BÀI SÁU :
LỜI CHÚA TRONG PHỤNG VỤ THÁNH LỄ
Lm. Antôn Nguyễn Đức Khiết
Hiến chế tín lý về Mạc Khải của
Thiên Chúa (Dei Verbum)
của Công đồng Vaticanô II đã nhắc lại cho chúng ta về tình yêu muôn thuở mà
Giáo Hội dành cho Thánh Kinh, đặc biệt là trong Phụng Vụ Thánh, đồng thời bày
tỏ tấm lòng của Giáo Hội tựa như người Mẹ muốn lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc
Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu :
“Giáo Hội luôn tôn
kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh. Giáo Hội
không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình
Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu”. [1]
Bánh của Lời Chúa và Bánh của
Mình Máu Chúa Kitô là hai bàn tiệc nuôi dưỡng đời sống Giáo Hội và tạo nên
khuôn mặt tín hữu của các chi thể. [2]
Một khi Giáo Hội ý thức rằng chính Thánh Thể làm nên Giáo Hội, thì Giáo Hội
cũng thâm tín với niềm hy vọng rằng lòng yêu mến Thánh Kinh cách sâu đậm sẽ
canh tân và làm tươi trẻ khuôn mặt của Giáo Hội :
“Nếu đời sống Giáo Hội được tăng triển nhờ năng lãnh nhận Bí
tích Thánh Thể, cũng thế, cũng có thể hy vọng đời sống thiêng liêng được đổi
mới nhờ thêm lòng sùng kính Lời Chúa, là “Lời hằng tồn tại muôn đời” (Is
40,8 ; 1P 1,23-25) [3]
Ngày 4.12.1963, ngày bế mạc long trọng khoá họp thứ hai của Công đồng
Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium). Ngày 25.1.1964,
Đức Phaolô VI ban Tự sắc Sacram Liturgiam
công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh
bắt đầu có hiệu lực và thành lập một Hội Đồng để thực thi Hiến chế này.
Hiến chế về Phụng Vụ Thánh
đã thổi một luồng gió canh tân vào Giáo Hội. Công cuộc canh tân được đón nhận
cách mau lẹ, nhất là trên bình diện Phụng vụ. Hoa quả dễ thấy nhất của cuộc
canh tân do Công đồng Vaticanô II thực hiện là việc Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
công bố Sách Lễ Rôma được sửa đổi theo sắc lệnh của Công đồng qua Tông Hiến “Sách Lễ Rôma” ngày 3.4.1969 và Thánh Bộ
Phụng Tự công bố ấn bản mẫu thứ nhất của Sách Lễ Rôma mới năm 1970.
Hiến chế về Phụng vụ thánh
đã đưa ra nguyên tắc cho việc canh tân này như sau :
“Mẹ Hội Thánh tha thiết mong ước toàn thể tín hữu được hướng
dẫn tham dự các cuộc cử hành Phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Do
chính bản tính Phụng vụ đòi hỏi việc tham dự như thế, lại nữa, nhờ Phép Rửa
Tội, việc tham dự Phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo,
là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, là
dân được tuyển chọn” (1P 2,9).[4]
Từ nguyên tắc trên, Công đồng đã đưa ra những chỉ thị về canh tân Phụng vụ như sau :
“Trong việc canh tân này, phải
tu chính các bản văn và các nghi lễ, làm sao cho chúng diễn tả rõ
ràng hơn những thực tại thánh mà chúng biểu thị, và để các tín hữu có thể dễ
dàng thấu triệt các thực tại ấy càng nhiều càng tốt, cũng như có thể tham dự
bằng việc cử hành những nghi lễ ấy cách trọn vẹn, linh động và cộng đồng”.[5]
Như vậy, trong việc canh tân Phụng vụ, hai việc làm cụ thể mà Công đồng
đòi hỏi là :
-
Tu
chính các bản văn ;
-
và
tu chính nghi lễ.
Để tu chính các bản văn, trước hết, Công đồng nói đến vai trò của Thánh
Kinh trong Phụng vụ :
“Để xúc tiến việc canh tân, phát triển và thích ứng Phụng
vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động, đã được
truyền thống khả kính của các nghi lễ Đông phương và Tây phương minh chứng”. [6]
Thứ đến, Công đồng đề ra hướng đi cụ thể :
“Trong các việc cử hành thánh, cần phải tu chính việc đọc
Thánh Kinh cho dồi dào hơn, thay đổi hơn và thích hợp hơn”. [7]
Trong Phụng vụ, Lời Chúa được cử hành với nhiều hình thức khác nhau, như
trong các giờ canh thức mà tiêu biểu là Canh Thức đêm Vượt Qua, trong Thánh lễ,
trong các bí tích, á bí tích và trong Phụng vụ các giờ kinh. Tuy nhiên, việc cử
hành này luôn đi theo một cấu trúc căn bản, đó là cấu trúc của giao ước hay của
cuộc đối thoại : Thiên Chúa nói với dân Ngài
qua việc công bố Lời Chúa và dân Chúa đáp trả qua lời cầu nguyện của cộng đoàn.
Đề tài chúng ta chia sẻ với nhau là Lời
Chúa trong Phụng Vụ Thánh Lễ. Như thế, chúng ta đã giới hạn đề tài
lại và khía cạnh cử hành sẽ được
ưu tiên đề cập đến ở đây.
Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma 2000 đã nói về phần Phụng vụ Lời Chúa
như sau :
“Qua lời Thánh Kinh đọc trong Hội Thánh, chính Thiên Chúa
nói với dân Ngài và Đức Kitô, hiện diện trong lời của mình, loan báo Tin Mừng.
