật dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, dân Chúa cũng đã bày tỏ nhiều cách chúc tụng, nhất là khi Thiên
Chúa thực hiện cho họ những việc lạ lùng. Nhưng chỉ nhờ đức Kitô, Ðấng đã dâng
chính mình làm hi lễ tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha, cùng với sự hiện diện và
hoạt động cửa Chúa Thánh Thần, con người mới có thể dâng lên Chúa Cha những lời
chúc tụng hoàn hảo, qua việc ngợi khen , tôn vinh và tạ ơn Người.
Hành động của Thiên Chúa
trong lịch sử cứu độ, cùng với hành vi đáp trả của con người, được trình bày
theo một viễn tượng tóm gọn trong lược đồ: A (Patre), PER (Filium eisum
Christum), IN (Spiritu Sancto), AD (Patrem), trong đó nguồn gốc mọi sự là từ
Chúa Cha và cùng đích mọi sự là hướng về Chúa Cha.
Các tác giả Tân Ước, đặc
biệt Phaolô và Gioan, thường trình bày giáo huấn theo viễn tượng trên, với lược
đồ A, PER, IN, AD hoặc đầy đủ hoặc chỉ một phần. Lấy thí dụ một bản văn điển
hình trong thư Êphêsô 1, 3-14. Phaolô viết:" Chúc tụng Thiên Chúa. (là
Ðấng) cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần (A). Người đã tiền định cho
ta được phúc làm nghĩa tử, nhờ Ðức Giêsu Kitó (PER). Trong Ðức Kitô, cả anh em
nữa. một khi đã tin, Anh em được đóng ấn Thánh Thần (IN). chờ ngày dân riêng
được cứu chuộc để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa (AD)".
Các Giáo Phụ, kể từ thời
Tông Ðồ, tiếp tục trình bày viễn tượng ấy, không chỉ trong giáo huấn mà cả
trong kinh nguyện dâng lên Thiên Chúa. Thánh Pôlycarpô tử đạo, trước lúc chịu
khổ hình, đã thốt lên một lời kinh hầu chắc phản ảnh điều đã thường được đọc
trong cộng đoàn phụng vụ: "Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, là Cha của
người Con Yêu Dấu được chúc phúc là Ðức Giêsu Kitô. Nhờ Ngài mà chúng con được
biết danh Cha. Con chúc tụng Cha đã cho con, ngày hôm nay và giờ này, được dự
phần vào chén của Ðức Kitô, như các chứng nhân của Cha, để thân xác và linh hồn
được sống lại bằng sự sống vĩnh cửu, trong sự bất hoại của Chúa Thánh Thần. Vì
thế, con ca ngợi Cha, chúc tụng Cha, Tôn vinh Cha về tất cả mọi sự, nhờ vị
Thượng Tế vĩnh cửu trên trời là Ðức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Cha, nhờ Ngài
mà vinh quang qui về Cha cùng với Ngài và với Chúa Thánh Thần, bây giờ và mãi
mãi, Amen".
Ngay cả thời kỳ có lạc
giáo Ariô, dù nhấn mạnh thần tính của Ngôi Lời nhập thể, các Giáo Phụ vẫn cho
thấy hành động của Thiên Chúa trong lịch sử rập theo quy luật tổng quát này:
"Chúa Cha làm mọi sự nhờ Ngôi Lời trong Chúa Thánh Thần" (Athanasiô).
Grêgôriô de Nysse cũng nói: "Tất cả những gì Thiên Chúa làm cho tạo vật.
đều xuất phát từ Chúa Cha, tiến triển nhờ Chúa Con, và hoàn tất trong Chúa
Thánh Thần". Chung quy Chúa Cha vẫn là nguồn mạch mọi sự.
Dĩ nhiên, không phải lúc
nào nói về tương quan giữa Thiên Chúa và con người, Tân Ước và Giáo Hội cũng
đều minh nhiên cho thấy lược đồ A, PER, IN, AD. Có rất nhiều bản văn Kinh Thánh
và Giáo Phụ chỉ đơn thuần đề cập đến Thiên Chúa hay một Ngôi nào đó riêng biệt.
