LỜi Chúa trong
đỜi sỐng HỘi Thánh :
viỆc giẢi thích LỜi Chúa.[1]
Lm. PX.
Vũ Phan Long OFM.
Kinh
Thánh là Lời Thiên Chúa được diễn tả trong ngôn ngữ loài người (I.A.a). Tư
tưởng và lời lẽ vừa thuộc về Thiên Chúa vừa thuộc về con người theo cách là
toàn bộ Kinh Thánh phát xuất tức khắc từ Thiên Chúa và từ tác giả nhân loại
được linh hứng (III.D.2.c).
Chỉ có
bản văn chính lục ở giai đoạn cuối cùng mới diễn tả Lời Thiên Chúa (I.A.4.f).[2]
Bởi vì
là Lời Thiên Chúa, Kinh Thánh thực hiện một vai trò đặt nền móng, nâng đỡ, và
phê bình trong Giáo Hội, cho thần học, cho công việc giảng dạy và cho huấn
giáo. Kinh Thánh là một nguồn mạch cho đời sống đức tin, đức cậy và đức mến của
Dân Thiên Chúa và là một ánh sáng chiếu soi toàn thể nhân loại (Dẫn nhập B.b).
I.
Nguyên
tẮc 1 :
Khoa chú giẢi công giáo và “khoa hỌc”
Các bản
văn Kinh Thánh là công trình của các tác giả nhân loại. Các ngài đã dùng khả
năng riêng và những phương tiện mà thời đại và bối cảnh xã hội các ngài đặt ở
tầm tay các ngài mà diễn tả. Cách chú giải công giáo tự do sử dụng các phương
pháp và các tiếp cận[3]
khoa học cho phép nắm bắt tốt hơn ý nghĩa của các bản văn trong bối cảnh văn
chương, văn hóa - xã hội, tôn giáo và lịch sử của chúng (III.a).
Cách chú
giải công giáo phải được vận dụng sao cho có tính phê bình và khách quan tối
đa.
Khoa chú
giải công giáo góp phần tích cực vào việc phát triển các phương pháp mới và vào
sự tiến bộ của công việc nghiên cứu (III.a). Trong công việc này, các học giả
công giáo cộng tác với các học giả không phải là công giáo (III.C.a).
I.
Nguyên
tẮc 2 :
Chú giẢi công giáo và lỊch sỬ
Khoa chú
giải công giáo phải liên hệ với lịch sử do đặc tính lịch sử của mạc khải Kinh Thánh.
Mặc dù Kinh Thánh không phải là một sách lịch sử theo nghĩa hiện đại và mặc dù
Kinh Thánh hàm chứa nhiều văn thể khác nhau, trong đó có cả truyện hư cấu, Kinh
Thánh làm chứng cho một thực tại lịch sử, nghĩa là cho các hành vi cứu độ của
Thiên Chúa trong quá khứ mà có những liên hệ với hiện tại.
Muốn
giải thích một bản văn Kinh Thánh, phải dựa vào ý nghĩa được diễn tả bởi các
tác giả nhân loại (II.B.1.g).
Công
việc nghiên cứu lịch sử đặt các bản văn Kinh Thánh trong bối cảnh cổ xưa của
chúng, nhờ đó giúp soi sáng ý nghĩa của sứ điệp của tác giả Kinh Thánh cho các
độc giả ở tại nguồn và cho chúng ta.
Mặc dù
khoa chú giải công giáo dùng một phương pháp lịch sử, nó không duy lịch sử
(historiciste) hoặc duy thực nghiệm (positiviste),[4] khi chỉ chấp
nhận là chân lý những gì có thể chứng minh bằng phân tích lịch sử giả thiết là
khách quan.
II.
Nguyên
tẮc 3 :
SỬ dỤng phân tích ngỮ hỌc [5]
và văn chương
Bởi vì
Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa đã được diễn tả trong dạng chữ viết, cần phải có
việc phân tích về ngữ học (philologie) và văn chương, để hiểu được tất cả các
phương tiện mà các tác giả Kinh Thánh đã dùng để thông tri sứ điệp của các
ngài.
Việc
phân tích ngữ học và văn chương góp phần xác định những cách đọc xác thực, hiểu
từ vựng và cú pháp (syntaxe),[6]
phân biệt ra các đơn vị trong bản văn, xác định các văn thể, phân tích các
nguồn, và nhận ra được tính mạch lạc bên trong bản văn (I.A.3.c). Thường thường
hai công việc phân tích này làm sáng tỏ những gì tác giả nhân loại nhắm truyền
đạt.
Việc
phân tích văn chương nhấn mạnh trên tầm quan trọng của việc đọc Kinh Thánh theo
kiểu đồng đại (I.A.3.c ; Kết luận c-d), của việc đọc các bản văn trong bối cảnh
văn chương của chúng, và của việc nhận ra được nhiều ý nghĩa trong các bản văn
viết (II.B.d).
III.
Nguyên tẮc 4 :
PhẦn đóng góp cỦa khoa giẢi
thích
theo quan điỂm triẾt hỌc.
Bởi vì
giải thích Kinh Thánh bao hàm một hành vi hiểu biết của con người giống như
việc hiểu biết bất cứ bản văn viết cổ nào, việc giải thích công giáo nên đón
nhận những đóng góp của các lý thuyết giải thích của triết học.
Không
thể hiểu bất cứ bản văn viết nào nếu không có “tiền thức”, nghĩa là những tiền
giả định để hướng dẫn việc tìm hiểu (II.A.1.a). Hành vi hiểu biết hàm ý có một
biện chứng giữa tiền thức của người giải thích và cái nhìn của bản văn
(II.A.1.c). Dù sao, tiền thức này cần phải sẵn sàng đón nhận các sửa chữa trong
khi đối thoại với thực tại của bản văn (II.A.1.a).
Bởi vì
việc giải thích Kinh Thánh bao hàm tính chủ quan của người giải thích, chỉ có
thể hiểu Kinh Thánh nếu có một liên hệ sống căn bản giữa người giải thích và
đối tượng của ông (II.A.2.c).
Có một
số lý thuyết giải thích không thích hợp do những tiền giả định không phù hợp
với sứ điệp của Kinh Thánh (Bultmann với thuyết “giải huyền” : II.A.2.d ; cách
đọc bảo thủ : I.F [7]).
