TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT
NAM
----------------
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA
VIỆC TRUYỀN GIÁO
VÀO ĐỀ
Vào ngày 18-22 tháng 10 tới đây một
phái đoàn gồm 15 người trong đó có giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam
sẽ sang Thái Lan dự hội nghị về Loan Báo Tin Mừng do Liên Hội Đồng Giám Mục Á
Châu (1) và Thánh Bộ Loan Báo Tin Mừng cho các Dân Tộc của Tòa Thánh Vatican
cùng tổ chức tại Chiang Mai. Chu đề của Hội Nghị quan trọng này là: "Kể chuyện về Chúa Giê-su Ki-tô cho các
dân tộc Á Châu " Nhưng có thể nói
chẳng mấy giáo dân biết được chủ đề của Hội Nghị này và càng không biết phái
đoàn Việt Nam đã và đang chuẩn bị những gì cho Hội Nghị ấy !!
Là người không làm được nhiều, nhưng
luôn thao thức và quan tâm đến công cuộc xây dựng Giáo Hội, nên tôi mạnh dạn nêu lên một số suy nghĩ và
nhận định của mình liên quan tới NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT
NAM XƯA VÀ NAY. Trước là để kiểm điểm chính mình. Sau là để đóng góp với Giáo
Hội Việt Nam nói chung và với phái đoàn dự Hội Nghị nói riêng. Vì bị giới hạn
về thời gian và tư liệu, tôi đành phải nêu
một cách khái lược các sự kiện của ngày xưa cũng như của ngày nay. Mong
sẽ có điều kiện bổ sung cho phác thảo này được đầy đủ hơn.
NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM XƯA VÀ NAY
Chỉ cần chúng ta đọc qua Lịch sử của
Giáo Hội Việt Nam, chúng ta sẽ thấy ngay một số nét đặc trưng của việc Truyền
Giáo tại Việt Nam. Nếu chúng ta thực hiện được việc thống kê, phân tích các dữ
liệu lịch sử thì chúng ta sè càng thấy rõ hơn nữa. Theo tôi thì việc Truyền
Giáo tại Việt Nam có năm (5) đặc trưng sau đây:
1. ĐẶC TRƯNG THỨ NHẤT LÀ TÍNH GIA ĐÌNH.
Đối với người Á Đông nói chung và
người Việt Nam nói riêng thì gia đình là rất quan trọng. Xưa cũng vậy và nay
cũng vẫn vậy. Ở trong nước cũng vậy và ở hải ngoại cũng vậy. Trong lãnh vực đời
cũng vậy và trong đời sống Đạo cũng vậy.
Đọc lại các tường thuật của các nhà
truyền giáo tại Việt Nam, chúng ta gặp không biết bao nhiêu trường hợp cả một
gia đình trở lại và gia đình mới trở lại ấy lôi kéo được nhiều gia khác trở lại
đạo như mình. Một trường hợp khác cũng rất phổ biến là một hai thành viên của
một gia đình Việt Nam nhập đạo và dần dần đưa cả gia đình vào Cộng đoàn Hội
Thánh.
Dĩ nhiên mọi cuộc trở lại đều do ơn
thánh Chúa ban. Nhưng ơn thánh Chúa gặp nhiều thuận lợi ở cách suy nghĩ và nếp sống
của người Việt Nam, theo đó thì cha ông tổ tiên mình làm gì thì mình nên làm như thế. Trong trường
hợp cha ông tổ tiên đã là người Công Giáo thì sớm muộn gì những con cái cháu
chắt cũng theo chân ông bà tổ tiên nhập Đạo để cùng thờ một Chúa, cùng đi một
đường. Ngược lại nhiều người muốn nhập Đạo nhưng vì tổ tiên dòng họ không hay
chưa có ai là người theo Đạo Chúa nên những người này gặp khó khắn rất khó vượt
qua.
2. ĐẶC TRƯNG THỨ HAI LÀ TÍNH LÀNG XÃ, BỘ TỘC.