Tuy vậy, khi các tác giả này muốn trình bày toàn bộ tương quan giữa Thiên Chúa
và con người theo nhãn quan Kitô-giáo, thì tổng hợp của các Ngài luôn được xây
dựng theo lược đồ trên.
Tương quan này, hay hành
động của Thiên Chúa cùng với sự đáp trả của con người, được thực hiện đăc biệt
trong Phụng Vụ Kitô-giáo, nhất là phụng vụ Thánh Lễ, nơi đặc biệt để Thiên Chúa
và con người gặp gỡ nhau, hay nói đúng hơn, để Thiên Chúa gặp gỡ con người, vì
sáng kiến khởi đầu luôn luôn là từ Thiên Chúa, Thiên Chúa thiết lập một dân,
kêu gọi họ tụ họp lại, để họ đi vào hiệp thông với Người. Ðiều này đã từng xảy
ra trong lịch sử cứu độ, và vẫn tiếp tục được thực hiện nơi chúng ta hôm nay,
nhất là trong Phụng Vụ Thánh. Thực ra, Phụng vụ là một giai đoạn của lịch sử
cứu độ, là phương thế để chúng ta có thể hội nhập vào lịch sử này.
Trong Phụng Vụ, Thiên
Chúa nói với ta, Lời Người được công bố cho ta, mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức kitô
được hiện-tại-hóa, nhờ đó qua các dấu chỉ hữu hình khả giác, Thiên Chúa ban cho
ta ơn thánh hóa cứu độ. Ðó là chiều đi xuống của Phụng Vụ (catabase), là đặc
điểm đầu tiên của Phụng Vụ, cho thấy mọi sự xuất phát từ nguồn mạch là Thiên
Chúa Cha: mời gọi, Lời Chúa, bí tích, ân sủng.
Trước hành động của Thiên
Chúa, con người không giữ thái độ thụ động. Người tín hữu đã nhận biết và tin
Chúa sẵn sàng lắng nghe và vâng phục. Lời Chúa thúc giục họ đáp lại. Tình yêu
của Thiên Chúa thúc giục họ yêu mến Người. Công trình thi ân của Chúa thúc giục
họ ca ngợi và cảm tạ Người. Quyền năng yêu thương của Chúa thúc giục họ cầu xin
Người trợ giúp. Những hành vi này không phải của con người xét như một cá nhân
riêng rẽ, nhưng như một phần tử của cộng đoàn. Những hành vi đáp lại này hướng
về Chúa Cha như một cùng đích, cho thấy Phụng Vụ còn có một chiều đi lên
(anabase), gắn liền và tiếp sau chiều đi xuống.
Do đó Phụng Vụ được coi
là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người. Phụng Vụ thật sự thực hiện một
cuộc trao đổi lạ lùng (admirabile commercium) giữa một Thiên Chúa Cha yêu
thương và các con cái mình.
Tuy nhiên, không như các
hoạt động đạo đức khác, trong Phụng Vụ, Ðức Kitô luôn hiện diện cách đặc biệt
để có thể tiếp tục công trình cứu độ. Ngài hiện diện trong hy lễ, trong Lời
Chúa được công bố, trong thừa tác viên, trong cộng đoàn tụ họp., hiện diện
trong vai trò là Ðấng Trung Gian, thi hành chức vụ tư tế, liên kết Thiên Chúa
và con người. Vì là hành động của Nhiệm Thể, tức gồm cả Ðầu lẫn các chi thể,
nên trong Phụng Vụ, Hội Thánh được Chúa Thánh Thần tác động cùng kết hợp với
hành động của Ðức Kitô. Do đó, Phụng Vụ cũng là hành động của Hội Thánh nhờ Ðức
Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
II. CÁCH DIỄN TẢ CỦA PHỤNG VỤ
Vai trò của Chúa Cha là
nguồn mạch và cùng đích của Phụng Vụ được Phụng Vụ diễn tả như thế nào? - Chúng
ta thử gợi ra đôi nét, dựa vào các kinh nguyện trong Thánh Lễ mà chúng ta
thường xuyên sử dụng.
