NỖI KHỔ CỦA THIÊN CHÚA CHA
ÐGM
Phaolô Bùi Văn Ðọc
Gần đây thần
học nói nhiều đến sự quên lãng Chúa Thánh Thần, đặc biệt là trong Giáo Hội
Latinh.
Còn Chúa Cha
thì sao ?
Phải chăng Người
cũng là ngôi vị Thiên Chúa bị lãng quên và thậm chí bị ngộ nhận nhiều nhất ?
Ngay cả một số kitô-hữu cũng đã lẫn lộn Ðức Giêsu với Chúa Cha, dùng danh xưng
"Cha" để nói với Ðức Giêsu.
Khuôn mặt
người cha, tuy được đề cập đến rất nhiều, đặc biệt trong khoa phân tâm học,
tiếng cha cũng vẫn được đọc lên mọi nơi mọi lúc trong đời sống người kitô-hữu,
thế nhưng dường như Người đã không được nhận biết, tin nhận đúng như Ðức Giêsu
Con Một của Người mạc khải.
"Không ai biết Cha." (Mt 11,27)
Và một trong
những đường nét chính nơi khuôn mặt Chúa Cha đã bị ngộ nhận hoặc không được đón
nhận đúng mức, đó là nét đau khổ của Thiên Chúa.
"Thiên Chúa đã không tha cho chính Con của
Người, nhưng phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy." (Rm 8,32).
Thiên Chúa đã
không tha cho chính Con của Người
Hay đã không
dung tha cho chính trái tim người Cha ?
Tuy những
nguy cơ do Khổ phụ thuyết (Patripassianisme), Hình thái thuyết (Modalisme) hoặc
những quan niệm suy lý về Thiên Chúa, về Hữu Thể Tuyệt Ðối. khiến ta cảm thấy
như không thể hoặc không nên nói đến "Nỗi khổ của Thiên Chúa", thế
nhưng, bất chấp tất cả, dựa vào mạc khải Ðức Giêsu đặc biệt là trong mầu nhiệm
thập giá, chúng ta biết Chúa Cha đau khổ và có thể nói về Nỗi khổ của Người để
đi sâu hơn vào Tình Yêu vô lượng của Cha.
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến
nỗi." (Ga 3,16).
I. SỰ TỪ
KHƯỚC CHÚA CHA
Chúa Cha đã
biểu lộ tình yêu của Người đối với chúng ta, bằng cách để cho Con của Người
phải chịu chết. Nói theo kiểu Phaolô, Thiên Chúa đã không tha cho Con của
Người. Ðây là một khẳng định làm cho chúng ta ngỡ ngàng.
Một số quan
niệm thần học trước đây đã làm cho người ta ngộ nhận rất nhiều về Chúa Cha. Nếu
Ðức Giêsu nghe thấy những quan niệm của họ, chắc Ngài phải đau khổ mà thốt lên lạy Cha công chính, thế gian không biết Cha.
Trong lịch sử
thần học, khó khăn để dung hòa lòng tốt của Chúa Cha với cái chết của Ðức Giêsu
có hai nguồn gốc :
1. Nguồn gốc thứ nhất là phát xuất từ chính Giáo Hội : cách giải
thích và trình bày mầu nhiệm cứu chuộc. Chúng ta có thể dừng lại một bài giảng
ngày thứ Sáu Tuần Thánh của một nhà hùng biện thời danh trong Giáo Hội là Ðức
Cha Bossuet : Tâm hồn thánh thiện của
Ðấng cứu độ tôi tràn đầy nỗi sợ đối với một Thiên Chúa nổi giận sấm sét ; tâm
hồn ấy muốn ngã vào vòng tay của vị Thiên Chúa ấy, để tìm nơi nương tựa. Tâm
hồn ấy thấy Người quay mặt đi, Người phó nộp tâm hồn ấy cho sự giận dữ vì sự
công bình bị vi phạm. Ôi Giêsu, Ngài còn nương tựa vào đâu ? Bị con người dồn vào
ngõ cụt bằng bạo lực ghê gớm nhất, Ngài đã ngã vào vòng tay Cha của Ngài ; và
Ngài đã cảm thấy bị từ chối, Ngài thấy Cha Ngài bách hại Ngài, bỏ rơi Ngài, để
cho sức nặng báo thù đè lên vai Ngài. Ðức Giêsu phải chịu đựng sự nhờm tởm của
Thiên Chúa, vì Ngài cầu cứu, nhưng Cha Ngài không lắng nghe Ngài ; và phải chịu
đựng sự phẫn nộ của Thiên Chúa, vì Ngài cầu xin, nhưng Cha không nhậm lời Người
: phải chịu đựng sự công thẳng của Thiên Chúa, vì Ngài khổ đau, mà Cha vẫn
không nguôi (Bài giảng cho triều đình vua nước Pháp thứ sáu Tuần Thánh năm
1662).