Ngoài tính gia đình, không thiếu những
cuộc trở lại mang tính làng xã, bộ tộc:
một người đứng đầu một thôn, một làng, một xã, một bộ tộc trở lại keo
theo cuộc trở lại của cả một thôn, một làng, một bô tộc. Ví dụ: một thày sư của
Phật giáo theo đạo Công giáo thì các tín đồ phật tử của Thày trong làng ấy cũng
rất dễ trở thành môn đệ của Chúa Giê-su. Một ông thầy đồ trong làng gặp Chúa mà
bỏ Phật, bỏ ông bà (theo cách nói bình
dân) thì vợ con và các môn sinh trong
làng của ông cũng sằn sàng theo bước thày để trở thành Ki-tô hữu. Một già làng
của một bộ tộc thiểu số chịu phép Rửa Tội thì thế nào cũng có nhiều gia đình
khác làm theo. Chuyện này không chỉ xẩy ra trong quá khứ mà cả trong hiện tại
cũng có. Trên các vùng Cao Nguyên (Miền Bắc hay Trung Phần), đã có nhiều cuộc
trở lại tập thể, cả thôn, cả buôn làng
đón nhận ánh sáng Tin Mừng, trở nên môn đệ của Đấng Ki-tô Giê-su nhờ cả thôn cả
buôn cùng nghe các bài giảng trên đài phát thanh (phát từ nước ngoài) nói về
Thiên Chúa, về Đấng Cứu Chuộc, về Ơn Cứu độ.
3. ĐẶC TRƯNG THỨ BA LÀ TÍNH MỘ ĐẠO.
Bản chất của dân tộc ta là mộ đạo.
Người Việt Nam theo đạo Phật thì mộ Phật, theo Đạo Chúa thì mộ Chúa. Vì người Việt Nam nặng tình cảm hơn lý trí. Vì
thế trong việc giữ Đạo đa số người giáo dân quan tâm đến lòng sùng Đạo nhiều
hơn đến việc hiểu Đạo và hành Đạo. Trong quá khứ các hình thái đạo đức bình dân
(đọc kinh, rước kiệu, dâng hoa, dâng hạt, ngắm Đàng Thánh Giá, ngằm cuộc Thương
Khó....) được phát triển mạnh mẽ và có sức lôi cuốn. Cùng với sự thay đổi của xã hội và vì người giáo dân thiếu hiểu biết tường tận về ý nghĩa và nội dung
các thực hành ấy nên các hình thái đạo đức bình dân không còn sức hấp dẫn như
xưa. Cũng vì nặng tính sùng đạo và coi nhẹ việc hiểu đạo nên thành phần giáo
dân trí thức không mạnh và chưa đóng góp nhiều cho Giáo Hội trong những lãnh
vực chính trị, văn hóa, xã hội và nghệ
thuật là địa bàn sở trường của họ.
4. ĐẶC TRƯNG THỨ BỐN LÀ TÍNH BÁC ÁI - TỪTHIỆN - XÃ HỘI.
Người Việt Nam nặng tình cảm hơn lý
trí, nên trong đời sống quan tâm đến cách người ta đối xử với mình ra sao. Vì thế mà xưa cũng như nay điều hấp dẫn lôi
cuốn người ngoại đến với Giáo Hội là thái độ yêu thương, giúp đỡ, phục vụ tận
tình và gương sáng của những người có đạo, là những việc bác ái, từ thiện, xã
hội mà Giáo hội Công giáo làm cho họ. Ở thời kỳ đầu của Giáo hội Việt Nam,
người lương dân đã gọi Đạo của các nhà
truyền giáo Phương Tây là Đạo Yêu khi họ chưa biết tên của Đạo Mới ấy là Đạo Chúa, là Đạo của Chúa Kirixitô.
Ngày nay ở khắp các giáo phận, công
việc Truyền Giáo nổi bật nhất là các lớp học tình thương; là các chương trình học bổng giúp các trẻ em
nghèo hiếu học; là các buổi khám bệnh phát thuốc miễn phí; là những lần thăm
viếng, giúp đỡ các trung tâm người gìa, tàng tật, phong cùi; là việc chôn cất những
người chết không ai chăm lo. Ở Sài gòn thì từ vài năm nay Đức Hồng Y Gio-an
Bao-ti-xi-ta Phạm Minh Mẫn vận động cả giáo phận quan tâm đến những người bệnh
HIV-AIDS với chương trình xây dựng TRUNG TÂM PHỤC SINH và các Phòng Khám Từ Thiện. Dân nhập cư tức
những người từ các vùng nông thôn kéo về thành phố kiếm việc làm hay học hành
cũng là đối tượng đang được một số giáo xứ quan tâm tìm cách giúp đỡ.
Nhưng phải thú nhận rằng: tất cả công
sức, tiền của mà giáo phận Sài gòn đã và sẽ bỏ ra cho các chương trình này cũng
chỉ là "muối đổ biển" chẳng thấm tháp vào đâu! Nếu chúng ta nhìn vào
những khoản tiền khổng lồ của một số vụ cán bộ chính quyền tham nhũng (2) thì
chúng ta sẽ thấy trách nhiệm của Giáo hội Công giáo Việt Nam không chỉ là trong
lãnh vực hoạt động bác ái từ thiện mà
còn phải là trong các lãnh vực khác nữa, ví dụ lên tiếng kết án tệ nạn tham
nhũng, ăn cắp tài sản quốc dân của những người có chức có quyền hiện nay trong
guồng máy nhà nước!