Bởi đó, mọi người phải kính cẩn lắng nghe các bài đọc Lời
Chúa, một yếu tố rất quan trọng trong phụng vụ. Mặc dầu Lời Chúa trong các bài
đọc Thánh Kinh hướng về mọi người, thuộc mọi thời đại, và họ có thể hiểu được,
nhưng Lời Chúa sẽ thêm hiệu lực, nhờ việc trình bày sống động, tức là nhờ bài
diễn giảng, là thành phần của hành động phụng vụ”. [8]
Bài chia sẻ gồm 5 phần. Phần thứ
nhất, chúng ta nói đến Phụng vụ Hội Đường Do Thái như nguồn gợi hứng cho Phụng
vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ ; phần thứ hai, nói đến hoa trái của cuộc canh tân
Phụng vụ liên hệ tới việc phong phú hóa bàn tiệc Lời Chúa ; phần thứ ba, nói
đến các điều kiện để đón nhận Lời Chúa ; phần thứ tư, nói đến việc công bố Lời
Chúa trong Phụng vụ Thánh Lễ ; và cuối cùng, nói đến một số quy tắc Phụng vụ
liên quan tới việc lựa chọn các bài đọc Kinh Thánh trong Thánh Lễ, để một cách
nào đó, “mở rộng lối vào Thánh Kinh cho người tín hữu” như ước mong của Công
đồng trong Hiến chế Mạc Khải.[9]
II.
TỪ PHỤNG VỤ HỘI ĐƯỜNG DO
THÁI
ĐẾN PHỤNG VỤ LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Chúng ta biết rằng chỉ một mình Luca tường thuật lại câu chuyện hai môn
đệ trở về làng Emmau vào buổi chiều Phục sinh (x. Lc 24,13-35). Trên đường đi với Chúa, vì không nhận ra Ngài,
khi chiều đến, hai môn đệ đã giữ người Khách Lạ này lại nhà mình và cùng ăn bữa
tối :
“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng
và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người” (Lc
24,30).
Câu này gợi lên cho chúng ta phần Phụng Vụ Thánh Thể. Nhưng sự hiện
diện của Đức Kitô còn dựa trên một yếu tố khác mà chính Ngài đã chuẩn bị lúc
còn trên đường với hai môn đệ :
“Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải
thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc
24,27).
Luca cho thấy mối dây liên hệ giữa lúc đi đường và buổi tối tại bàn ăn
nhờ chính lời của hai môn đệ nói sau khi họ đã nhận ra người Khách Lạ là ai : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh
Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
Hai câu này (cc. 27 và 32) làm ta liên tưởng đến Phụng Vụ được cử hành
tại các Hội Đường của người Do Thái mỗi ngày Sabát, khi cộng đoàn lắng nghe
thừa tác viên đọc Sách Luật và Sách các Ngôn Sứ (x. Lc 4,16-22). Từ đó, chúng ta có thể nói Phụng Vụ Hội Đường
của người Do Thái là “nguồn gợi hứng” cho việc cử hành Lời Chúa trong Thánh Lễ.
Mỗi lần Giáo Hội tập họp để tưởng nhớ đến Chúa, đến việc Ngài đã làm “tối hôm
trước ngày chịu khổ hình”, bằng việc đọc sách Thánh, Giáo Hội loan báo Lời Hứa
của Thiên Chúa đang được “hiện tại hoá” (x. Lc
4,21)
III. HOA TRÁI CỦA CUỘC CANH TÂN PHỤNG VỤ
Qua các bài đọc Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với dân Ngài, Ngài mạc khải
mầu nhiệm cứu chuộc và ơn cứu độ, đồng thời cung cấp lương thực thiêng liêng ;
chính Đức Kitô dùng lời của mình mà hiện diện giữa các tín hữu. Qua các bài
đọc, bàn tiệc Lời Chúa được dọn ra cho các tín hữu và kho tàng Thánh Kinh được
mở ra
cho họ. Bộ Bài Đọc là lối đi vào Kho Tàng vô cùng quý giá này.
A. BỘ Bài ĐỌc (Lectionnaire)
Bộ Bài Đọc hiện nay là kết quả của hành trình trở về nguồn, nhằm thể
hiện hướng canh tân của Công đồng Vaticanô II trong lãnh vực Phụng vụ khi nhấn
mạnh đặc biệt đến vai trò của Thánh Kinh trong Phụng vụ :
“Trong việc cử hành Phụng vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối
quan trọng. Thực vậy, người ta trích từ Thánh Kinh những bài để đọc, những bài
để dẫn giải trong bài giảng, cũng như những ca vịnh để hát. Chính nguồn cảm
hứng và sức phấn khởi của Thánh Kinh cũng làm xuất phát những lời kinh, lời
nguyện và những bài phụng ca…” [10]
Riêng trong Phụng vụ Thánh Lễ, Công đồng Vaticanô II đã đưa ra hướng
làm phong phú hoá bàn tiệc Lời Chúa :
“Để bàn tiệc Lời Chúa được bày dọn phong phú hơn cho các tín
hữu, phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn nữa ; muốn thế, trong khoảng một số
năm ấn định, phải đọc cho dân chúng phần Thánh Kinh quan trọng hơn”.[11]
Vì lý do thực tế, Bộ Bài Đọc được phân chia thành nhiều cuốn khác nhau
: Sách Bài Đọc Mùa Vọng và Giáng Sinh, Sách
Bài Đọc Mùa Chay và Phục Sinh, Sách Bài Đọc Mùa Thường Niên, Sách Bài Đọc các
Thánh Lễ có Nghi Thức riêng, các Thánh Lễ cho các nhu cầu khác nhau, Thánh Lễ
Ngoại Lịch, Thánh Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời.
Cũng nên nhắc lại ở đây
là theo truyền thống xa xưa, vì Giáo Hội đặc biệt tôn kính Lời Chúa Kitô, cho
nên có một cuốn sách dành riêng chứa đựng những bài Tin Mừng dùng cho các ngày
Chúa Nhật gọi là Sách
Tin Mừng (Evangéliaire).