Khoa
giải thích theo quan điểm triết học điều chỉnh một vài khuynh hướng của khoa
phê bình - lịch sử vì cho thấy chủ trương thực nghiệm lịch sử là không phù hợp
(II.A.2.c), vai trò của độc giả trong việc giải thích, có thể có nhiều nghĩa
vượt ra bên ngoài toàn bộ ý nghĩa lịch sử của một bản văn, và các bản văn mở ra
với nhiều nghĩa (II.B.c ; Kết luận d).
Bởi vì
trong Kinh Thánh, các Kitô hữu tìm ý nghĩa của các bản văn cổ cho hiện tại,
công việc phê bình văn chương và lịch sử phải được tháp vào trong một mẫu giải
thích vượt lên trên khoảng cách về thời gian giữa nguồn gốc của bản văn và thời
hiện đại của chúng ta (II.A.2.a). Chính Kinh Thánh và lịch sử của việc giải
thích Kinh Thánh, cả hai cho thấy một cái khung (pattern) cho việc đọc lại các
bản văn dưới ánh sáng của những hoàn cảnh mới (II.A.2.b).
IV. Nguyên tẮc 5 :
MỘt viỆc giẢi thích trong đỨc tin
Tri thức
Kinh Thánh không được dừng lại ở các từ ngữ, các khái niệm và biến cố. Tri thức
này phải tìm cách đi tới thực tại mà ngôn ngữ muốn nói tới, một thực tại siêu
việt, thông giao với Thiên Chúa (II.A.1.d).
Chỉ lý
luận mà thôi thì không thể hiểu trọn vẹn các biến cố và sứ điệp được kể lại
trong Kinh Thánh. Để thực sự hiểu biết Kinh Thánh, người ta phải đón nhận ý
nghĩa được cung cấp nơi các biến cố, và trên hết mọi sự, nơi bản thân Đức Giêsu
Kitô (II.A.2.d). Bởi vì là Lời Thiên Chúa, Kinh Thánh phải được đặt dưới ánh
sáng của đức tin để có thể được hiểu đúng đắn. Vậy, chú giải là một khoa thần
học.
Cần có
ánh sáng của Chúa Thánh Thần để giải thích đúng đắn Kinh Thánh. Vì một người
lớn lên trong sự sống của Thần Khí, khả năng hiểu biết của họ về các thực tại
mà Kinh Thánh nói đến cũng gia tăng (II.A.2.f).
V.
Nguyên
tẮc 6 :
Vai trò cỦa cỘng đoàn đỨc tin
Cộng
đoàn đức tin, Dân Thiên Chúa, cung cấp bối cảnh đúng là thích hợp cho việc giải
thích Kinh Thánh (I.C.1.g). Kinh Thánh thành hình bên trong các truyền thống
đức tin của Ít-ra-en và Giáo Hội sơ khai và cũng góp phần làm phát triển các
truyền thống này(III.A.3.f).
Kinh
Thánh thuộc về toàn thể Giáo Hội (III.B.3.i) và tất cả các thành viên của Giáo
Hội đều có một vai trò trong việc giải thích Kinh Thánh (III.B.3.b). Thể theo
chính Kinh Thánh, những con người thân phận hèn kém lại là những thính giả ưu
tuyển của Lời Thiên Chúa (III.B.3.f).
Hàng
giáo sĩ, các huấn giáo viên, các nhà chú giải và những người khác có vai trò
đặc biệt khác nhau trong việc giải thích Kinh Thánh (III.B.3.i). Quyền bính
Giáo Hội có trách nhiệm trông coi sao cho việc giải thích được trung thành với
Tin Mừng và với Truyền Thống vĩ đại, và Huấn Quyền đóng một vai trò uy quyền
tối hậu, nếu có trường hợp cần tới (I.C.a ; III.B.3.i).
VI. Nguyên tẮc 7 :
GiẢi thích dưỚi ánh sáng cỦa TruyỀn thỐng Kinh Thánh,
cỦa tính Duy nhẤt cỦa Kinh Thánh và cỦa Thư Quy
Khoa chú
giải công giáo tìm cách giải thích Kinh Thánh trong sự tiếp nối với cái khung
năng động giải thích mà người ta tìm thấy ngay bên trong Kinh Thánh. Trong Kinh
Thánh, các tác phẩm sau thường lệ thuộc những tác phẩm trước khi các tác giả
đọc lại những gì đã được viết ra trước dưới ánh sáng của những vấn đề và những
hoàn cảnh mới (III.A.1.a). Khoa chú giải Kinh Thánh tìm cách vừa trung thành
với cách hiểu trong đức tin được diễn tả trong Kinh Thánh vừa duy trì việc đối
thoại với thế hệ hôm nay.
Khoa chú
giải công giáo nhìn nhận tính duy nhất cốt yếu của Kinh Thánh (III.A.1.a), thâu
tóm nhiều viễn tượng khác biệt nhau (III.A.2.g), nhưng trình bày mọt toàn bộ
những chứng từ về một Truyền Thống vĩ đại (I.C.a ; III.A.a).
Khoa chú
giải công giáo giải thích các bản văn riêng lẻ trong ánh sáng của toàn thể Thư
Quy của Kinh Thánh (I.C.1.b ; III.D.4.b).
VII. Nguyên tẮc 8 :
GiẢi thích CỰu ƯỚc
dưỚi ánh sáng cỦa MẦu nhiỆm VưỢt Qua
Giáo Hội
coi Cựu Ước như Kinh Thánh (được linh hứng), trung thành truyền đạt mạc khải
của Thiên Chúa (III.A.2.a ; III.B.1.b).
Tân Ước
giải thích Cựu Ước dưới ánh sáng của Mầu nhiệm Vượt Qua (I.C.1.i). Cuộc đời,
cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu hoàn tất Cựu Ước (III.A.2.a). Việc Đức
Giêsu cũng như việc các tông đồ giải thích Cựu Ước được diễn tả trong Tân Ước
dưới sự soi sáng của Thánh Thần là có uy tín, cho dù một vài phương thức giải
thích được các tác giả Tân Ước sử dụng phản ánh những đường lối suy tư riêng
của một thời đại nào đó (III.A.2.f).