Từ trước đến nay người ta ít thấy
Hàng Giáo Phẩm Việt Nam lên tiếng về những vấn đề quan trọng của đất nước. Phải
chăng vì các ngài chọn lựa một cách khác để biểu lộ ý kiến của mình với chính
quyền? hay vì các ngài chọn lựa thái độ nhẫn nại chịu đựng để tránh các biện
pháp khắt khe mang tính chế tài hay trả thù của nhà cấm quyền. Nhưng rõ ràng
việc bênh vực chân lý và công lý là một trọng trách lớn lao của người và Cộng
đoàn Ki-tô giáo. Nhiều người cho rằng Giáo Hội Công Giáo và Tin Lành ở Hàn Quốc
(South Korea) phát triển mạnh trong mấy thập niên vừa qua, một phần là nhờ sự
đấu tranh bênh vực công lý và hòa bình và chống bất công xã hội của những nhà
lãnh đạo quốc gia là những Ki-tô hữu xác tín và dấn thân (3).
Giả như Giáo Hội và người Công Giáo
Việt Nam dũng cảm đứng ra bảo vệ công bằng xã hội và nhân quyền, chống lại nạn
tham nhũng, cửa quyền, hống hách, bắt nạt dân của một số đông cán bộ thì chắc
chắn nhiều người lương dân sẽ đánh giá cao sự đóng góp ấy của Giáo Hội Công
Giáo và từ đó việc Truyền Giáo sẽ gặt hái được nhiều kết quả hơn, nhất là trong
giới trí thức và người thành thị.
5. ĐẶC TRƯNG THỨ NĂM LÀ TÍNH GIÁO DÂN tức GIÁO DÂN LÀ TÁC NHÂN ƠN
TRỞ LẠI.
Nhắc đến việc Truyền Giáo ở Việt Nam
trong những thế kỷ đầu, các sử gia và các nhà nghiên cứu phải đặc biệt chú ý
đến một thành phần giáo dân có công rất lớn trong công cuộc trọng đại là làm
cho nhiều người theo đạo. Đó là các Thày Giảng của Nhà Đức Chúa Trời. Họ cộng
tác chặt chẽ với các giáo sĩ trong việc truyền bá Phúc âm và xây dựng cộng
đoàn. Tiêu biểu nhất trong số các Thày Giảng là Chân Phước An-rê Phú Yên. Rất
tiếc là sau này không còn các Thày Giảng nữa.
Phải chăng vì lúc đầu số giáo sĩ quá
ít, lại phần đông là người ngoại quốc không thông thạo phong tục tập quán ngôn
ngữ, nên những người giáo dân này được trọng dụng? Phải chăng vì giáo sĩ Tây
Phương trọng người giáo dân hơn các giáo
sĩ bản xứ? Phải chăng có sự cạnh tranh
"ngầm ngầm" về ảnh
hưởng và quyền lợi (giáo sĩ xa dân nên dân kính sợ nhiều hơn là mến yêu; còn
thày giảng thì gần dân hơn nên được dân yêu mến hơn?). Hay tại sau này người
giáo dân không thích đi tu như kiểu Thày Giảng? Chúng ta không biết rõ lý do
tại saomột thành phần đắc lực như thế
lại mai một đi trong Giáo Hội Việt Nam. Đây là một đề tài đáng được
nghiên cứu.
Còn ngày nay, tuy Giáo Hội Việt Nam
còn mang nặng "tính giáo sĩ" (4) của giai đoạn tiền Công Đồng
Va-ti-can II, nhưng sự đóng góp của người giáo dân là rất đáng kể trong công
việc xây dựng và mở mang các cộng đoàn. Hạng giáo dân hoạt động tích cực nhất và
có công lớn nhất trong việc Truyền Giáo là các hội viên các hội đoàn Tông đồ
(như các hội viên Legio Mariae) và các giáo lý viên. Đặc biệt ở những vùng cao,
vùng xa, không có các linh mục, nhiều giáo dân nam có nữ có, kể cả các giáo
dân sắc tộc, đã thể hiện rõ nét chức năng ngôn sứ, tư tế và phục vụ của những
người đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy.