Sách này được dùng để đi rước.trong những Thánh Lễ trọng thể và để công bố Tin
Mừng.
B. Chu kỲ
các bài đỌc.
Từ định hướng mở rộng kho tàng Thánh Kinh cho người tín hữu, Bộ Bài Đọc
được soạn thảo đi theo một chu
kỳ ba năm cho các Chúa Nhật (chu kỳ A-B-C), chu kỳ hai năm (năm
chẵn và năm lẻ) cho các ngày trong tuần mùa Thường Niên và chu kỳ một năm cho
các ngày trong tuần Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay và Phục sinh.
1. Các Chúa Nhật Mùa
Chay :
Các bài Tin Mừng của hai Chúa Nhật đầu tiên nói đến chủ đề Bóng tối và
Ánh sáng. Chúa Nhật thứ I đọc lại các trình thuật về cơn cám dỗ của Chúa trong
Tin Mừng Nhất Lãm (năm A = Mt ; B = Mc ; C = Lc), Chúa Nhật thứ II đọc lại các
trình thuật về cuộc biến hình của Chúa ( năm A = Mt ; B = Mc ; C = Lc). Sắp xếp
việc đọc Lời Chúa như thế, Phụng vụ Mùa Chay như muốn nói lên hành trình của
người tín hữu đi giữa bóng tối và ánh sáng để lựa chọn bước theo Chúa Kitô.
Ba Chúa Nhật còn lại đi theo một lộ trình mang tính biểu tượng. Chu kỳ
năm A đọc lại các bài Tin Mừng truyền thống trong Tin Mừng Gioan diễn tả hành
trình gia nhập Kitô giáo qua các chủ đề : nước (III, A, người phụ nữ Samaria : Ga
4), ánh sáng
(IV, A, người mù từ thuở mới sinh,
Ga 9) và sự sống lại (V, A, phục sinh Ladarô, Ga 11). Chu kỳ năm B đọc lại các bài Tin
Mừng Gioan nói đến mầu nhiệm cứu chuộc (III, B : Thanh Tẩy Đền Thờ, Ga
2,13-25 ; IV, B : Thiên Chúa yêu thế gian,
Ga 3,14-21 ; V, B : Dụ ngôn hạt lúa mì, Ga 12,20-33). Chu kỳ năm C đọc lại các bài
Tin Mừng nói đến sự hoán cải (III, C : Dụ
ngôn cây vả cằn cỗi, Lc
13,1-9 ; IV, C : Dụ ngôn người cha thương
xót, Lc 15,1-3.11-32 ;
V, C : người phụ nữ phạm tội ngoại tình,
Ga 8,1-11)
Các bài đọc Cựu ước cho chu kỳ ba năm nhắc lại năm giai đoạn của lịch
sử giao ước : Giao ước với Noe, Giao ước với Abraham, Giao ước Sinai, tuyển
chọn và xức dầu tấn phong Đavit làm vua Israel, Giao ước mới ghi tạc trong tâm
hồn.
Các bài đọc II liên hệ chặt chẽ với bài Tin Mừng.
2. Các Chúa Nhật Mùa
Phục Sinh
Các bài Tin Mừng của ba Chúa Nhật đầu tiên kể lại những lần hiện ra của
Chúa Phục Sinh. Chúa Nhật IV nói về người Mục Tử tốt (Ga 10). Các Chúa Nhật còn lại khai triển
các chủ đề trong diễn từ sau Tiệc Ly. Bài đọc I lấy từ sách Công Vụ các Tông
đồ. Bài đọc II lấy từ Thư I của thánh Phêrô (năm A), Thư I của Gioan (năm B) và
Khải huyền (năm C)
3. Các Chúa Nhật Mùa
Vọng
Tất
cả các bài đọc ngôn sứ, tông đồ và Phúc âm đều xoay quanh việc loan báo Đấng
Thiên Sai đến, về sứ vụ ngôn sứ của vị Tiền Hô và những biến cố xẩy ra trước
khi Chúa Giêsu sinh ra cũng như sứ vụ công khai của Ngài.
4. Các Chúa Nhật Mùa
Giáng sinh
Các bài đọc được lựa chọn theo những cử hành đặc biệt như lễ Thánh gia
thất, lễ Chúa chịu Phép Rửa
5. Các Chúa Nhật
Thường Niên
Trong các Chúa Nhật thường niên, các bài đọc Tân Ước được đọc bán liên
tục (une lecture semi-continue)
theo thứ tự các sách Tân ước, chẳng hạn năm A đọc Phúc âm Mathêu, năm B đọc
Phúc âm Marcô, năm C đọc Phúc âm Luca.
Bài đọc Cựu ước và thánh vịnh đáp ca có liên hệ chặt chẽ với bài Tin
Mừng
6. Các ngày trong
tuần
Các bài đọc cho ngày trong tuần Mùa Thường Niên được đọc liên tục.
Riêng Phúc âm Gioan, Phụng vụ tiếp nối truyền thống xa xưa là đọc trong Mùa
Chay và Mùa Phục Sinh.
Kết luận
Qua cách xếp đặt chu kỳ các bài đọc như thế, chúng ta gặp thấy ý hướng
rõ ràng của Giáo Hội là muốn cho người tín hữu được tiếp xúc cách phong phú với
Lời Chúa,[12]
giúp người tín hữu thêm “lòng mộ mến Thánh Kinh cách đậm đà và sống động”,[13]
cho cuộc đời người tín hữu được huấn luyện dưới mái trường của Lời Chúa, để họ
trở nên những tín hữu được “đào tạo bởi Lời Chúa” [14] và càng ngày
càng thôi thúc họ khao khát Lời Chúa (x. Am
8,11).