Các Kitô
hữu không giới hạn ý nghĩa của Cựu Ước vào những nẻo đường trong đó Cựu Ước
chuẩn bị cho Đức Kitô ngự đến. Đúng hơn Giáo Hội đánh giá cao lối giải thích
theo Thư Quy của Cựu Ước trước lễ Vượt Qua Kitô giáo như một giai đoạn trong
Lịch sử cứu độ (I.C.1.i). Các Kitô hữu tiếp tục rút ra được sự nâng đỡ từ sứ
điệp linh hứng của Cựu Ước (III.A.2.e).
VIII. Nguyên tẮc 9 :
GiẢi thích dưỚi ánh sáng
cỦa TruyỀn ThỐng sỐng đỘng cỦa Giáo HỘi
Khoa chú
giải công giáo đặt mình một cách ý thức vào trong dòng Truyền Thống sống động
của Giáo Hội (III.b) và tìm cách trung thành với mạc khải đã được Truyền Thống
vĩ đại truyền đạt, và chính Kinh Thánh đã làm chứng (Kết luận e).
Bên
trong Truyền Thống sống động này, các Giáo Phụ có một vai trò nền tảng, vì các
ngài đã rút từ toàn thể Sách Thánh những đường hướng căn bản giúp hình thành
truyền thống đạo lý của Giáo Hội, và đã cung cấp một giáo huấn thần học phong
phú để dạy dỗ và nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng cho các tín hữu (III.B.2.b).
Tuy nhiên, cách chú giải công giáo không bị
ràng buộc bởi các phương pháp chú giải của các Giáo Phụ (II.B.2.h ;
III.B.2.k).
IX.
Nguyên
tẮc 10 :
MỤc tiêu cỦa viỆc giẢi thích :
GiẢi thích sỨ điỆp tôn giáo cỦa Kinh Thánh
Mục tiêu
ưu tiên của lối chú giải công giáo là giải thích sứ điệp tôn giáo của Kinh
Thánh, nghĩa là ý nghĩa của nó như là lời mà Thiên Chúa tiếp tục ngỏ với Giáo
Hội và toàn thể thế giới (IV.a ; III.C.1.b). Mục tiêu tối hậu của khoa chú giải
công giáo là nuôi dưỡng và xây dựng thân thể Đức Kitô với Lời Thiên Chúa.
X.
Nguyên
tẮc 11 :
Nghĩa chỮ
Nghĩa
chữ của Kinh Thánh là nghĩa đã được các tác giả nhân loại được linh hứng diễn
tả ra trực tiếp. Bởi vì là hoa trái của ơn linh hứng, nghĩa này cũng được Thiên
Chúa, là tác giả chính, nhắm tới. Người ta đi tới nghĩa này nhờ phân tích kỹ lưỡng
bản văn bên trong bối cảnh văn chương và lịch sử của nó (II.B.1.c).
Các
nghĩa chữ của nhiều bản văn có một khía cạnh năng động khiến ta có thể đọc lại
chúng sau này trong những hoàn cảnh mới (II.B.1.e).
XI. Nguyên tẮc 12 :
Nghĩa thiêng liêng, Nghĩa tiên trưng
Nghĩa
thiêng liêng của Kinh Thánh là ý nghĩa được các bản văn thánh diễn tả ra, khi
đọc chúng dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần trong bối cảnh mầu nhiệm Vượt Qua
và đời sống mới tuôn trào ra từ đó (II.B.2.b).
Nghĩa
thiêng liêng luôn luôn được đặt trên nền tảng là nghĩa chữ. Cần phải có một
tương quan liên tục và phù hợp giữa nghĩa chữ và nghĩa thiêng liêng, để cho
nghĩa chữ của một bản văn Cựu Ước được hoàn tất ở một cấp độ cao hơn trong Tân
Ước (II.B.2.e).
Tiên
trưng là một phương diện của nghĩa thiêng liêng (II.B.2.i).
XII. Nguyên tẮc 13 :
Nghĩa trỌn
Nghĩa
trọn / sung mãn (sensus plenior) là một nghĩa sâu hơn của bản văn, được Thiên
Chúa muốn có nhưng không được tác giả nhân loại diễn tả rõ ràng (II.B.3.a).
Nghĩa này có nền tảng trong sự kiện Chúa Thánh Thần, tác giả chính của Kinh
Thánh, có thể hướng dẫn tác giả nhân loại chọn lựa các cách diễn tả sao cho các
cách diễn ta này nói lên một chân lý mà chính các tác giả cũng không thấu triệt
được trọn vẹn chiều sâu của chúng (II.B.3.c).
Ta có
thể nhận ra rằng một bản văn Kinh Thánh có một nghĩa trọn khi ta nghiên cứu bản
văn dưới ánh sáng của những bản văn Kinh Thánh khác hoặc những truyền thống
giáo lý uy tín đã sử dụng bản văn ấy (II.B.3a).
XIII. Nguyên tẮc 14 :
SỬ dỤng phương pháp phê bình – lỊch sỬ
Phương
pháp phê bình - lịch sử là dụng cụ cần thiết của việc chú giải khoa học để tìm
ra nghĩa chữ theo một cách thức lưỡng sử (I.A.4.g ; I.A.a).
Để làm
được công việc này, cần phải có một việc nghiên cứu theo cách tổng sử hình thái
cuối cùng của bản văn, là Lời Thiên Chúa được diễn tả ra (I.A.4.f).
Phương
pháp phê bình - lịch sử có thể và phải được sử dụng mà không cần các tiền giả
định triết học ngược lại niềm tin Kitô giáo (I.A.4.b-c).
Mặc dù
quan trọng, phương pháp phê bình-lịch sử không thể hưởng độc quyền, và các nhà
chú giải phải ý thức về các giới hạn của nó. Các nhà chú giải phải nhận biết
khía cạnh năng động và khả năng phát triển của ý nghĩa (Kết luận d).