Quan điểm này
xây dựng trên ý niệm đền tội (expiation), được giải thích cách lệch lạc, làm
hoen ố gương mặt Chúa Cha. Người trở nên Ðấng không thể nguôi giận, Ðấng không
hề cảm động và đòi hỏi giá máu Con của mình. Ðiều sai của thần học kinh viện và
của một vài giáo phụ trước thời kinh viện là đã chuyển cách trình bày bằng hình
ảnh của Kinh Thánh (giá chuộc người nô lệ) thành một ý niệm dùng để giải thích.
Thực sự đây là hai loại ngôn ngữ khác nhau. Loại I là ngôn ngữ biểu tượng chỉ gợi ý, rồi thôi, không dừng lại ở biểu
tượng. Loại II là một ngôn ngữ trực tiếp chỉ nghĩa, và chữ ấy luôn luôn chỉ như vậy
2. Nguyên nhân II là sự nghi ngờ đối người cha trong tư
tưởng và văn hóa hiện đại. Sự nghi ngờ này phát xuất từ khám phá phân tâm học
của Freud về mặc cảm Oedipe. Hơn nữa lại có nhiều người muốn ứng dụng cách phổ
quát cho mọi lãnh vực khám phá phân tâm học này, và đặc biệt cho lãnh vực tôn
giáo. Họ muốn giải thích một cách duy lý niềm tin vào Thiên Chúa là Cha trong các
tôn giáo, đặc biệt là Kitô-giáo.
Khám phá của
khoa phân tâm học không phải là một điều bịa đặt, nhưng bắt nguồn từ cuộc sống
đời thường của con người : cách sống và cư xử độc đoán của một số người cha,
khiến cho nhiều người rất dễ đồng hóa người cha với sự độc tài và cấm đoán.
II. NỖI ÐAU
KHỔ CỦA THIÊN CHÚA
Một trong
những lý do quan trọng làm cho người ta từ khước Thiên Chúa là Cha, đó là nỗi đau khổ của những con người vô tội.
Con người đau khổ, Thiên Chúa thì không, vì Thiên Chúa không thể đau khổ. Ðức
Giêsu đau khổ, nhưng Chúa Cha thì không. Có đúng như vậy không ?
Thái độ của Thiên Chúa trước đau khổ của con người
Khi Kinh
Thánh gặp gỡ triết học Hylạp, cớ vấp phạm lớn nhất cho triết học là sự đau khổ
của Thiên Chúa. Ngay trong quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh là sách Sáng Thế đã có khẳng định hết sức rõ
ràng về Thiên Chúa : Người đã phải đau
khổ trong lòng (St 6,6). Toàn bộ sách thánh như vang vọng lời than của
Thiên Chúa : Hỡi dân ta, Ta đã làm gì cho
ngươi ? Ta đã làm gì cho ngươi ngán mệt ? Hãy trả lời cho Ta (Mc 6,3). Trời hỡi hãy nghe ; đất hỡi hãy lắng tai, vì
Giavê phán : Ta đã gầy dựng cho đàn con lớn, cho chúng trưởng thành, và chúng
đã ngỗ nghịch cùng Ta (Is 1,2).