Qua Bộ Bài Đọc, bàn tiệc Lời Chúa được dọn ra cho các tín hữu và các
kho tàng Thánh Kinh được mở ra cho họ một cách phong phú, nhờ đó, người tín hữu
xác tín rằng Thánh Kinh vừa là nguồn suối bất tận cho đời sống thiêng liêng vừa
là nền tảng chính yếu cho giáo lý Kitô giáo sẽ được đem ra giảng dạy. Qua việc
sắp xếp các bài đọc Thánh Kinh từ Cựu ước sang Tân Ước, Phụng Vụ muốn làm sáng tỏ tính thống
nhất của hai Giao Ước và lịch sử cứu độ, đồng thời cho thấy sự viên mãn của Mạc
Khải nơi Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể.
C. CẤu trúc
các bài đỌc trong Thánh LỄ
Từ sau Công đồng Vaticanô II, Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật có 3 bài
đọc và một thánh vịnh. Cấu trúc này một đàng nói lên cử hành Lời Chúa trong
Phụng vụ là cử hành Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, cử hành cuộc đối
thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, đàng khác nói lên ý nghĩa mà tác giả thư Do
Thái đã đề cập đến ngay ở phần mở đầu :
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha
ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán
dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1).
Theo cấu trúc này, (trừ Mùa Phục Sinh, với cả ba bài đọc lấy trong Tân
Ước), bài đọc I được lấy từ Cựu Ước, tiếp theo là một thánh vịnh ; bài đọc II
lấy từ các thư của các tông đồ, bài thứ III là bài Tin Mừng, lấy từ bốn sách
Tin Mừng. Cấu trúc này cũng được áp dụng cho các Lễ Trọng và trong bất cứ lễ
kính nào. [15]
Thứ tự này không phải là thứ tự của bộ Kinh Thánh mà là thứ tự của
Phụng vụ, một con đường đến với Chúa Kitô mà Tin Mừng là biểu tượng. Cho nên,
khi nghe công bố Tin Mừng, mọi người đứng lên và quay về phía Tin Mừng cách
cung kính.
Như thế, Phụng
vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ là lộ trình dẫn người tín hữu tới Chúa Kitô :
1. Cựu Ước cho thấy sự chín mùi dần dần và lâu dài của chương trình cứu
độ cũng như phương pháp sư phạm thần linh (pédagogie
divine). Đó là lịch sử của ân sủng và tội lỗi, của trung tín và bất
trung, của niềm tin và nghi ngờ, của đáp trả và chối từ. Đó cũng chính là lịch
sử mà mỗi người chúng ta kinh nghiệm nơi bản thân trên lộ trình dẫn tới Chúa
Kitô.
2. Bộ Thánh Vịnh là chứng từ đặc biệt quan trọng của Giao Ước giữa
Giavê và dân của Ngài. Với lời ca đầy thi vị, với nội dung rất phong phú, với
nỗi niềm khao khát, các Thánh vịnh như hơi thở mà người tín hữu có thể hít thở
trong “cảnh vực thần linh” để thân thưa với Chúa và hợp với lời ca của Giáo Hội
mà đáp trả lại lời mời gọi của Ngài.
3. Thư các tông đồ cho chúng ta thấy âm vang sống động của Lời Chúa nơi
Giáo Hội sơ khai. Thư các tông đồ là nét mô tả cụ thể về những vấn đề của người
tín hữu, những vấn đề cũng được đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay giữa cuộc đời
và trong lòng thế giới.
4. Trong hướng nhìn này, việc công bố Phúc âm trở nên biến cố trung tâm
của Phụng vụ Lời Chúa. Quy chế tổng quát sách Lễ Rôma 2000 nói như sau :
“Bài Tin Mừng là cao điểm của phụng vụ Lời Chúa. Chính phụng
vụ dạy ta phải hết lòng tôn kính bài đọc Tin Mừng, vì phụng vụ đặc biệt đề cao
bài Tin Mừng hơn các bài đọc khác, phần thì về phía thừa tác viên được cử ra
đọc và dọn mình đọc nhờ phép lành hay lời cầu nguyện, phần thì, về phía giáo
dân, họ tung hô để nhìn nhận và tuyên xưng Đức Kitô đang hiện diện và nói với
họ, và họ đứng để nghe Tin Mừng, phần thì do những dấu tỏ lòng trọng kính đối
với sách Tin Mừng” [16]
IV. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA
Lời Chúa được ví như hat giống gieo trên các
mảnh đất khác nhau và chỉ sinh “gấp ba mươi, sáu mươi, một trăm” trong mảnh đất
tốt (Mc 4,3-20 ; Mt 13,3-9 ; Lc 8,4-8). Lòng con người là những mảnh đất Lời Chúa được
gieo vào. Lời Chúa trổ sinh trong đời người tín hữu nhiều hay ít tùy thuộc vào
việc họ đón nhận Lời Chúa như thế nào. Chúng ta sẽ nói đến những điều kiện căn
bản để đón nhận Lời Chúa.
A. LẮng nghe
Phụng vụ Lời Chúa là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Cuộc
đối thoại nào cũng đòi phải lắng nghe. Đối thoại mà không có lắng nghe sẽ trở
thành độc thoại. Lắng nghe là đòi hỏi của đối thoại. Chúng ta gặp thấy đòi hỏi
này qua thái độ của cậu bé Samuel, “Lạy
Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe” (1S 9,10), cũng như thái độ của cô Maria, “ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe lời Ngài”
(Lc 10,39). Lời Giavê dậy Israel
trong kinh Shema, “Nghe đây, hỡi Israel”
(Đnl 6,3), lời mà chính Chúa
Giêsu đã nhắc lại cho ông luật sĩ (Mc
12,29), lời mà người Do Thái buộc vào tay và đeo trên trán để nhớ (Đnl 6,4) cũng nhắc đến thái độ căn bản này
của đối thoại.