Giới thiệu phương pháp
phê-bình lịch sử (I.A) : A. Nguyên tẮc Đây là một phương pháp lịch
sử, vì được áp dụng vào các bản văn cổ của Kinh Thánh và nghiên cứu tầm
mức lịch sử của các bản văn ấy. Phương pháp này đặc biệt tìm cách làm sáng tỏ
các tiến trình lịch sử đưa tới chỗ các bản văn được soạn ra, rồi được gửi tới
các thính giả, độc giả sống trong những hoàn cảnh không gian và thời gian
khác nhau. Đây cũng là phương pháp phê bình, vì cố gắng từng bước tuân theo
những tiêu chuẩn khách quan tối đa, nhắm giúp độc giả hiện đại đạt tới ý
nghĩa của các bản văn. A. Mô tẢ Phương pháp này được tiến hành theo ba bước : 1. Phê
bình văn bản (textual criticism) Công việc phê bình văn bản
nhắm khám phá ra những sửa đổi trong một bản văn để mong đi tới bản gốc. Muốn
thế, phải phân loại các dị bản trong truyền thống thủ bản, và chọn những dị
bản nào nhiều hy vọng đại diện cho bản gốc nhất. Như vậy, sẽ phải phê bình
ngôn từ, phê bình ngoại diện và phê bình nội tại. a. Phê
bình ngôn từ (verbal criticism) Công việc này nhằm khám phá ra cách thức bản văn đã bị sửa đổi,
bởi vì từ bản gốc đến bản chép tay, rồi bản in, có rất nhiều thay đổi. 1/
Những dị bản vô tình : -
một thặng sao (dittography) : lặp lại
thừa một mẫu tự, một vần, một từ, một chi câu. -
một thoát
sao (haplography) : chỉ viết một lần một mẫu tự, một vần, một từ, mà
lẽ ra phải lặp lại. -
một khuyết sao/thất sao (parablepsis) :
bỏ sót cả một đoạn do những từ, những dòng hoặc những câu có cùng một phần
cuối như nhau (homoðoteleuton), khiến mắt người chép vô tình lướt từ chữ
này sang chữ khác. -
sai lỗi do đọc một bản chữ xấu. -
sai lỗi do nghe sai : o/ô ; ei/e ; ou/u. -
sai lỗi do nhớ sai : thay thế các từ ; đảo lộn
thứ tự các từ trong câu ; đổi các con chữ trong một từ (elabon thành
eballon hoặc ebalon ; [h]ai martyrousai thành [ha]martanousai)
2/
Những dị bản cố ý : -
sửa hoặc thêm các từ ngữ cho đúng ngữ pháp : Kh
1,4 (apo ho = tou ?) ; 1,5-6 (liên từ kai nối c. 6 với c. 5
khiến nhiều người chép đã đổi epoiêsen thành poiêsanti) ; 2,20 (hê
legousa = tên legousan ?) . -
dung hoà các bản văn song song hoặc các câu
trích bằng cách bỏ đi các khác biệt : đưa Ga 19,20 vào mở đầu cho câu
trích Lc 23,38 ; dung hòa -
thêm vào hoặc sửa đổi để bổ túc : bổ sung Mt
9,13 bằng Lc 5,32 ; Cl 1,23 (thay thế diakonos bằng kêrys
kai apostolos, hoặc diakonos kai apostolos) ; Gl 6,17 (thêm
vào Iêsou bằng kyriou Iêsou, kyriou Iêsou Christou, kyriou
hêmôn Iêsou Christou). -
sửa cho hợp với lịch sử hoặc giáo lý : Mc
1,2 (thay vì trong sách Ngôn sứ Isaia, thì sửa là trong các sách
Ngôn sứ, vì có cả Ml 3,1 và Is 49,3) ; 1Cr 7,14
(“Thật vậy, chồng ngoại đạo được thánh hóa nhờ vợ”, nhiều thủ bản thêm “nhờ
vợ có đạo”) ; Lc 23,32
(“Có hai tên gian phi khác cũng được điệu đi xử với Người”, có người chép đã
bỏ từ “khác” đi). Dù được cố ý đưa vào, các dị bản này không nhất thiết do ý xấu
của người chép. b. Phê
bình ngoại diện (external criticism) Công việc này chỉ dựa trên
uy tín của các tài liệu chứa dị bản, chứ không quan tâm đến giá trị nội tại
của dị bản: cân nhắc kỹ càng tuổi, con số và đặc tính của các thủ bản. c. Phê bình nội tại (internal criticism) Có hai nguyên tắc chính : -
khi cứu xét bản văn, thì chọn dị bản nào giải
thích dị bản khác. -
khi cứu xét mạch văn, thì chọn dị bản nào phù
hợp hơn với khuynh hướng riêng của tác giả. Do đó, không những phải lưu ý tới
phương pháp, từ vựng, ngữ pháp, giọng văn, cách trích dẫn, mà cả các dự
phóng, các ý tưởng, và cá tính của ông nữa.