Thiên Chúa
không buồn phiền vì chính mình, nhưng phiền muộn vì con người hư mất, phiền
muộn vì yêu thương. Thiên Chúa như bất
lực vì yêu thương con người. Loài người thờ ngẫu tượng và chống lại Thiên
Chúa ; thay vì tiêu diệt họ, Thiên Chúa như bị ray rứt vì yêu thương : Làm sao Ta nỡ bỏ ngươi ?. Lòng Ta đảo lộn
trong Ta, mối chạnh thương sôi réo cả lên (Hs 11,8).
Con người đau
khổ, nhưng Thiên Chúa cũng đau khổ vì phải hành động trái với ước muốn của
mình. Trong sách Ai Ca, chính Thiên Chúa phải than !
Ðó là điều mà
triết học khó chấp nhận. Thiên Chúa của triết gia thì trừu tượng, là một nguyên
lý, là sự Thiện Hảo. Thiên Chúa có thể được yêu (aimé), nhưng không thể yêu
(aimant). Thiên Chúa là động lực làm cho mọi sự chuyển động, nhưng chính Người
thì không chuyển động, Người bất biến. Thiên Chúa là Ðấng Tuyệt Ðối, không thể
yêu ghét, không có tình cảm vui buồn. Triết gia khó chấp nhận các tình cảm của
Thiên Chúa được mô tả trong Kinh Thánh.
Ðó là quan
niệm phổ thông về Thiên Chúa trong thời kỳ thần học phôi thai. Chính vì thế đã
có một nỗ lực thay Thiên Chúa của Kinh Thánh bằng Thiên Chúa của triết gia
(khuynh hướng ngộ đạo thuyết). Nhưng Giáo Hội đã phản ứng, không chấp nhận.
Theo Tertullien, thì chỉ nơi con người các passions
mới là hư hoại, còn nơi Thiên Chúa thì các passions
thì bất hoại (Adv. Marc. II,16).
Ngay cả những
người chịu ảnh hưởng của triết học nhiều như Origène vẫn trung thành với cách
nhìn của Kinh Thánh. Ví dụ đối với Origène, cuộc khổ nạn trần thế và lịch sử
của Ðức Giêsu là hậu quả của một cuộc khổ
nạn trước đó của Chúa Cha vì yêu thương chúng ta. Cuộc khổ nạn mà Thiên
Chúa chịu đựng vì chúng ta ngay từ đầu là khổ nạn vì yêu. (Origène, In Ez. hom.
6,6). Như thế là Origène đã đi vào gốc rễ của vấn đề : Chúng ta có dám tin
Thiên Chúa là Tình Yêu không ? Các triết gia cũng nghĩ rằng là nếu chúng ta
đồng ý là thần linh có thể yêu loài người và thiết tha với vận mệnh của loài
người, thì một cách nào đó, thần linh cũng phải đi vào cơn lốc của loài người. Chính vì thế mà triết gia không chấp nhận là
Thiên Chúa có thể yêu. Kinh Thánh thì ngược lại, Kinh Thánh khẳng định Thiên
Chúa là Tình Yêu. Ðau khổ chắc chắn hợp với Thiên Chúa hơn là sự lạnh lùng vô
cảm. Thiên Chúa chịu khổ nạn vì yêu.
Chữ passio diễn tả tương quan mật thiết giữa
tình yêu và đau khổ. Passio vừa là
một tình yêu đến tận cùng, vừa là một đau khổ lớn lao.
Chúng ta có
thể nói đến một khúc quanh trong quan niệm về Thiên Chúa : Thiên Chúa tiên vàn
là Tình Yêu tuyệt đối, và cũng là Quyền Năng tuyệt đối (Balthasar, Mysterium
Salutis,III,2). Grégoire le Thaumaturge dùng thành ngữ la passion de lImpassible. Vô cảm hay không có khả năng đau khổ là
một giới hạn đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ thiếu tự do. Thiên Chúa, nếu muốn,
có thể đau khổ ; và vì yêu, Người muốn. Ngay cả sự phẫn nộ của Thiên Chúa cũng
vậy, tất cả là vì yêu : Thiên Chúa đánh ta trong thời gian để cứu ta trong vĩnh
cửu. Có lẽ đó là khía cạnh mà khoa hiện tượng luận về tôn giáo gọi là tremendum nơi Thiên Chúa.
