TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT
NAM
----------------
ĐẨY MẠNH VIỆC TRUYỀN
GIÁO TẠI VIỆT NAM
TRONG HIỆN TẠI &
TRONG TƯƠNG LAI
VÀO ĐỀ
Chắc hẳn nhiều người khi đọc bài NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG
CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM XƯA VÀ NAY sẽ tự hỏi “Vậy phải làm thế nào để ĐẦY MẠNH VIỆC TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM TRONG
HIỆN TẠI VÀ TRONG TƯƠNG LAI? Đó là một vấn
đề rất hệ trọng đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Tiếc là ở trong nước cũng
như trong các Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại chưa có hội nghị, hội thảo,
toạ đàm nào được tổ chức để các nhà chuyên môn và các thành phần Dân Chúa trao
đổi và thảo luận về vấn đế mang tính “sống còn” này.
Chính vì vậy mà bản thân tôi càng cảm thấy bị thúc
bách phải gióng lên một tiếng nói để mong có nhiều người quan tâm đến vấn đề và
dấn thân hơn nữa cho việc truyền bá Phúc Âm trên quê huơng yêu dấu.
ĐẨY MẠNH VIỆC TRUYỀN GIÁO BẰNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP CƠ BẢN MANG TÍNH QUYẾT
ĐỊNH
Để
nối tiếp bài NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM XƯA
VÀ NAY và nhìn vào thực tế của Giáo Hội tôi thấy, ngoài việc hy sinh hãm mình
và cầu nguyện cho việc Truyền Giáo, có ba biện pháp mà tôi cho là cơ bản và
mang tính quyết định.
Thứ nhất là Giáo Hội Việt Nam cần phát
huy 5 đặc trưng của việc Truyền Giáo tại Việt Nam;
Thứ hai là Giáo Hội Việt Nam nên cổ võ
mạnh mẽ Ơn Gọi Truyền Giáo trong các dòng tu, giáo xứ, giáo phận; và
Thứ ba là Giáo Hội Việt Nam nên chọn
việc Truyền Giáo cho lương dân làm mục tiêu chính của mọi sinh hoạt của toàn
Giáo Hội và thay đổi cách làm việc.
1. Giáo Hội Việt Nam cần biết cách phát huy 5 đặc trưng của việc
Truyền Giáo tại Việt Nam:
1.1 Xin phép được
nhắc lại 5 đặc trưng của việc Truyền Giáo tại Việt Nam xưa và nay. Đó là:
(1o) tính
gia đình,
(2o) tính
làng xã, bộ tộc,
(3o) tính
mộ đạo,
(4o) tính
bác ái, từ thiện, xã hội và
(5o) tính
giáo dân.
1.2 Muốn phát huy
tính gia đình, thì Giáo Hội Việt Nam nên quan tâm hơn nữa đến các gia đình và đến việc giáo dục nhân bản và đức
tin của
gia đình cho thế hệ trẻ. Đồng thời tích cực đóng góp vào việc lành mạnh hóa môi
trường xã hội (1).
Muốn phát huy tính
làng xã, bộ tộc, thì Giáo Hội Việt Nam nên đầy mạnh việc xây dựng ý thức cộng đồng
và tinh thần tập thể song song với việc nâng cao đời sống văn
hóa xã hội của các cộng đồng nghèo và bị nhiều thiệt thòi như các thôn làng miền
núi và miền nông thôn.
Muốn phát huy tính
mộ đạo, thì Giáo Hội Việt Nam nên ưu tiên đầu tư vào việc hội nhập văn hóa và bảo
tồn các hình thái đạo đức bình dân phối hợp chặt chẽ với nỗ lực nâng cao trình độ Giáo Lý,
Thánh Kinh cho giáo dân.
Muốn phát huy tính
bác ái, từ thiện và xã hội, thì Giáo Hội Việt Nam nên giảm bớt hoặc tiết
kiệm trong việc xây dựng cơ sở vật chất để dành một ngân khoản lớn cho các hoạt động
bác ái, từ thiện và xã hội - cũng là những việc Truyền Giáo - và tổ chức các hoạt
động ấy một cách khoa học và công bằng hơn.
Muốn phát huy tính
giáo dân, thì Giáo Hội Việt Nam, nhất là hàng giáo sĩ, cần thấm nhuần Tinh Thần và
am hiểu Giáo Huấn của Công Đồng Va-ti-can II
mà
nâng cao
phẩm giá và vai trò của giáo dân, giao phó công tác cho họ và giúp đỡ họ hoàn
thành sứ mạng của người giáo dân trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội (2).