L. Pirot diễn ra thành 7 quy
tắc : (i) Lectio difficilior
est potior : Bản văn khó hiểu hơn phải được chọn ưu tiên (trừ khi mạch
văn không cho phép). (ii) Lectio brevior est
potior : Bản văn ngắn hơn phải được chọn ưu tiên, bởi vì người chép có
khuynh hướng giải thích (Nhưng nguyên tắc này không vững nữa nếu ta ghi nhận
có các lỗi trong sao chép). (iii) Phải chọn bản văn nào
có vẻ là ở tại nguồn của các bản văn khác (giải thích bản văn khác). (iv) Bất cứ dị bản nào có vẻ
là một bản văn đã được sửa chữa cố ý đều bị loại bỏ. (v) Trong các đoạn song
song, các kiểu đọc khác nhau đáng được lưu ý hơn là những kiểu đọc giống
nhau, bởi vì người chép có khuynh hướng dung hòa. (vi) Phải ưu tiên chọn bản
văn nào phù hợp với ngôn ngữ, tâm thức và thần học của tác giả thánh. (vii) Trước khi trực tiếp
cứu xét một dị bản, cần lưu ý đến các đặc tính của thủ bản trong đó có dị bản
kia. Toàn bộ thủ bản cho biết các năng khiếu hoặc những yếu kém của người
chép, cái mẫu ông theo, cách trình bày (kích cỡ các dòng chữ; những lời giải
thích) và cách thức thủ bản đã được sử dụng. Ngoài ra, còn một số qui tắc
bổ sung như : -
Dị bản phù hợp với những hình thái diễn tả của
người sê-mít. -
Dị bản không phù hợp với những hình thái hoặc
lối sử dụng Phụng vụ. -
Dị bản không phù hợp với những quan điểm giáo
lý ở bên ngoài. Vậy, khi đứng trước một bản văn hầu chắc đã bị sửa dù mọi thủ
bản đều chép như thế, ta có thể sửa lại, nhưng phải rất cẩn thận. Ví dụ : Ga
19,29 : Các thủ bản quan trọng đều chép là hussôpô (một loại cây nhỏ),
nhưng rất có thể từ gốc là hussô (cái giáo). 2. Phê
bình văn chương (literary criticism) Sau khi đã xác định được bản văn, cần nghiên cứu ý nghĩa và xác
dịnh ý nghĩa qua các chặng : a. Ngôn
ngữ -
nghiên cứu từ vựng, ngữ pháp và lối hành văn
của bản văn. -
ghi những từ ngữ chuyên môn, và lưu ý tới cách
sử dụng và ý nghĩa qua các thời đại. -
lưu ý đến mạch văn. -
nghiên cứu những đoạn song song. b. Bố
cục -
phân tích nội dung để tìm ra dàn bài và phương
pháp tác giả khai triển tư tưởng (Đừng gán tư tưởng của ta cho ngài !). -
tìm các nguồn. -
xác định văn thể để có thể giải thích tốt bản
văn. c. Phê
bình lịch sử (historical criticism) Công việc này nhằm đặt tác
phẩm vào trong khung cảnh lịch sử là môi trường đích thực của nó, nhờ các
ngôn ngữ, khoa khảo cổ (các nền văn minh cổ xưa, các bản văn, các bi ký...),
khoa sử ký, địa lý, thần thoại học... Sử gia chỉ có thể hiểu các
yếu tố trong bản văn nếu nắm được các định luật vẫn điều hành xã hội loài
người. Lịch sử không phải là một sưu tập những tài liệu hay những khám phá
của khoa khảo cổ. Lịch sử là hiệp thông với đời sống của những con người
thuộc một thời đại, rồi tìm ra những điểm thường hằng trong đời sống họ. Ông
sẽ làm hai việc : 1/ Nhận biết những định luật bất di bất dịch của quá khứ
cũng như hiện tại ; 2/ Tưởng tượng khá nhiều để từ những dữ kiện khách quan
đã đạt mà tái lập những hoàn cảnh và vấn đề của một thời đại. Trong thực tế, công việc phê bình văn chương và phê bình lịch sử
không đi theo nhau cách lô-gích hoặc theo thời gian, mà chúng lồng vào nhau,
dựa lên nhau. Đó không phải là một vòng lẩn quẩn, mà là điều kiện của công
việc nghiên cứu khoa học về quá khứ: Nhờ các ngành khoa học khác nhau hỗ trợ
qua lại, các phương diện khác nhau của quá khứ rạng tỏ dần dần. |
XIV. Nguyên tẮc 15 :
NhiỀu phương pháp và tiẾp cẬn khác
Cách chú
giải công giáo có đặc điểm là mở ra với nhiều phương pháp và tiếp cận. Mặc dù
phương pháp phê bình - lịch sử có vị trí ưu tiên, các phương pháp và tiếp cận
văn chương dựa trên truyền thống, các khoa học xã hội, hoặc các hoàn cảnh hiện
đại đặc thù có thể giúp đi sâu vào trong ý nghia của lời Kinh Thánh. Tuy nhiên,
giá trị của các giúp đỡ hiểu biết này phải đáp ứng sự hòa hợp của chúng với các
nguyên tắc căn bản đang hướng dẫn việc giải thích công giáo.
Giới thiệu các phương pháp
và tiếp cận khác : 1. Phân
tích tu từ học (analyse rhétorique)
(I.B.1) Các nhà chuyên môn vận dụng
khoa “tu từ học” để giải thích Kinh Thánh, bởi vì đã nhận thấy các bản văn
Kinh Thánh có ngôn ngữ thuyết phục. Tuy nhiên, mỗi ngành “tu từ” đều có những
giới hạn, mà nói chung là : vì chỉ có thể miêu tả, phương pháp phân tích này
chỉ chú ý đến văn phong thôi ; vì là phương pháp đồng đại, phương pháp này không
thể trả lời được những câu hỏi liên hệ đến lịch sử; và có thể không khoa học
khi gán cho bản văn những đặc tính tu từ hy-lạp / la-tinh hoặc sê-mít mà nó
không có. 2. Phân
tích thuật truyện (analyse narrative)
(I.B.2) Một phần lớn Kinh Thánh có dạng thuật truyện và làm chứng. Do
đó, có thể dùng phương pháp phân tích thuật truyện để đi từ ý nghĩa lịch sử
của bản văn sang tầm mức của bản văn đối với độc giả hôm nay. Tuy nhiên, vì
phương pháp này nhấn mạnh tới tính hữu hiệu của Lời Chúa đối với cuộc sống
con người hôm nay nên có thể rơi vào nguy cơ chủ quan khi giải thích bản văn.
Do đó, vẫn cần được bổ sung bởi kết quả của các nghiên cứu lịch đại. 3. Phân
tích ký hiệu (analyse sémiotique)
(I.B.3) Phương pháp này, trước đây
được gọi là phương pháp “phân tích cấu trúc”, chú trọng nhiều đến sự kiện mỗi
bản văn Kinh Thánh là một toàn thể mạch lạc, tuân theo những quy luật ngữ học
rõ rệt, thiết lập một quan hệ “liên bản văn” với mỗi độc giả. Như thế, phương
pháp này góp phần giúp hiểu Kinh Thánh, Lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng
ngôn ngữ loài người. Tuy nhiên, phương pháp này có thể rơi vào hai nguy cơ
căn bản : 1/ không nhận biết những gì
đã làm phát sinh ra bản văn hoặc không nhận biết tác giả với hoàn cảnh sống
của ông ; 2/ rơi vào những nhận xét
thuần túy hình thức, chứ không đạt tới nội dung phong phú của chính bản văn.