Như vậy, lắng nghe là thái độ cốt yếu của con người Thánh Kinh, đó cũng
là con đường cốt yếu đưa đến niềm tin (Fides
ex auditu : Rm 10,17)
và cũng là thái độ chủ yếu của Phụng vụ Kitô giáo.
B. Công bỐ LỜi
Chúa
Nhưng
sự lắng nghe lại giả thiết trước đó phải có sự công bố rõ ràng, “Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng
là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm
10,15).
Việc công bố cho thấy Lời Chúa là một hồng ân từ trời cao. Dù cho các tín hữu
có thể tự đọc lấy Lời Chúa trong sách họ đang cầm trên tay, hoặc họ có thể
thuộc lòng câu Kinh Thánh, nhưng việc công bố vẫn sinh hoa kết trái, xét như nó
là một nghi thức phụng vụ. Khi ta lắng nghe Lời Chúa, chính Chúa mời gọi ta và
bao giờ Ngài cũng là Đấng có sáng kiến, luôn đi bước đầu.
Đọc Thánh Kinh trong Phụng vụ
khác với việc đọc Thánh Kinh riêng một mình. Đọc Thánh Kinh một mình là hành vi
cá nhân, còn trong Phụng vụ, công bố Lời Chúa và lắng nghe Lời Chúa là một hành vi cộng đoàn.
Trong cử hành Thánh Thể, Giáo Hội được quy tụ lại để cùng nhau lắng nghe Lời
của Phu Quân mình. Nếu việc đón nhận bánh Thánh Thể nói lên mầu nhiệm hiệp
thông, thì đón nhận Lời Chúa cũng mang chiều kích hiệp thông. Giáo Hội cố gắng
tìm hiểu ý định của Thiên Chúa, hiệp thông và đáp trả cách vui tươi.
Trong Phụng vụ, Giáo Hội công bố Lời Chúa. Đây là việc can thiệp của
Thiên Chúa được hiện tại hoá trong Dân Ngài là Giáo Hội. Lời Chúa cùng đi với
lịch sử cứu độ. Qua lịch sử đó, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa của Giao
ước, Thiên Chúa trung tín và nhân ái, đồng thời Ngài gửi gấm ý định cứu độ của
mình cho dân.
Trong Phụng vụ, khi Giáo Hội hiện tại hoá các mầu nhiệm cứu độ trong
các buổi cử hành thì Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay qua thừa tác vụ của Giáo
hội, Chính trong Giáo Hội mà Phụng vụ làm cho Lời Chúa vẫn còn sống động, có
sức biến đổi cuộc đời các Kitô hữu trong thế giới hôm nay. Lời Chúa được công
bố đến với mỗi người trong cộng đoàn đang tham dự và đòi hỏi một sự đáp trả.
“Qua lời Thánh Kinh đọc trong Hội Thánh, chính Thiên Chúa
nói với dân Ngài, và Đức Kitô, hiện diện trong lời của mình, loan báo Tin Mừng.
Bởi đó, mọi người phải kính cẩn lắng nghe các bài đọc Lời Chúa, một yếu tố rất
quan trọng trong Phụng vụ” [17]
Việc đọc Thánh Kinh trong Phụng vụ Lời Chúa được thực hiện theo một
nghi thức, giống như hình ảnh cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thiên
Chúa và con người đối thoại với nhau. Thiên Chúa đến ngỏ lời với con người, con
người lắng nghe và đón nhận Lời vào tận tâm khảm mình.
Như vậy, Phụng vụ Lời Chúa là Thiên Chúa nói với dân Ngài, là sự hiện
diện của Chúa Kitô Phục sinh giữa chúng ta, là công cuộc canh tân của Chúa
Thánh Thần để khuôn đúc một thân thể mới, có khả năng tôn thờ Chúa trong tinh
thần và chân lý.
Lời Kinh Thánh được viết ra vào một thời gian nào đó của lịch sử, nhưng
vẫn là Lời hằng sống cho mọi thời đại. Đây là lời của Thần Khí, “Đấng dẫn anh
em tới chân lý vẹn toàn” (Ga
16,14)
C. Thinh lẶng
Chúng ta hãy đọc lại trình thuật trong sách Các Vua quyển thứ nhất,
chương 19, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với ngôn sứ Êlia trên núi Horeb.
Vị ngôn sứ chạy đến núi Horeb, núi của Thiên Chúa, để trốn lánh cơn thịnh nộ
của vua Acáp và nhất là của hoàng hậu Giêzabel. Ông vào một cái hang để nghỉ qua
đêm, nhưng “xảy ra Lời Chúa đến với ông :
tại sao ngươi lại ở đây, hỡi Êlia ? Ông trả lời : “tôi đã nhiệt thành phẫn uất
vì Chúa các đạo binh, vì con cái Israel đã từ bỏ giao ước của Người… Thế rồi
Thiên Chúa phán : “Ngươi hãy ra ngoài và lên núi đứng trước mặt Giavê”
(1V 19,11). Êlia ra khỏi hang để
gặp Thiên Chúa. Sau đó xảy ra một cuộc hiển linh mầu nhiệm mà có lẽ chúng ta
khó quên : trước tiên là “một cơn cuồng
phong”, nhưng Thiên Chúa không ở trong cơn cuồng phong, tiếp đến là “một trận động đất”, nhưng Thiên Chúa cũng
không ở trong trận động đất, sau đó là “lửa
cháy”, nhưng Thiên Chúa cũng không ở trong lửa cháy. Sau lửa là “một tiếng thì thào êm nhẹ” và Chúa đã ngự
trong tiếng thì thào êm nhẹ.
(x. 1V 19,1-13).