Làm được bấy nhiêu
việc là đời sống và bộ mặt của Giáo Hội Việt Nam đã thay đổi rất nhiều rồi!
2. Giáo Hội Việt Nam nên cổ võ mạnh mẽ Ơn Gọi Truyền Giáo trong các
dòng tu, giáo xứ, giáo phận:
Nhờ ơn Chúa thương,
Giáo Hội Việt Nam rất dồi dào ơn gọi tu sĩ và giáo sĩ. Chính sách nhà nước càng
cởi mở thì việc đi tu của nam nữ thanh niên càng dễ dàng và đông đúc hơn. Nhưng
có lẽ Giáo Hội Việt Nam nên lưu tâm hơn nữa đến việc cổ võ ơn gọi truyền giáo
trong hàng ngũ các ứng viên linh mục và tu sinh. Người ta có cảm tưởng là các đại
chủng viện mới chỉ quan tâm đến việc đào tạo các linh mục triều là để ra
"giữ xứ"; các dòng quan tâm nhiều hơn đến dòng của mình mà chưa quan
tâm đủ đến lương dân! Năm 1975 vì hoàn cảnh
xã hội, nhiều dòng đã phân tán mỏng thành nhiều cộng đoàn nhỏ, sống gần dân
trong các ngôi nhà nhỏ bé đơn sơ, dễ vào. Dường như ngày nay một số Dòng Tu có
xu hướng quay trở lại với các cộng đoàn
lớn, với cơ sở vật chất đồ sộ. Xu hướng
này có cần được xem xét lại không?
Mới đây có một bàì
báo nói rằng Ba Lan là nuớc xuất cảng các linh mục (3). Theo tôi nghĩ Giáo Hội
Việt Nam cũng có thể trở thành một Giáo Hội xuất cảng các linh mục và tu sĩ
sang các nước láng giềng, với điều kiện đầu tiên là Giáo Hội Việt Nam, từ cấp
toàn quốc cho đến cấp giáo xứ, tổ chức liên tục các đợt cổ võ ơn gọi truyền
giáo và đầu tư vào Hội Thừa Sai Việt Nam của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Sau nhiều năm lây lất
sống cảnh "con chung không cha mẹ nào lo" Hội Thừa Sai Việt Nam đã được
hồi sinh và được giao cho Đức Giám mục Phú Cường chăm sóc. Theo tôi thì Hội
Thùa Sai này cần được Hội Đồng Giám Mục và các giáo phận quan tâm nhiều hơn nữa
để giúp Hội hoàn thiện qui chế, có chương trình huấn luyện và chiêu sinh thích
hợp. Có lẽ cũng nên mở rộng cho người giáo dân tham gia vào đời sống và hoạt động
Truyền Giáo của Hội.
3. Giáo Hội Việt Nam nên chọn việc Truyền Giáo cho lương dân làm mục
tiêu "ưu tiên số một" của mọi hoạt động của toàn Giáo Hội và thay đổi
cách làm việc:
Muốn đầy mạnh việc
Truyền Giáo trong hiện tại và trong tương lai,
Trước hết Giáo Hội
Việt Nam cần chọn ưu tiên số một của mọi hoạt động của các cộng đoàn từ giáo xứ
đến giáo phận, từ hội đoàn tông đồ đến các ban mục vụ, các ủy ban giám mục là việc loan báo Tin Mừng
cho lương dân, cho người Kinh cũng như người sắc tộc thiểu số.
Kế tiếp là cần có phương pháp làm việc có kế hoạch,
chương trình bài bản mà nhiều người, nhiều nơi chưa quen. Tôi nhớ cách đây 5
năm (tháng 3.2001), tại Hội Nghị Giáo Dân Châu Á lần thứ hai tại Bangkok (Thái
Lan) khi Ban Tổ Chức đề nghị các đoàn đại biểu tham dự Hội Nghị chuẩn bị Kế Hoạch Hoạt Động Quốc Gia (Action's
National Plan) để trình bày trong Phiên Họp Khoáng Đại của Hội Nghị thì Vị giám mục trưởng đoàn (4) nói với chúng tôi rằng: "Mình có làm được gì đâu mà lên Chương
Trình hay Kế Hoạch." Nhiều vị lãnh
đạo cao thấp trong Giáo Hội Việt Nam vẫn còn suy nghĩ như vị giám mục trên.
Làm việc không kế
hoạch, không kiểm điểm, không lượng giá công việc, không rút ưu khuyết điểm thì
làm sao mà tiến triển được!