Có lẽ còn có một nguy cơ nữa, đó là thái độ chủ quan khi giải thích và gán
cách võ đoán các ý nghĩa cho bản văn. Người ta có thể vượt qua các nguy cơ
này nếu ưu tiên quan tâm đến những dấu chỉ ý nghĩa được chính bản văn truyền
tải, thay vì gán cho bản văn những mẫu cấu trúc tiền chế. 4. Tiếp
cận thư quy (I.C.1) Tiếp cận này có ba điểm tích
cực : a. Tiếp cận này phản ứng
đúng đắn chống lại việc coi trọng quá đáng những gì được coi là nguyên thủy
và tiên khởi, y như thể những cái đó mới chân thực. Đặc biệt nó giúp người ta
ý thức về tính duy nhất và hình thái vĩnh viễn của các bản văn chính lục. b. Một quyển sách chỉ trở
thành Kinh Thánh dưới ánh sáng của toàn Thư Quy. Do đó khoa chú giải không
được ưu tiên chọn một bản văn giả thiết là thuộc nguồn gốc mà bỏ một bản văn
thuộc Thư Quy, hoặc bỏ qua mối quan hệ nối kết các sách thánh lại với nhau.
Vậy học giả cứ việc tái lập những chặng lịch sử hình thành một quyển sách
thánh, nhưng công việc này phải đưa đến chỗ hiểu sứ điệp được ban cho cộng
đoàn đức tin hôm nay đang đọc Kinh Thánh trong tính duy nhất của nó. c. Tiếp cận này đã có lý khi
khiến chú ý đến tương quan giữa Thư Quy
Kinh Thánh và cộng đoàn tín hữu. Cộng đoàn này là bối cảnh tương xứng để giải
thích các bản văn Kinh Thánh. Trong cộng đoàn ấy, đức tin và Chúa Thánh Thần
làm cho việc chú giải được phong phú. Tuy nhiên, tiếp cận này cũng
hàm chứa những phương diện gây vấn đề : 1/ Về xác định “tiến trình
Thư Quy”. Kể từ điểm nào ta có thể nói một bản văn thuộc Thư Quy? Dường như
có thể nói một bản văn thuộc Thư Quy từ khi cộng đoàn gán cho nó một uy tín
mô phạm, ngay cả trước khi nó có hình thức cố định. Mà chúng ta biết rằng Thư
Quy của Kinh Thánh Do-thái chỉ được xác định vào đầu tk iii, còn Thư Quy của Giáo Hội Công
Giáo chỉ được xác định với CĐ Phirenxê (1442) và Trentô (1546). Như thế, bản
văn đã được giải thích “theo Thư Quy” để được đưa vào Thư Quy. Vậy phải có
tiến trình đưa tới chỗ thành lập Thư Quy là quy tắc giúp giải thích Kinh
Thánh ngày hôm nay? 2/ Đàng khác, Thư Quy
Do-thái và Thư Quy Kitô giáo không giống nhau, thì việc “giải thích theo Thư
Quy” sẽ không giống nhau, vì mỗi bản văn được đọc trong quan hệ với toàn
khối. 3/ Nhất là Giáo Hội chúng ta
đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của biến cố Vượt qua (cái chết và sự sống lại của
Đức Kitô) là biến cố đưa lại một sự mới mẻ tận căn và với một uy tín tối
thượng, cung cấp cho Kinh Thánh một ý nghĩa quyết định và chung cuộc. Tuy nhiên,
mỗi giai đoạn Lịch sử cứu độ có giá trị của nó. 5. Tiếp
cận dựa vào những truyền thống giải thích của Do Thái (I.C.2) Các truyền thống Do Thái cổ
giúp hiểu bản LXX hơn. Nền văn chương Do Thái ngoài Thư Quy (Khối Ngụy Thư
hay liên ước) là nguồn quan trọng giúp giải thích Tân Ước. Các phương thức
chú giải được thực hành bởi các khuynh hướng khác nhau trong Do Thái giáo
cũng có trong Cựu Ước. Ngoài ra, các bản targum và midrash, các nhà bình
luận, các chuyên gia ngữ pháp và từ điển Do Thái của thời Trung Cổ và gần
đây, cũng giúp các nhà chú giải hiểu nhiều đoạn văn tăm tối hoặc những từ ngữ
hiếm. Tuy nhiên, Văn kiện lưu ý : a. Không được quên tính chất
phức tạp của thế giới Do Thái hoặc không để ý rằng, do những lý do lịch sử ai
cũng biết, trong các nguồn Rabbi, khuynh hướng Pharisêu chiếm ưu thế trên các
hình thái khác của Do Thái giáo cổ. Bây giờ chúng ta đã có những bổ sung nhờ
những nghiên cứu mới đây về phong trào khải huyền và các bản văn Qumrân. b. Đàng khác, vì các bản văn
Do Thái giáo cổ thuộc nhiều thế kỷ, cần phải đặt chúng vào khung thời gian
trước khi tiến hành đối chiếu. c. Nhất là quan trọng là bối
cảnh tổng quát của Do Thái giáo và Kitô giáo : tôn giáo Do Thái xác định một
dân tộc và một lối sống từ một tác phẩm được mạc khải và một truyền thống
khẩu truyền, trong khi cộng đoàn Kitô giáo thì được qui tụ lại do niềm tin
vào Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại, và hiện đang sống, là Đấng Mêsia và Con
Thiên Chúa. Hai khởi điểm ấy, đứng về phương diện giải thích Kinh Thánh, tạo
ra hai bối cảnh hoàn toàn khác nhau, mặc dầu có nhiều điểm gạp nhau và giống
nhau. 6. Tiếp
cận nhờ lịch sử hiệu quả của bản văn (I.C.3) Tiếp cận này dựa trên hai
nguyên tắc : a. Một bản văn chỉ trở thành
một tác phẩm văn chương nếu gặp được những độc giả ban sự sống cho nó bằng
cách chiếm lấy nó cho mình ; b. Việc chiếm hữu bản văn
như thế, có thể theo cách cá nhân hoặc cộng đoàn và trên những lãnh vực khác
nhau (văn chương, nghệ thuật, thần học, tu đức và thần bí) góp phần giúp hiểu
bản văn hơn. Người ta cố gắng đo lường sự
chuyển biến của việc giải thích qua dòng thời gian dựa vào những điều được
các độc giả quan tâm khi đọc bản văn. Người ta cũng cố gắng đánh giá tầm quan
trọng của vai trò của Truyền Thống trong việc soi sáng ý nghĩa của các bản