Đây là một trình thuật Thánh Kinh mang rất nhiều hình ảnh gợi tưởng, nhưng cũng thường bị giải thích sai. Trình thuật này không
nói lúc nào Lời Chúa cũng tỏ ra trong tiếng thì thào êm nhẹ và không liên quan
đến trận cuồng phong, động đất hay lửa cháy. Ngược lại, Lời Chúa tỏ lộ trong
tất cả những sự kiện này, như chúng ta có thể thấy trong cuộc đời của chính
ngôn sứ Êlia. Ben Sira, trong sách Huấn Ca đã ca ngợi : “Ngôn sứ Êlia xuất hiện như ngọn lửa hồng, lời ông
như một lò lửa bừng cháy” (Hc
48,1). Bài học rút ra từ trình thuật trên đây chính là cung cách vị ngôn sứ tiếp nhận Lời
Chúa. Êlia đã tiếp nhận Lời Chúa một cách thanh thản và trong
thinh lặng, nhưng từ trong cõi thâm sâu của tâm hồn ông.
Trình thuật Thánh Kinh trên đây xảy ra trong một bối cảnh rất đặc biệt
giữa đêm tối của tâm hồn và đêm tối của thời gian, trong sa mạc, trên núi cao,
trong tĩnh lặng và hết sức quạnh hiu. Ở đây chỉ có Thiên Chúa và Êlia, không
còn bất cứ ai, không còn tiếng ồn ào của cuộc chiến thằng chống lại các ngôn sứ
Baal mà chỉ có tĩnh lặng.
Tĩnh lặng là môi trường thuận
lợi để cho Lời Chúa thấm vào lòng ta và điều kiện để cho Lời tác động trong tâm
hồn ta. Nhờ sự thinh lặng này, Chúa bắt đầu đối thoại với mỗi người trong cộng
đoàn. Sự thinh lặng trong tâm hồn phải được hỗ trợ bởi sự thinh lặng bên ngoài
qua những giây phút thinh lặng mà Quy chế tổng quát Sách Lễ Rôma đề cập đến :
“Phải cử hành Phụng vụ Lời Chúa thế nào tạo thuận lợi cho
việc suy gẫm, vì thế tuyệt đối tránh mọi hình thức vội vã, ngăn trở việc hồi
tâm. Nên có những giây phút thinh lặng ngắn, tùy theo cộng đoàn tụ họp, để nhờ
sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa được tiếp nhận trong tâm hồn và lời
đáp trả qua kinh nguyện được chuẩn bị. Những lúc nên giữ thinh lặng là sau bài
đọc thứ nhất và thứ hai, cũng như sau bài giảng” [18]
Trong Thánh Lễ có giáo dân tham dự, việc đọc các bài đọc được gọi là
“công bố” (profero-profere ; proclamare
; những động từ này đều có tiếp đầu ngữ là “pro”). Công bố đòi hỏi phải có thừa tác
viên, có giảng đài, có nghệ thuật, có cuốn sách trong đó Lời Chúa được công bố.
Công bố đòi hỏi mọi
người phải lắng nghe chứ không phải là cùng đọc chung với nhau.
D. ThỪa tác
viên.
Thừa tác viên Lời Chúa rất quan
trọng. Người này có vai trò phục vụ nổi bật là làm cho Chúa hiện diện giữa cộng
đoàn.
Thừa tác viên riêng biệt để đọc các bài đọc là thầy lãnh tác vụ đọc
sách (lector).[19]
Nếu
không có thầy đọc sách, các giáo dân có thể được cử để đọc. Họ phải có khả năng
để chu toàn nhiệm vụ này và được chuẩn bị cẩn thận, để tín hữu khi nghe đọc
sách Thánh thì trong lòng nhận được tác động êm dịu và sống động của Thánh
Kinh.[20]
Như vậy, việc đề cử một số tín hữu công bố Lời Chúa không chỉ là một đòi hỏi
của quy luật Phụng vụ mà còn liên hệ tới bản chất của việc công bố trong Phụng
vụ. Thừa tác viên công bố Lời Chúa là dấu chỉ trung gian giữa Thiên Chúa và Giáo Hội đang
quy tụ.
Nếu người đọc các bài Thánh Kinh
ý thức được tầm quan trọng của việc công bố Lời Chúa, chắc chắn họ sẽ hết sức
trân trọng thừa tác vụ mà Giáo Hội trao cho họ. Chúng ta suy nghĩ điều gì khi
một đàng ý thức sự cao trọng của việc công bố Lời Chúa, một đàng khi thấy nhiều
người không chuẩn bị mỗi khi công bố Lời Chúa ?
Thừa tác viên riêng biệt để công
bố Tin Mừng là thầy phó tế.[21]
Trong Thánh Lễ không có phó tế thì chính linh mục công bố Tin Mừng.[22]
E. Nơi công
bỐ LỜi Chúa.
Thừa tác viên Lời (ministre de la Parole) làm cho Lời Chúa được hiện tại hoá
và trở nên sống động. Một cách nào đó, bản thân người công bố là một dấu chỉ.
Vì vậy, cộng đoàn không những lắng nghe mà còn phải trông thấy người đọc.
Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma
2000 nói rõ về nơi công bố Lời Chúa như sau :
“Phẩm giá Lời Chúa đòi phải có một nơi thích hợp trong nhà
thờ, để Lời Chúa được loan báo và giáo dân tự nhiên hướng về đó trong phần
Phụng vụ Lời Chúa.
Nơi đó thường phải là một giảng đài cố định, chứ không phải
chỉ là một cái giá sách di chuyển được.