Hầu hết các lời nguyện
trong Thánh Lễ đều là những lời nguyện dâng lên Chúa Cha như là cùng đích của
mọi lời tôn vinh, cảm tạ và cầu xin. [Nói hầu hết, vì có một số ít dâng lên Chúa
Kitô do ảnh hưởng của một số lời nguyện trước đây đã có cơ cấu như thế, hoặc do
chủ ý của nội dung hướng về Chúa Kitô, hoặc do bối cảnh cụ thể của cử hành
phụng vụ. Chẳng hạn trong lễ trọng kính Mình và Máu Chúa Kitô, lời nguyện nhập
lễ và lời nguyện hiệp lễ khởi đầu bằng câu: "Lạy Chúa Giêsu". Kinh
xin bình an quen thuộc trong nghi thức hiệp lễ cũng hướng về Chúa Kitô:
"Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các Tông Ðồ rằng..". Trước đây
lời nguyện trong lễ kính Chúa Ba Ngôi bắt đầu bằng lời dâng lên Chúa Cha, tuy
có đề cập Chúa Con và Chúa Thánh Thần: "Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
Chúa đã sai Con một là Lời chân lý, và sai Thánh Thần Ðấng thánh hóa muôn
loài."]
Hướng về Chúa Cha là cách
diễn tả đã có từ thời Giáo Hội sơ khai, chắc chắn đã rập theo lời khuyên của
Phaolô: "Hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh
và mọi sự, hãy nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa
Cha" (Ep 5, 19-20). Một quy tắc, một truyền thống đã hình thành: Kinh
nguyện Phụng Vụ hướng về Chúa Cha, qua trung gian của Ðức Kitô. Augustinô viết:
"Một khi đến trước bàn thờ, luôn phải hướng lời cầu nguyện lên Chúa
Cha".
Khởi đầu lời nguyện, chủ
sự đọc: "Lạy Cha (Pater), hoặc "Lạy Chúa" (Domine), "Lạy
Thiên Chúa" (Deus). "Chúa" hay "Thiên Chúa" không chỉ
chung chung, nhưng hiểu về Chúa Cha, vì Chúa Kitô hay Chúa Thánh Thần được nhắc
đến sau, ít nhất trong câu kết dài quen thuộc: "Nhờ Ðức Kitô. hiệp nhất
với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời". Hơn nữa Tân ước vẫn có khuynh
hướng dành cho Chúa Cha danh xưng Thiên Chúa, gọi Người là Cha chúng ta, không
phải Thiên Chúa độc nhất nhưng là Thiên Chúa Cha, và coi điều Cựu Ước nói về
Thiên Chúa là nói về Chúa Cha.
Tiếp theo, lời nguyện
thường đề cập một vài thuộc tính nào đó của Chúa (của Chúa Cha mà cũng là của
cả Ba Ngôi), như: "toàn năng", "hằng hữu", "Ðấng Tạo
Thành"; rồi nhắc lại một hay vài hành động được thực hiện trong lịch sử
cứu độ, hoặc do đích thân Chúa Cha hoặc qua Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần, các
thánh, tức là nhắc tới Chúa Cha như là Ðấng a quo omnia. Hành động này là Lý do
để dân Chúa dâng lên Cha những tâm tình tôn thờ, cảm tạ, thống hối và cầu xin.
Kinh tạ ơn (Prex
Eucharistica). Là trọng tâm và cao điểm của cử hành Thánh Lễ, Kinh Tạ Ơn là một
lời mời gọi lên Chúa Cha, tạ ơn vì công trình cưú độ của Người. Quy chế tổng
quát Sách Lễ Rôma viết: "Linh mục mời giáo dân hướng tâm hồn lên để cầu
nguyện và tạ ơn Thiên Chúa, đồng thời liên kết họ với mình trong lời cầu
nguyện, để nhân danh tất cả cộng đoàn dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha, qua Ðức
Giêsu Kitô. Ý nghĩa của lời cầu nguyện này là toàn thể cộng đồng tín hữu kết
hợp với Ðức Kitô mà tuyên xưng những kỳ công của Thiên Chúa và dâng hy lễ"
(số 54).
