TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT
NAM
--------------
THÀNH LẬP CÁC CỘNG ÐOÀN KITÔ GIÁO
ÐỂ TRUYỀN GIÁO
VÀO ĐỀ
Xây dựng các Cộng Ðoàn
Giáo Hội Cơ Bản hay tham gia các Phong Trào và Hiệp Hội Canh Tân là giả thiết đã
có sẵn một Cộng Ðoàn Kitô Giáo, cụ thể là Giáo Xứ, ở địa phương. Vậy trước khi
có Giáo Xứ hay muốn có Giáo Xứ thì công việc của Giáo Hội và của chúng ta là gì?
Thưa là thành lập các Cộng Ðoàn Kitô Giáo. Ðó là việc đầu tiên phải làm nếu muốn
Truyền Giáo.
Trong bài 6 tôi đã nêu ÐIỂM
TRUYỀN GIÁO như một
trong các Phương Tiện cần thiết cho việc
Truyền Giáo tại Việt Nam hiện nay. Theo tiến trình tự nhiên thì Ðiểm
Truyền Giáo sớm muộn gì cũng sẽ trở thành Cộng Ðoàn Kitô Giáo. Vì thế trong bài
12 này chúng ta sẽ xem xét việc thành lập các Cộng Ðoàn Kitô Giáo như một trong
các Ðường Lối Truyền Giáo chính thống mà Công Ðồng Vatican II đã xác định rõ ràng.
TRÌNH BÀY
I. GIÁO HUẤN CỦA CÔNG ÐỒNG VATICAN II VỀ VIỆC THÀNH LẬP CÁC CỘNG
ÐOÀN KITÔ GIÁO.
“Chúa
Thánh Thần là Ðấng kêu gọi mọi người đến với Chúa Kitô và thúc đẩy tâm hồn họ vâng phục đức tin nhờ hạt giống
Lời Chúa và việc rao giảng Phúc âm. Chính khi Ngài sinh những kẻ tin Chúa Kitô
trong lòng Giếng Rửa Tội để sống đời sống mới, Ngài tập hợp họ thành một Dân Chúa
duy nhất. Dân này là “dòng giống được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân tộc
thánh thiện, dân được Thiên Chúa thu phục” (1).
“Vậy các nhà Truyền Giáo như những cộng tác viên của
Thiên Chúa (2), phải gây dựng những cộng đoàn tín
hữu sao cho họ biết sống xứng đáng ơn gọi của mình (3), để họ
có thể thi hành những chúc vụ đã được Chúa trao phó cho họ: đó là chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả. Nhờ cách đó, Cộng Ðoàn Kitô hữu trở thành dấu
chỉ nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian: thật vậy, nhờ Hiến Tế Thánh
Thể, họ luôn được cùng Chúa Kitô vươn đến Chúa Cha (4), và khi đã được nuôi dưỡng
cẩn thận bằng Lời Chúa (5), họ làm chứng về Chúa Kitô (6), và sau cùng dấn bước
vào tình bác ái và được hun đúc trong tinh thần tông đồ” (…..).
“Ngoài
ra, để gieo trồng Giáo Hội và phát triển Cộng Ðoàn Kitô Giáo, cần phải có
nhiều thừa tác vụ khác nhau; những thừa tác vụ
này một khi được ơn Chúa gọi khiến nẩy sinh từ chính Cộng Ðoàn
tín hữu, phải được mọi người đặc biệt chăm lo cổ võ
và vun trồng. Trong những thừa tác vụ đó, có chức vụ linh mục, phó tế và giảng viên giáo lý cũng như Công Giáo Tiến
Hành” (7).
II. NHU CẦU & KHẢ NĂNG THÀNH
LẬP CÁC CỘNG ÐOÀN KITÔ GIÁO TRONG LÒNG GIÁO
HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Nhu cầu bao la và khả năng vô cùng lớn:
Nếu xét về tỷ lệ người
Công Giáo trên tổng số người Việt Nam, thì cánh đồng Truyền Giáo của Giáo Hội Việt Nam còn bao la bát ngát, vì người Công Giáo mới chỉ chiếm một tỷ
lệ rất khiêm tốn, khoảng 6-7% dân số.
Nếu xét về các lãnh vực trần thế mà người Kitô
hữu Việt Nam phải hiện diện như muối, như men thì công cuộc Phúc Âm hóa các môi
trường lao động, kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, giáo dục còn bề bộn trăm
bề.
Nếu xét về các điều kiện
khách quan và chủ quan thì, dù còn nhiều khó khăn cản trở từ phía Nhà Nước, -từ chủ trương, chính sách đến biện
pháp-, Giáo Hội Việt Nam vẫn còn
rất nhiều khả năng để rao giảng Phúc Âm và thành lập các Cộng Ðoàn Kitô Giáo ở
khắp các vùng, từ thành thị đến nông thôn, thậm chí cả ở vùng cao, vùng xa.
Chỉ cần các Ủy Ban của Hội Ðồng Giám Mục
Việt Nam và của các giáo phận như Ủy Ban Truyền Giáo, Truyền Thông, Văn Hóa, Giáo
Dân, Gia Ðình, Giới Trẻ, Bác Ái Xã Hội ….. tập trung hoạt động của mình vào việc
thành lập và xây dựng các Cộng Ðoàn Kitô Giáo ở khắp các giáo phận. Có nghĩa là
Giáo Hội Việt Nam tập trung và huy động nhân sự và của cải vật chất vào công
việc này thì chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp.