Tại giảng đài sẽ đọc các bài đọc, thánh vịnh đáp ca và bài
công bố tin mừng Phục sinh. Cũng tại đó có thể giảng và đọc các lời nguyện cho
mọi người, tức lời nguyện tín hữu, Phẩm giá của giảng đài đòi chỉ có thừa tác
viên Lời mới đi lên đó” [23]
Trong cử hành Thánh Lễ có giáo
dân, các bài đọc luôn luôn được công bố tại
giảng đài [24]
F. NghỆ thuẬt
đỌc
Thừa tác viên Lời phải ý thức mình đang
chuyển đạt Lời Chúa cho cộng đoàn. Phải sử dụng kỹ thuật của âm thanh để phục
vụ buổi cử hành. Nhưng trong Phụng vụ, phải tránh kiểu tài tử, sân khấu.
Công bố Lời Chúa là một nghệ
thuật riêng, khác xa với nghệ thuật hùng biện hoặc sân khấu. Trong việc công bố
Lời Chúa, sự nổi bật không phải là con người độc viên mà là bản văn. Độc viên chỉ
là người loan tin mừng Thiên Chúa cứu độ. Thừa tác viên Lời phải cố đọc cho
sống động, nhưng không được dùng những kỹ thuật của sân khấu.
Muốn công bố Lời Chúa cho tốt
đẹp, độc viên cần suy niệm bản văn và cầu nguyện trước khi học hỏi kỹ thuật.
Bản văn Thánh Kinh không giống bất cứ một bản văn nào khác, vì chính là Lời
Chúa được công bố. Chính Lời Chúa có tác dụng biến đổi những người muốn mở rộng
tâm hồn để đón nhận.
Khi nói đến mối tương quan mật
thiết giữa thầy lãnh tác vụ đọc sách và việc suy gẫm Thánh Kinh, một cách nào
đó, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng muốn nói rằng nghệ thuật công bố Lời Chúa
phải khởi đi từ nghệ thuật cầu nguyện :
“Để chu toàn nhiệm vụ một cách luôn tốt đẹp, hoàn hảo, Thầy
Đọc Sách phải siêng năng suy gẫm Thánh Kinh. Thầy Đọc Sách ý thức trọng trách
mình đã lãnh nhận, phải dùng mọi phương tiện cần thiết, hết sức cố gắng mỗi
ngày thêm yêu mến và hiểu biết Thánh Kinh sâu xa hơn, nhờ đó trở nên môn đệ
Chúa cách hoàn hảo hơn” [25]
Trong cung cách cử hành và đọc Lời Chúa, linh mục phải cho người giáo
dân thấy được sự hiện diện sống động của Đức Kitô. Trong tông thư Dominicae
Cenae, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô nhắc các linh mục rằng việc cử
hành Thánh Thể “đòi hỏi chúng ta phải có một ý thức và một sự chín chắn thiêng
liêng mới […] nhất là khi ngài cử hành đối diện với cộng đoàn”.[26]
G. Lưu tâm đẾn
Sách Bài ĐỌc và Sách Tin MỪng
Thế giới của Phụng vụ gắn liền với những dấu chỉ và biểu tượng, do đó,
ta phải lưu tâm một cách đặc biệt đến các sách Phụng vụ, nhất là sách Tin Mừng
và sách Bài Đọc vì chúng được dùng để công bố Lời Chúa. Trong cử hành Phụng vụ,
chúng là dấu chỉ và biểu
tượng của những thực tại siêu nhiên, nên chúng phải xứng đáng,
được trang hoàng và đẹp đẽ.[27]
Làm sao chúng ta có thể vừa nâng cao sách Tin Mừng và nói “đó là Lời
Chúa”, vừa để cho người giáo dân thấy cuốn sách chứa đựng Lời Chúa lại không
xứng đáng ?
Trong Tông Thư mà chúng ta vừa nhắc tới, Đức Giáo Hoàng Gioan- Phaolô
II nhắc nhở các linh mục khi cử hành Thánh Lễ, phải lưu tâm đến sự “thánh
thiêng” (Le sacré) của Thánh Thể,
“Phải luôn nhớ điều này, nhất là trong thời
đại hôm nay, người ta có khuynh hướng xóa bỏ khoảng cách giữa “thiêng thánh”
(sacré) và phàm tục, dựa vào khuynh hướng tổng quát hóa nhằm giải thiêng mọi
sự” [28]
Lời nhắc nhở này, một cách nào đó, cũng muốn nói rằng cuốn sách chứa
đựng Lời Chúa phải được chúng ta quý mến như một “thiêng thánh” trong cử hành
Thánh Thể.
VI. QUY LUẬT PHỤNG VỤ
LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN CÁC BÀI ĐỌC
Cử hành Phụng vụ thế nào để đem
lại lợi ích thiêng liêng cho những người tham dự là nguyên tắc tổng quát cho
hướng đi canh tân Phụng vụ của Công đồng Vaticanô II.[29] Để đem lại
nhiều hoa quả thiêng liêng cho các tín hữu khi tham dự Thánh Lễ, trong việc lựa
chọn các bài đọc Thánh Kinh, chúng ta cần đi theo những hướng dẫn sau đây :
H. SỐ các
bài phẢi đỌc :
Trong các Thánh Lễ Chúa Nhật và Lễ Trọng, Phụng vụ Lời Chúa có ba bài
đọc (Cựu ước, Tông đồ và Tin Mừng) nhằm dạy người tín hữu về sự liên tục của
công trình cứu rỗi theo kế hoạch tình thương và nhiệm mầu của Thiên Chúa. Phải đọc
đủ và đúng
ba bài.
Các lễ kính có hai bài đọc. Tuy nhiên, nếu lễ kính được nâng lên đúng
theo luật thành lễ trọng, thì thêm bài đọc thứ ba lấy từ phần Chung. [30]
I. Quy luẬt
lỰa chỌn các bài đỌc :
1. Trong các lễ nhớ các Thánh : nếu không có các bài đọc riêng, thì đọc
các bài theo ngày trong tuần.