III. SỰ ÐỒNG
CHỊU KHỔ CỦA CHÚA CHA
Thái độ của
Chúa Cha đối với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu như thế nào ? Có phải Chúa Cha chỉ
làm cho Con đau khổ và chứng kiến Con đau khổ ?
Câu Rm 8,32 :
Thiên Chúa không tha cho Con của Người,
nhưng phó nộp Con vì chúng ta hết thảy, chỉ có thể hiểu đúng nếu chúng ta
liên tưởng tới đoạn sách Sáng thế 22,16 nói về Abraham và Isaac : Vì ngươi không tha cho con của ngươi, con
một của ngươi.
+ Abraham
không tha cho Isaac - Thiên Chúa không tha cho Ðức Giêsu.
+ Abraham đi
với Isaac lên núi - Thiên Chúa đồng hành với Ðức Giêsu trên đường khổ nạn.
+ Ðau khổ lớn
nhất của Abraham là khi Isaac gọi Cha ơi
- Ðau khổ lớn nhất đối với Thiên Chúa là lúc Ðức Giêsu gọi Abba.
+ Abraham sẵn
sàng chết thay cho con - Chúa Cha như sẵn sàng chết thay cho Con. Lúc Ðức Giêsu
thắc mắc lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài bỏ
tôi ? Chính là lúc Cha ôm chặt Con vào lòng.
Câu Rm 8,32
có nghĩa : Thiên Chúa không giữ Ðức Giêsu Kitô cho riêng mình, mà đã hy sinh
Ngài cho tất cả chúng ta. Không những Cha nhận hy tế của Con, mà chính Cha hy
sinh Con Một. Hy sinh lớn nhất của Chúa Cha là ban Con Một cho chúng ta. Thánh
Augustinô, khi nghĩ đến điều này đã thốt lên : Lạy Cha rất nhân lành của chúng con, Cha đã yêu chúng con dường nào,
Cha đã không tha cho Con Một, nhưng đã phó nộp Con cho những kẻ vô đạo là chúng
con ! (x. X,43).
Tư tưởng của
thần học cổ cũng đã được Tertullien ghi lại : Con chịu khổ hình, Cha đồng chịu khổ (adv. Praxeam 29). Chúa Cha
chịu khổ nạn trong Con Yêu Dấu của mình.
Vì sự xuất
hiện của Khổ phụ thuyết, mà quan niệm cổ ở trên biến mất. Chủ đề Compassion du Père phai mờ dần, và người
ta đi đến chỗ phân biệt passion voulue
chung cho Ba Ngôi với passion subie
chỉ riêng cho Ðức Giêsu. Thiên Chúa đau
khổ dần dần trở thành Thiên Chúa
không thể đau khổ. Sự vô cảm được coi như ưu phẩm cao nhất của Thiên Chúa
và trở nên lý tưởng của sự thánh thiện trong đời tu (apatheia).
Nhưng giáo lý
chính thống của Giáo Hội luôn khẳng định một
trong Ba Ngôi đã chịu khổ hình. Nếu một Ngôi đau khổ thì cả Ba Ngôi đều đau
khổ (D 201, 222). Dĩ nhiên nơi Chúa Cha, nỗi đau khổ có khác với đau khổ nơi
Chúa Con nhập thể làm người : Con chịu khổ hình, Cha đồng chịu khổ.
Ngày nay chủ
đề nỗi đau khổ của Thiên Chúa đang
trở lại (K. Kitamuri, Theology of the pain of God, Richmond 1965). Ðối với Chúa
Cha, việc phó nộp Con mình là nguyên nhân của đau khổ lớn nhất, sâu nhất, mà
không đau khổ nào ở trần gian có thể so sánh. Cuộc khổ nạn của Ðức Giêsu chịu
đóng đinh mạc khải cuộc khổ nạn của Chúa
Cha.
Gioan Phaolô
II lấy lại tư tưởng này trong thông điệp về Chúa Thánh Thần : Sự đau đớn khôn dò và khôn tả của Chúa Cha
làm nảy sinh nhiệm cục kỳ diệu của Tình Yêu Cứu Ðộ trong Ðức Giêsu Kitô. Sự đau
khổ của Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi nhân tính của Ðức Giêsu Cứu Thế (MK
39).