văn Kinh Thánh. Trong khi khoa chú giải lịch sử rơi vào nguy cơ giam hãm bản
văn Kinh Thánh trong thời đại và trong hoàn cảnh phát sinh ra nó, và hầu như
cấm cản nó nói một điều gì đó trong thời hiện tại, khoa chú giải theo lịch
sử các hiệu quả của bản văn cho độc
giả thấy chúng ta đã trở nên cái gì và chúng ta có thể trở nên cái gì khi đi
từ các bản văn. Tiếp cận này đã mang lại
những kết quả phong phú, nhưng cần được sử dụng với óc biện phân, tránh ưu
tiên đề cao một giai đoạn nào đó của lịch sử các hiệu quả của bản văn. 7. Tiếp
cận theo xã hội học (I.D.1) Các bản văn Kinh Thánh quan
hệ với các xã hội trong đó chúng ra đời. Tiếp cận này nhấn mạnh rằng cần hiểu
biết thật chính xác về các môi trường khác nhau trong đó các truyền thống
Kinh Thánh được hình thành. Tiếp cận này mở rất rộng tầm
nhìn của nhà chú giải, nhưng cũng có kèm theo những khó khăn, chẳng hạn : các
bản văn không cung cấp đủ tài liệu về một thời 8. Tiếp
cận nhờ khoa nhân học văn hóa (I.D.2) Tiếp cận này vận dụng vào
chú giải tất cả những hiểu biết về nghệ thuật, ngôn ngữ, tôn giáo, y phục, đồ
trang sức, các lễ hội, các vũ khúc, thần thoại, truyền thuyết..., những hạng
người, các vai trò xã hội, gia đình, nhà cửa, liên hệ họ hàng, địa vị phụ nữ,
sinh hoạt đồng áng... Lối tiếp cận này giúp phân
biệt rõ hơn những yếu tố thường tồn trong sứ điệp Kinh Thánh vì có nền tảng
trong bản tính con người, và những yếu tố bất tất vì thuộc về những nền văn
hóa đặc thù. Tuy nhiên, cũng như những lối tiếp cận khác, tiếp cận này tự nó
không nêu rõ được những đóng góp đặc biệt của Mạc khải. 9. Tiếp
cận bằng tâm lý học và phân tâm học
(I.D.3) Các bản văn Kinh Thánh là
những kinh nghiệm về cuộc sống và là những qui tắc ứng xử. Lối tiếp cận này
giúp hiểu rằng Kinh Thánh rất đa dạng. Tuy nhiên cần có một nỗ lực chung giữa
các nhà chú giải và nhà tâm lý, đồng thời phải tôn trọng ranh giới của mỗi bộ
môn, cũng như không được tuyệt đối hóa một lập trường nào. 10. Tiếp
cận duy giải phóng (approche libérationiste)
(I.E.1) Các nhà chú giải đọc Kinh
Thánh theo nhu cầu của dân chúng, để tìm lương thực cho đức tin và đời sống
của họ. Tiếp cận này giúp ý thức về chiều kích cộng đoàn của niềm tin, nhưng
có thể trở thành thiên vị (vì chỉ chọn một số đoạn). 11. Tiếp
cận duy nữ quyền (approche féministe)
(I.E.2) Tiếp cận này vận dụng những phương pháp quen thuộc trong chú
giải, đặc biệt là phương pháp phê bình-lịch sử. Tuy nhiên, tiếp cận này dễ
thiên lệch, nhất là khi đề cập đến quyền bính. |
XV.
Nguyên
tẮc 16 :
HiỆn tẠi hóa
Giáo Hội
đón nhận Kinh Thánh như là Lời Thiên Chúa vừa ngỏ với Giáo Hội vừa với toàn thể
thế giới trong thời đại hiện nay (IV.a). Hiện tại hóa là công việc có thể làm
được do bởi ý nghĩa phong phú hàm chứa trong bản văn Kinh Thánh, và là công
việc cần thiết, bởi vì Kinh Thánh được sáng tác để đáp ứng những hoàn cảnh
trong quá khứ và theo một ngôn ngữ phù hợp với những hoàn cảnh này (IV.A.1.b-c).
Hiện tại
hóa giả thiết chú giải đúng bản văn, xác định được nghĩa chữ của bản văn đó
(IV.A.2.e). Phương pháp chắc chắn nhất và phong phú nhất để hiện tại hóa Sách
Thánh là giải thích Sách Thánh bằng Sách Thánh. Việc hiện tại hóa một bản văn
Kinh Thánh vào cuộc sống Kitô hữu tiến hành bằng cách đặt trong tương quan với
mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội (IV.A.2.f).
Việc
hiện tại hóa gồm ba bước : 1. lắng nghe Lời Thiên Chúa từ trong một hoàn cảnh
cụ thể ; 2. xác định những phương diện của hoàn cảnh hiện tại được bản văn Kinh
Thánh nêu bật hoặc đặt thành vấn đề ; 3. rút từ kho tàng ý nghĩa của bản văn
Kinh Thánh những yếu tố khả dĩ giúp cho hoàn cảnh hiện tại tiến tới một cách
phong phú và hòa hợp với ý muốn cứu độ của Thiên Chúa trong Chúa Kitô (IV.A.2.g).
XVI. Nguyên tẮc 17 :
HỘi nhẬp văn hóa
Nền tảng
của việc hội nhập văn hóa là niềm xác tín rằng Lời Thiên Chúa siêu vượt các nền
văn hóa trong đó Lời được diễn tả. Lời Thiên Chúa có thể và phải được diễn tả
cách nào để tới được với mọi người trong chính bối cảnh văn hóa của họ
(IV.B.b).
Giai
đoạn thứ nhất của việc hội nhập văn hóa là chuyển dịch Sách Thánh sang một ngôn
ngữ khác (IV.B.c). Kế đó là việc giải thích, làm cho sứ điệp Kinh Thánh có
tương quan minh nhiên hơn với những cách cảm nghĩ, cách suy tư, cách sống và
cách diễn tả riêng của nền văn hóa địa phương. Cuối cùng, người ta bước sang
những giai đoạn khác của việc hội nhập văn hóa, đưa tới chỗ hình thành một nền
văn hóa Kitô giáo địa phương, thấm nhập vào mọi phương diện của cuộc sống
(IV.B.e).
Tương
quan giữa Lời Thiên Chúa và các nền văn hóa con người mà việc hội nhập văn hóa
đưa tới là một tương quan làm phong phú lẫn nhau. Các kho tàng phong phú được
chứa đựng trong các nền văn hóa khác nhau giúp cho Lời Thiên Chúa sinh nhiều
hoa trái mới, trong khi ánh sáng của Lời Thiên Chúa giúp biện phân ra những yếu
tố tích cực và những yếu tố có hại (IV.B.f).