Cần lưu ý về sự kiện này là trong 10-15 năm qua Giáo
Hội Việt Nam đã bỏ ra rất nhiều tiền bạc để xây dựng và tu sửa các thánh đường và
cơ sở vật chất. Giả như Giáo Hội Việt Nam chỉ dành một phần trăm khoản tiền ấy
cho công việc xây dựng con người, đào tạo cán bộ giáo dân thì sự phát triển sẽ hài
hòa, cân bằng hơn. Và giả như trong nội bộ Giáo Hội Việt Nam có sự chia sẻ nhiều
hơn nữa giữa các giáo xứ giầu và các giáo xứ nghèo, giữa các giáo xứ thành thị
và các giáo xứ nông thôn hay vùng sâu vùng xa, thì chứng tá hiệp thông liên đới
của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam càng nổi bật hơn nữa. Nhưng dường như còn thiếu
một nhận thức, một nhậy cảm và sự điều phối chung trong lãnh vực này. Tiếc thay!
(8).
2.2 Trọng tâm phải quan tâm khi thành lập Cộng Ðoàn Kitô Giáo:
Trước và trong khi thành lập một Cộng Ðoàn Kitô Giáo
tại một địa phương nào đó, những người có trách nhiệm cần quan tâm đến những trọng
tâm mà các Nghị Phụ Công Ðồng Vatican II
đã nêu lên ở trên. Cụ thể là:
(1) Ðào tạo
các Kitô hữu trong Cộng Ðoàn Kitô Giáo mới thành lập, cho họ có khả năng thi hành
các chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả mà Chúa Kitô đã ban cho mọi Kitô hữu
khi họ lãnh nhận Bí Tích Phép Rửa.
(2) Vun trồng và phát triển các thừa tác vụ khác nhau
trong Cộng Ðoàn, không chỉ cổ võ ơn gọi linh mục, tu sĩ mà cả các ơn gọi khác như
phó tế (9), giáo lý viên và tông đồ giáo dân nữa.
Thật ra hai
công việc trên là nhiệm vụ không chỉ của các Cộng Ðoàn Kitô Giáo mới được thành
lập mà là của tất cả các Cộng Ðoàn Kitô Giáo trên khắp nước Việt Nam, trên toàn
thế giới.
Ðó đây nhiều giáo xứ,
giáo phận rầm rộ tổ chức ăn mừng ngày giáo xứ, giáo phận được 30, 50, 75, 100 năm.
Trong những dịp lễ lạc vui mừng ấy, Ban Tổ Chức không để thiếu thứ gì, có lẽ trừ một thứ:
Mợi người cùng kiểm điểm xem Cộng Ðoàn Giáo Xứ, Giáo Phận mình đã chu toàn hai
nhiệm vụ quan trọng trên như thế nào?
THAY LỜI KẾT
Xin phép nêu lên một đề nghị:
Dù gặp nhiều khó khăn và trở ngại từ trong ra ngoài, các giáo phận vẫn nên mạnh dạn
thành lập thêm nhiều Cộng Ðoàn Kitô Giáo mới, tại những vùng có những điều kiện
tương đối.
Riêng đối với một số
giáo phận như Sàigòn, Hà Nội, Xuân Lộc, Bà Rịa v.v… nên nghiên cứu việc cắt các
Giáo Xứ lớn thành nhiều Giáo Xứ nhỏ. Làm như vậy sẽ giảm bớt sự chênh lệch về tài
chánh và nhân sự giữa các giáo xứ và sẽ tạo cơ hội cho nhiều giáo dân tham gia
vào việc xây dựng và phát triển Cộng Ðoàn Giáo Hội tức thi hành các chức vụ tư
tế, ngôn sứ và vương giả của người môn đệ Chúa Kitô Giêsu.
Giêrônimô Nguyễn
Văn Nội
New Oreans (LA/USA) ngày
07.10.2006
Lễ Ðức Mẹ Mân Côi
.........................
Chú
thích
(1) 1 Pr 2.9; Công Ðồng
Vatican II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội, số 15; Hiến Chế Tín
Lý về Giáo Hội, số 9.
(2) 1 Cr 3,9.
(3) Ep 4,1.
(4) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín
Lý về Giáo Hội, số 10,11.34.
(5) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín
Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa, số 21.
(6) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín
Lý về Giáo Hội, số 12, 35.
(7) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín
Lý về Giáo Hội, số 23, 36; Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội, số
15;
(8) Nhiều Cộng Ðoàn Kitô Giáo ở nông thôn
hay vùng núi chỉ cần một khoản tiền nhỏ là có được một ngôi nhà nguyện hay mấy lớp
giáo lý cho con em mà không được ai giúp, trong khi có nhiều nhà thờ còn tốt, còn
đẹp ở thành phố hay các vùng trù phú bị phá đi để xây một cái mới.
(9) Tuy không xác định rõ là phó tế
vĩnh viễn hay tạm thời, nhưng trong mạch văn chúng ta có thể hiểu là phó tế
vĩnh viễn. Trong Giáo Hội Việt Nam chưa có loại phó tế này. Có lẽ vì ơn gọi
linh mục, tu sĩ còn nhiều nên các Giám Mục Việt Nam không thấy cần phải phục
hồi một thừa tác vụ
có từ thời các Tông đồ mà Công Ðồng Vatican II đã khuyến khích các Giáo Hội địa
phương tái lập, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội “Ánh Sáng Muôn Dân”, số 29.