Ngày hôm nay,
Thiên Chúa vẫn không ngừng đau khổ vì loài người chúng ta : Ôi Tình Yêu lại không được yêu ! Sao
chúng ta dám nói chỉ có con người đau
khổ, còn Thiên Chúa thì không !
IV. YÊU
THƯƠNG VÀ VÂNG PHỤC
Nơi Chúa Giêsu
chịu nạn, vừa có tự do, vừa có sự vâng phục (Ga 10,17-18 : pouvoir - commandement). Chúa Cha đã ra lệnh cho Chúa Con lúc nào
và như thế nào ? Tôma tiến sĩ trả lời : Chúa
Cha đã phó nộp Con mình chịu chết, đã gợi cho chính Con ý muốn chịu khổ vì
chúng ta, bằng cách phó cho Con Tình Yêu (S. Th. III,47,3). Lệnh truyền của
Chúa Cha là hãy yêu mến loài người ! Cha
trao cho Con bản tính của mình, mà
bản tính của Cha là Tình Yêu, Cha đã
truyền lại cho Con nỗi đam mê yêu thương,
và tình yêu này đã đưa Con lên thập giá. Chính vì thế mà trong Tân Ước, có chỗ
nói Chúa Giêsu chết vì yêu chúng ta (Ep
5,2), chỗ khác lại nói vì vâng phục Chúa
Cha (Pl 2,8). Tình Yêu và sự vâng phục, sự dâng hiến và đòi hỏi đi đôi. Ðó
là điều hết sức huyền nhiệm dẫn chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Ba Ngôi : Tình
Yêu từ sự Duy Nhất, Vâng phục từ Ba Ngôi. Tình Yêu chung cho Ba Ngôi, vâng phục
là riêng của Ngôi Con. Sự vâng phục hoàn hảo nhất là vâng phục vì yêu thương :
lấy ý muốn của Cha làm ý muốn của chính mình. Trên bình diện con người, sự vâng
phục này không phải dễ dàng, và Ðức Giêsu phấn đấu hết sức để vâng phục Cha với
ý muốn con người.
V. TIN TƯỞNG
NƠI CHA
Ðau khổ của
Thiên Chúa không là dấu hiệu yếu đuối, nhưng là dấu chỉ của tình yêu mạnh mẽ. Thiên Chúa là Cha Toàn Năng. Nơi Thiên Chúa
vừa có Tình Yêu, vừa có sự Toàn Năng. Thiên Chúa là Tình Yêu Toàn Năng. Quyền
Năng vô hạn của Thiên Chúa biểu lộ qua sự đau khổ vô hạn. Thiên Chúa chiến
thắng sự dữ bằng chịu đựng. Người muốn chiến thắng không bằng sức mạnh, nhưng
bằng tình yêu, làm gương cho chúng ta chiến
thắng sự dữ bằng sự thiện (Rm 12,21).
Ðừng quên
rằng việc đồng chịu khổ của Chúa Cha
không dừng lại ở cuộc khổ nạn, nhưng tiến đến Phục Sinh. Thiên Chúa không lúc nào
nghĩ đến cái chết của Chúa Giêsu mà không nghĩ tới Phục Sinh. Khi phục sinh Ðức
Giêsu, Chúa Cha đã bày tỏ cho thấy quyền năng của Người vĩ đại dường nào (Ep
1,19-20). Tình yêu toàn năng của Thiên Chúa tạo cho chúng ta lòng tin tưởng : Nếu Thiên Chúa phò trợ ta, ai nào dám chống
lại ta ? (Rm 8,32).
Ðức Giêsu đã
hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Cha trong lúc đau khổ nhất : Lạy Cha, Con phó thác linh hồn Con trong tay Cha (Lc 23,46).
(Tham chiếu : Dieu na pas épargné son propre Fils, le
mystère de la souffrance de Dieu
Raniero Cantalamessa, La vie dans la Seigneurie du
Christ, Ed. Du Cerf, Paris 1997, p. 109-127).