XVII. Nguyên tẮc 18 :
ViỆc sỬ dỤng Kinh Thánh trong Giáo HỘi
Việc
giải thích xảy đến trong tất cả mọi cách thức Giáo Hội sử dụng Kinh Thánh – trong
Phụng vụ, lectio divina, trong công việc mục vụ và đại kết.
Theo
nguyên tắc, phụng vụ giúp thực hiện việc hiện tại hóa hoàn hảo nhất các bản văn
Kinh Thánh bởi vì chính Chúa Kitô “nói khi người ta đọc Kinh Thánh trong Hội
Thánh” (PV 7). Phụng vụ dành một vị trí ưu tiên cho các Tin Mừng, và chu
kỳ các bài đọc Chúa Nhật, nối kết một bản văn Cựu Ước với một bài đọc Tin Mừng,
thường gợi ra một cách giải thích tiên trưng (IV.C.1.b-c).
Lectio
divina là đọc Kinh Tthánh như là Lời Thiên Chúa; nhờ sự giúp đỡ
của Chúa Thánh Thần, việc đọc này đưa
tới suy gẫm, cầu nguyện và chiêm niệm (IV.C.2.a).
Công
việc mục vụ sử dụng Kinh Thánh trong huấn giáo, giảng thuyết và việc tông đồ
Kinh Thánh (IV.C.3.a). Kinh Thánh cung cấp nguồn thứ nhất, nền tảng và quy tắc
cho việc dạy giáo lý và giảng thuyết, tại nơi nào mà Kinh Thánh được giải thích
dưới ánh sáng của Thánh Truyền (IV.C.3.b). Vai trò của bài giảng là hiện tại
hóa Lời Thiên Chúa (IV.C.1.d).
KẾt
luẬn :
Công việc
của nhà chú giải và tương quan của việc chú giải với các ngành thần học khác
Nhiệm vụ
của nhà chú giải công giáo vừa là một công việc nghiên cứu vừa là một công việc
phục vụ Giáo Hội (III.C.a). Bởi vì việc giải thích vững chắc đòi hỏi có một sự
liên hệ sống động với những gì đang nghiên cứu và ánh sáng của Chúa Thánh Thần,
cần phải tham gia vào toàn thể đời sống và đức tin của cộng đoàn tín hữu
(III.A.3.g) và cầu nguyện cá nhân (Diễn văn 9).
Nhiệm vụ
hàng đầu của nhà chú giải là cố gắng xác định thật rõ ý nghĩa của các bản văn
Kinh Thánh trong ngữ cảnh của chúng, nghĩa là, trước tiên, trong ngữ cảnh văn
chương và lịch sử đặc thù của chúng, rồi kế đó trong ngữ cảnh rọng hơn là Thư
Quy của Kinh Thánh (III.D.4.b).
Các nhà
chú giải công giáo chỉ thực sự đạt tới đích khi họ đã giải được ý nghĩa của bản
văn Kinh Thánh xét như Lời Thiên Chúa cho ngày hôm nay (III.C.1.b). Các nhà chú
giải cũng phải cắt nghĩa nọi dung Kitô học, thư quy và giáo hội học của các bản
văn Kinh Thánh (III.C.1.c).
Chú giải
là một môn thần học, nên có một quan hệ đối thoại với các môn thần học khác
(Tín lý, Luân lý... : III.D.a).
MỘt sỐ tác phẨm trình bày văn kiỆn cỦa UBKTGH :
-
Anon., “The Catholic Church
& Bible Interpretation”, BRev 10/4 (1994) 32-35.
-
J.A. Fitzmyer,
The Biblical Commission’s Document “The Interpretation of the Bible in the
Church” – Text and Commentary (Subsidia Biblica 18) PIB, Roma 1995.
-
C. Focant,
“L’Interprétation de la Bible dans l’Église”, RTL 25 (1994) 348-54.
-
G. Ghiberti –
F. Mosetto (a c. di), L’interpretazione
della Bibbia nella Chiesa (Elle Di Ci) Leumann (Torino) 1998.
-
H. Haag, “Bilanz eines Jahrhunderts: Ein Lehrschreiben der
Pašpstlichen Bibelkommission”, Orientierung 58/11 (Juni 1994)
129-32.
-
J. Kremer,
“Die Interpretation der Bibel in der Kirche: Marginalien zum neuesten Dokument
der Pašpstlichen Bibelkommission”, Stimmen der Zeit 212/3 (March 1994)
151-66.
-
A. Vanhoye,
“Il nuovo documento della Commissione Biblica”, Osservatore Romano
(27-11-1993) 7.
-
P.S. Williamson,
Catholic Principles for Interpreting Scripture – A Study of the Pontifical
Biblical Commission’s The Interpretation of the Bible in the Church, PIB,
Roma 2001.
[1] Nội dung của bài trình bày này được rút ra từ Văn
kiện của Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo
Hội (nguyên bản tiếng Pháp : L’interprétation de la Bible dans l’Église,
15-4-1993). Các số để trong ngoặc đơn quy chiếu về Văn kiện này.
[2] Thư Quy Cựu Ước được xác định vĩnh viễn với Công Đồng
Trentô (1546), và được CĐ Vatican I nhắc lại (1870). Thư Quy Tân Ước được xác
định bên Đông phương với thánh Athanasiô (367) và bên Tây phương với “Sắc lệnh
của Đức Đamasô” nhu là kết quả của hội đồng Rôma (382).
[4] Chủ nghĩa thực nghiệm (Positivisme) :
Hệ thống triết học coi việc quan sát các sự kiện, coi kinh nghiệm thực tiễn, là
nền tảng duy nhất của kiến thức.
[5] Ngữ học (Philologie) : Ngành nghiên cứu
một ngôn ngữ hoặc mọt gia đình các ngôn ngữ, dựa trên việc phân tích phê bình
các bản văn. Ngôn ngữ học (Linguistique) : Khoa học nghiên cứu về
tiếng nói và các ngôn ngữ.
[6] Cú pháp (Syntaxe) : Toàn bộ các quy tắc nhờ đó các đơn
vị ngữ học được liên kết thành câu.