Và sau cùng là có
sự cộng tác chặt chẽ giữa các ban ngành, đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, giữa các
giáo phận và giữa các giám mục, linh mục và dòng tu.
THAY LỜI KẾT
Nếu tất cả những thuận lợi về các mặt và trong các lãnh vực đều được coi
là những nén vàng nén bạc Thiên Chúa trao ban, thì Giáo Hội Việt Nam còn
chôn giấu rất nhiều nén vàng nén bạc của Thiên Chúa.
Máu của 117+1 Thánh Tử Đạo và của hàng trăm
ngàn Anh Hùng Tử Đạo là những nén vàng nén bạc vô cùng quí giá!
Nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ cũng là những nén vàng nén bạc quí giá!
Nhiều giáo dân hăng say, nhiệt thành, quảng đại với công việc của Giáo Hội cũng là những nén vàng nén bạc quí giá!
Người Công Giáo Việt Nam là một thiểu số, yếu kém cả về số lượng lẫn quyền
lực trần gian cũng là những nén vàng nén bạc quí giá!
Thậm chí cả những khó khăn, cản trở và bách hại mà Giáo Hội Việt Nam phải
chịu cũng là những nén vàng nén bạc quí giá!
Chắc chẳng ai trong
chúng ta muốn nghe lời tuyên xử của Chúa Giê-su: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và
biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý
anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn
lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười
yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì
ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó
ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng." (5).
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Kansas City
(MO/USA) ngày 01.08.2006
.....................
Ghi chú:
(1)
Xin mời đọc Đề Tài 20: "ĐỂ GIÚP CÁC
GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO VIỆT NAM SỐNG ĐẠO TỐT HƠN" thuộc Chủ Đề "GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO"
trên các websites: thanhlinh.net,
dongcong.net, chungnhanduckito.net và liendoanconggiao.org.
(2)
Về mối tương quan giữa Giáo phẩm và giaó dân, xin đọc Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội
(Lumen Gentium) số 37.
(3)
Đó là bài của Lm Trần Công Nghị với những thông tin như sau: "Hiện nay chừng phân nửa số linh mục thừa
sai rời Trung Tâm Truyền Giáo Krakow ra ngoại quốc truyền giáo, thì không đi
đây xa hơn là tới các nước láng diềng Châu Âu và tới Bắc Mỹ. Tại Đại chủng viện
Tổng giáo phận Krakow, các chủng sinh được khuyến khích học thêm các ngôn ngữ
như Anh, Đức, Pháp, Ý cộng thêm các môn môn ngôn ngữ truyền thống tiếng La tinh
và các môn thần học tu đức. Sau khi họ được truyền chức thì sẵn sàng lên đường
đi ngoại quốc truyền giáo. Tại Ba Lan, linh mục đã trở thành món “xuất cảng” đắt
hàng nhất niện nay, nơi mà Giáo Hội Công giáo vẫn còn duy trì được một nền đạo
sống động và ơn kêu gọi làm linh mục càng ngày càng tăng, đầu Ba Lan đã phải sống
dưới chế độ Cộng Sản lâu năm. Và so với tình trạng các nước Châu Âu, nền đạo
vào số linh mục bớt đi quá nhiều thì Ba Lan vẫn là nơi phát huy nếp sống đạo
Công giáo mạnh mẽ.
Linh mục Marek Lesniak thuộc Đại Chủng Viện Krakow nói: “Giáo Hội là hoàn vũ chứ không chỉ là ở Ba
Lan”, Ngài cho biết thêm các linh mục xuất thân từ chủng viện này hiện nay cũng
làm việc tại Áo, Anh, Đức, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ, và ngay tại các quốcv gia như Nga,
Ukraine, Congo và Brazil, v.v... Lm Lesniak nói tiếp: "chúng tôi không phải
là đại chủng viện truyền giáo, nhưng nếu ai nghe tiếng gọi truyền giáo thì người
đó có thể theo tiếng gọi truyền giáo đó”. Đại Chủng Viện Krakow đã được thành lập
từ 600 năm qua và tại đây Đức cố Giáo Hoàng John Paul II đã từng theo học, nên
cũng là một động lực và cảm hứng cho các sinh viên trẻ đến đây theo học"
(VietCatholic News 18/07/2006).
(4)
Phái đoàn Việt Nam dụ Hội Nghị này gồm một giám mục, một linh mục và ba giáo
dân, hai nữ một nam.
(5)
Mt 25,26-30.