Các yếu tố chính của Kinh
Tạ Ơn cũng được trình bày hướng về Chúa Cha:
Việc tạ ơn: "Linh
mục nhân danh toàn thể dân thánh mà tán tụng Chúa Cha và cảm tạ Người về tất cả
công trình cứu chuộc, hoặc về lý do nào đó đặc biệt, tùy theo ngày, tùy lễ, tùy
mùa khác nhau" (ibid., số 55a).
Lời tung hô "Thánh,
Thánh, Thánh" là lời tung hô Chúa Cha.
Epiclese là lời kêu cầu
trong đó linh mục nài xin Chúa Cha sai Thần Khí là Ðấng Thánh Hóa.
Phần tường thuật và lập
bí tích Thánh Thể và phần hiến thánh: tuy nhắc lại lời nói và việc làm của Ðức
Kitô, nhưng hy lễ do Ðức Kitô thiết lập trong bữa tối sau hết là hy lễ dâng lên
Chúa Cha.
Việc tưởng niệm
(anamnèse) liên hệ với Chúa Cha, vì cử hành Phụng Vụ luôn qui chiếu về những
lần Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử để cứu độ con người, đặc biệt những việc
thực hiện nơi Ðức Kitô, nhất là nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô.
Việc dâng tiến: "Hội
Thánh dâng của lễ tinh tuyền lên Chúa Cha" (ibid., số 55e).
Lời chuyển cầu: Ðây cũng
là những lời cầu nguyện dâng lên Chúa Cha, để cầu cho Hội Thánh và cho mọi chi
thể, còn sống cũng như đã qua đời, dựa vào sự hiệp thông của toàn thể Hội
Thánh.
Vinh tụng ca kết thúc
chính là Lời chúc tụng đưa mọi vinh quang và danh dự về Cha là Thiên Chúa toàn
năng.
Dĩ nhiên, Kinh Tạ Ơn cũng
cho biết những phúc lành khác nhau được thực hiện cho con người đều phát xuất
từ Chúa Cha. Lược đồ A.AD được áp dụng ở đây như trong các kinh nguyện khác,
nhưng được khai triển nhiều hơn, rộng hơn, và đặt trọng tâm vào chính hy tế của
Ðức Kitô.
Lấy thí dụ Kinh Tạ Ơn IV,
một kinh ghi đậm dấu vết Kinh Thánh và Phụng Vụ nhất, và như vậy rập theo cơ
cấu truyền thống của kinh nguyện nhất. Ðây là kinh thức có lời Tiền Tụng riêng
và cố định, vì theo cấu trúc, lời Tiền Tụng này phải gắn liền với phần kế tiếp.
Kinh Tạ Ơn IV "trình
bày sơ lược tất cả mầu nhiệm cứu độ" (ibid., số 322d), nên khởi đầu bằng
việc hướng lên Cha là nguồn mạch cứu độ. Rập theo truyền thống Giáo Phụ, Kinh
chia làm hai phần. Phần đầu là Lời Tiền Tụng, nhấn mạnh khía cạnh thần học, nói
lên một số thuộc tính của Thiên Chúa, nhất là sự tốt lành. Sang phần hai, lời
Kinh chuyển hướng, được trình bày theo viễn tượng lịch sử cứu độ, nhắc lại
những công trình Chúa Cha đã thực hiện cho con người qua những giai đoạn lớn,
những thời điểm chủ chốt: tạo dựng và sa ngã, chuẩn bị công cuộc cứu độ, sai
Chúa Thánh Thần đến với các tín hữu để hoàn tất chương trình.
Chịu ảnh hưởng sâu đậm
của Kinh Thánh (nhiều câu trong lời Kinh lặp lại hầu như nguyên văn bản văn
Kinh Thánh), Kinh Tạ Ơn IV làm nổi bật tình yêu của Chúa Cha đối với con người,
qua tình bạn thuở đầu, việc thiết lập Giao Ước, việc Chúa Kitô xuống thế đem
tình yêu của Chúa Cha đến cho mọi người, nhất là những người nghèo khó.