THAY LỜI KẾT
Nếu chúng ta
quan tâm đến việc duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông tổ tiên
thì chúng ta sẽ quan tâm học hỏi, đào sâu, nghiên cứu thêm
về
những nét đặc trưng trên để phát huy chúng trong lịch sử hiện đại. Nếu chúng ta quan tâm đến duy trì và phát huy truyền thống
tốt đẹp của Ki-tô giáo các thế kỷ đầu thì chúng ta sẽ quan tâm học hỏi, đào
sâu, nghiên cứu thêm về những nét đặc trưng của các Cộng đoàn trong Công
vụ Tông Đồ để phát huy trong đời sống Giáo Hội Việt Nam thế kỷ XXI. Nếu chúng ta quan
tâm đến việc thực thi Công Đồng Va-ti-can II thì chúng ta cũng sẽ quan tâm đến
việc học hỏi, đào sâu, nghiên cứu thêm về Giáo huấn của Công Đồng để áp
dụng chúng vào cơ cấu và đời sống của Giáo Hội Việt Nam.
Người ta có cảm tưởng là Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam không mấy quan tâm đến việc đọc lại lịch sử (ôn cố tri tân = ôn
cũ biết mới) và cũng chẳng coi trọng
việc nghiên cứu hiện tại để có thể định hướng tương lai và lên kế hoạch.
Đó có thể là hệ lụy của những thập niên chiến tranh, đất nước và lòng người
phân ly. Cũng có thể là kết quả của những chính sách và biện pháp hà khắc của
nhà cầm quyền kể từ tháng 8.1945 đến nay. Đã có một linh mục (5) phát biểu
trong một buổi họp thu nhỏ, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám Mục Nha
Trang chủ trì (lúc đó chưa làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam) tại Trung
Tâm Công Giáo rằng: "Người ta có
cảm tưởng là Giáo Hội Việt Nam không có tư tưởng, vì bên cạnh Hội Đồng Giám Mục
không có một nhóm, một ban nghiên cứu nào!" Vì thế mà đời sống Đạo và hoạt động Truyền
Giáo hay Loan Báo Tin Mừng của Giáo Hội Việt Nam không đem lại những kết quả
đáng ra phải có. Dân số Việt Nam đã vượt trên con số 80 triệu và chằng bao xa
sẽ đạt tới con số 100 triệu! Hiện nay tỷ
lệ người Công giáo trong nước mới chỉ ở mức 6-7 %, còn xa với mức 10 % mà nhiều
người ảo tưởng là đã đạt được từ mấy năm trước đây.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Kansas City
(MO/USA) ngày 30.07.2006
.....................
Ghi chú:
(1)
Trong tiếng Anh là FABC, chữ viết tắt của The Federation of The Bishops Conferences of Asia.
(2)
Một trong hàng trăm vụ nổi cộm là vụ án của Bùi Tiến Dũng Tổng giám đốc PMU 18
đang làm đau đầu nhà cấm quyền Hà Nội. Theo Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 05 tháng
07 năm 2006 thì trong buổi làm việc với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, lãnh đạo Bộ
Công an đã báo cáo diễn biến chuyên án 420B kéo theo một loạt các vụ việc vi
pháp luật nghiêm trọng: vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc, "chạy án"
và cố ý làm trái. Trong vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc thông qua hình thức
cá độ bóng đá quốc tế, cơ quan điều tra đã khởi tố 10 bị can, trong đó bắt tạm
giam 8 bị can, 1 bị can bỏ trốn, 1 được tại ngoại. Đặc biệt, các điều tra viên
đã xác minh số tiền Bùi Tiến Dũng đánh bạc 40 lần với tổng số tiền lên tới 1,5
triệu USD, trong đó lần nhiều nhất, Dũng bắt độ tới 268.000 USD, ít nhất là
3.000 USD.
(3)
Ngoài sự dấn thân cho hòa bình và công bằng xã hội của những nhà lãnh đạo Công
giáo hay Tin Lành, còn có hai lý do khác giúp Giáo Hội Hàn Quốc phát triển
mạnh: thứ nhất là trong lịch sử, giáo dân -chứ không phải các giáo sĩ- là những người đã đem Đạo vào đất nước Hàn
Quốc vì thế theo truyền thống lâu đời, người giáo dân đóng một vài trò rất tích
cực và chủ động trong mọi hoạt động của Giáo Hội; thứ hai là Giáo Hội Hàn Quốc
có cách làm việc rất khoa học, có chiến lược và chương trình ngũ niên, thập
niên cho việc Truyền Giáo.
(4)
Một Giáo Hội mang nặng "tính giáo sĩ" là Giáo Hội trong đó hàng giáo
sĩ đóng vai trò trấn áp (dominating) và bao cấp trong mọi hoạt động và người
giáo dân chỉ là những người thừa hành các chỉ thị của hàng giáo sĩ.
(5) Vì là điều tế nhị chúng tôi xin không nêu
tên vị linh mục này. Nhưng ngài là một linh mục vừa đạo đức vừa thông thái, có
uy tín rất lớn trong Giáo Hội.