Trong vài trường hợp, sách Bài Đọc có đề nghị các bài đọc thích hợp,
nghĩa là đưa ra ánh sáng một khía cạnh đặc biệt của đời sống thiêng liêng hoặc
hoạt động của vị Thánh. Việc sử dụng các bài đọc này không bắt buộc, ngoại trừ khi lý do mục vụ khuyên nên đọc. [31]
2. Trong sách Các Bài Đọc cho ngày trong tuần, trong suốt năm, ngày nào
trong tuần cũng có bài đọc. Do đó, thông thường, ngày nào hãy lấy bài
đọc đã chỉ cho ngày ấy,
trừ phi gặp lễ trọng hay lễ kính, hay lễ nhớ có bài đọc Tân Ước riêng, trong đó
có nhắc đến vị Thánh được cử hành.
Tuy nhiên, khi nào việc đọc liên
tục trong tuần bị ngắt quảng vì một lễ trọng, lễ kính hay một cử hành đặc biệt,
vị tư tế được phép tùy theo cách xếp đặt các bài đọc trong cả tuần mà nhập
những phần bị bỏ với những phần khác hoặc quyết định xem nên đọc bài nào hơn.
3. Trong các Thánh Lễ dành riêng
cho những nhóm đặc biệt, vị tư tế được phép chọn những bài đọc đặc
biệt thích hợp với cử hành hơn, miễn là lấy từ những bản văn trong sách Các Bài Đọc được phê chuẩn. [32]
4. Trong Sách Các Bài Đọc cho các Thánh
Lễ Nghi Thức, trong đó có cử hành các Bí tích hay Á bí tích, hoặc
cho các Thánh Lễ tùy nhu cầu mà
ta quen gọi là Sách Bài
Đọc ngoại lịch, nhiều bản văn Thánh Kinh được đề nghị, chúng ta
được quyền lựa chọn bản văn dựa theo lợi ích mục vụ của người tham dự. [33]
5. Trường hợp một bản văn có hai hình thức : dài và ngắn, thì tùy theo
lợi ích mục vụ của người tham dự mà lựa chọn. [34]
6. Trường hợp có nhiều bản
văn để chọn lựa thì cũng theo nguyên tắc vừa nói ở trên, nghĩa là chú ý đến lợi
ích của người tham dự mà lựa chọn. [35]
KẾT LUẬN
Để kết luận cho bài chia sẻ này, chúng ta hãy cùng nhau đọc lại một
đoạn văn trong Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục “Pastores dabo vobis” nói về tương quan giữa
linh mục và Lời Chúa :
“Trước hết, linh mục là thừa tác viên Lời Chúa. Linh mục
được hiến thánh và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, mời gọi
mọi người vâng phục đức tin và hướng dẫn các tín hữu, để mỗi ngày họ một hiểu
biết và thông hiệp sâu xa hơn vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, đã được Đức Kitô
mạc khải và truyền đạt cho chúng ta. Vì thế, chính linh mục trước tiên phải tạo
được một mối thâm tình sâu đậm giữa bản thân mình với Lời Chúa. Khía cạnh ngữ
học hoặc chú giải mặc dầu cân thiết, vẫn chưa đủ để gọi là hiểu biết Lời Chúa.
Linh mục phải đón nhận Lời Chúa với một tấm lòng mềm mại và nguyện cầu để cho
Lời Chúa thấm nhập đến tận sâu thẳm ý nghĩ và tình cảm của mình và làm nẩy sinh
nơi mình một tinh thần mới, làm nẩy sinh “tư tưởng của Chúa”. (1Cr
2,16) [36]
Lời Chúa trong Phụng vụ ngỏ lời với mọi người, chủ tế cũng như giáo
dân. Tất cả đều được mời gọi đón nhận Lời Chúa, để nhờ đó, chúng ta xây dựng
ngôi nhà thiêng liêng mà trong đó Chúa Kitô là nền móng. Khi cử hành Thánh Lễ, “linh mục phải phục vụ Thiên Chúa và giáo dân cách
trang nghiêm và khiêm tốn ; trong cách cử hành và đọc Lời Chúa, ngài còn phải
cho giáo dân cảm thấy sự hiện diện sống động của Đức Kitô” [37]
và “linh mục không phải làm chủ Lời Chúa :
linh mục là người phục vụ Lời. Không phải linh mục là người duy nhất chiếm hữu
Lời Chúa : linh mục là người mắc nợ Lời Chúa đối với dân Chúa”. [38]
[1] MK 21
[2] ORIGÈNE , Homélie XIII, 3 ; AMBROISE , Traité sur l’évangile de saint Luc
[3] MK 26
[4] PV 24
[5] PV 21
[6] PV 24
[7] PV 35
[8] QCTQ 29
[9] MK 22
[10] PV 24
[11] PV 51
[12] PV 51
[13] PV 24
[14] PV 48
[15] Phaolô VI, Tông hiến “Công bố Sách Lễ Rôma đã được sửa đổi theo sắc lệnh Công Đồng Chung Vaticanô II”, ngày 3-4-1969.
[16] QCTQ 60
[17] QCTQ 29
[18] QCTQ 56
[19] QCTQ 99
[20] QCTQ 101
[21] QCTQ 94
[22] QCTQ 134
[23] QCTQ 309
[24] QCTQ 58
[25] Phaolô VI, Tự sắc “Ministeria quaedam” ban hành 15-8-1972, số 5
[26] Gioan Phaolô II, Tông Thư Dominicae Cenae, số 9.
[27] QCTQ 349
[28] Gioan Phaolô II, Tông Thư Dominicae Cenae, số 8
[29] PV 21
[30] QCTQ 357
[31] QCTQ 357
[32] QCTQ 358
[33] QCTQ 359
[34] QCTQ 360
[35] QCTQ 361
[36] PDV 26
[37] QCTQ 93
[38] PDV 26