III.THAY LỜI KẾT
Nếu Chúa Cha là nguồn
mạch và cùng đích của Phụng Vụ, có cần phải lập một lễ riêng để kính Người
không? Câu hỏi này ít nhiều liên hệ với đề tài. Vần đề được đặt ra là vì Chúa
Con và Chúa Thánh Thần, mặc dù đã đóng vai trò chủ chốt trong Phụng Vụ, vẫn có
những lễ kính riêng, trong khi một lễ về Chúa Cha, ngay cả lễ ngoại sùng, cũng
không có.
Thực sự từ lâu và nhiều
lần, đã có những ý kiến đề nghị dành một lễ riêng kính Chúa Cha trong Năm Phụng
Vụ, nhưng Tòa Thánh luôn luôn bác bỏ. Một quy tắc đã trở thành truyền thống cho
rằng một ngày lễ phụng vụ không nhằm kính nhớ một tín điều thuần túy, nhưng đối
tượng của nó phải là một sự kiện hay một biến cố của lịch sử cứu độ. Nếu là một
chân lý đức tin thì chân lý ấy phải được bày tỏ trong biến cố nào đó của lịch
sử này.
Chúng ta hiểu vì sao
trong suốt hơn năm thế kỷ, Tòa Thánh vẫn không chấp nhận lễ kính Chúa Ba Ngôi,
dù lễ này đã xuất hiện ở Pháp từ đầu thế kỷ IX, được cử hành trong nhiều đan
viện, và có nhiều người xin chính-thức-hóa nó trong Giáo Hội Tây Phương. Sở dĩ
thế vì đối tượng của lễ này là một tín điều thuần túy. Do ảnh hưởng của việc
chống lạc giáo Ariô, người ta muốn có lễ này để minh nhiên khẳng định sự duy
nhất về bản tính nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng lại không dính dáng gì với lịch
sử cứu độ. Chỉ mãi tới năm 1334, Rôma mới chấp nhận lễ này như một luật trừ,
đặt nó vào sau Mùa Phục Sinh và buộc cử hành cho cả Tây Phương, vì coi nó như
một cách hoàn tất nhãn quan Kitô-giáo về lịch sử và thế giới. [Trong Phụng Vụ
canh tân sau Vaticanô II, lễ này vừa nhấn mạnh bản thể duy nhất của Ba Ngôi
(lời Tiền Tụng và các lời nguyện), vừa khai triển hoạt động của từng Ngôi trong
lịch sử cứu độ (các bài đọc)].
Do quan niệm truyền thống
như vậy nên không có chỗ cho một lễ riêng kính Chúa Cha.
Nhưng có người như cha R.
Cantalamessa (trong "La vie dans la seigneurie du Christ", trang
126-127) lại nghĩ khác. Theo tác giả, không có một lễ dành cho Chúa Cha là một
điều lạ, một thiếu sót, một chuyện đáng buồn. Ngay cha nuôi của Ðức Giêsu còn
có hai lễ, mà lại không có chỗ nào dành cho Cha thật. Nhiều lễ phát sinh là để
đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của một giai đoạn lịch sử Lễ Kính Mình Thánh
Chúa Kitô chẳng hạn, như một phản ứng chống lại Béranger de Tours phủ nhận sự
hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Thánh Thể. Hay như lễ kính Thánh Tâm Chúa
Giêsu, khi có lạc thuyết Jansénisme. Những lễ như vậy đã đem lại rất nhiều lợi
ích cho đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Ngày nay, nhiều người lãng
quên Chúa Cha, thậm chí khước từ Người vì những lý do này khác, nên cũng cần có
một lễ riêng kính Người.
Ngày lễ chính là một cách
huấn giáo sống động, một cơ hội giúp dân Chúa đi sâu vào một mầu nhiệm hay một
biến cố của lịch sử cứu độ, một cách tuyên tín chung, long trọng, hân hoan vì
được lông trong cử hành Phụng Vụ, trong lời ca ngợi và tạ ơn của cả dân Chúa.
Chúa Cha đáng được tôn kính riêng theo cách đó.