TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT
NAM
--------------
VIỆC GIẢNG DẬY VÀ HỌC HỎI GIÁO LÝ
LÀ ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN GIÁO KHÔNG ĐƯỢC XEM NHẸ
VÀO ĐỀ
Những ai quan tâm đến sự tồn vong và
phát triển của Giáo Hội Việt Nam không thể không vui mừng khi biết rằng mới đây
Đại Hội Giáo Lý Toàn Quốc lần thứ nhất (chắc tính từ 1975!) đã được tổ chức tại
Nha Trang. Đúng ra Đại Hội này đã phải được tổ chức từ lâu, vì chưng, khách
quan mà nói, thì không có gì quan trọng cho sự tồn vong và phát triển của Giáo
Hội cho bằng việc giảng dậy và học hỏi Giáo lý.
Trong bài này tôi sẽ đề cập đến việc giảng
dậy và học hỏi Giáo lý như một Đường Lối Truyền Giáo mà Giáo Hội Việt Nam không
được xem nhẹ, nếu chúng ta không muốn Giáo Hội mai một và có hàng giáo dân dốt
nát về Giáo Lý, Thánh Kinh, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Và tôi sẽ nêu lên một
số việc mà tôi cho là quan trọng và cấp bách liên quan tới mục vụ huấn giáo mà
Giáo Hội Việt Nam cần làm, để mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn
trong Giáo Hội, cùng nhau suy nghĩ và tìm cách thực hiện.
TRÌNH BÀY
I. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ VIỆC GIẢNG DẬY VÀ HỌC HỎI GIÁO LÝ VÀ
VIỆC HUẤN LUYỆN GIẢNG VIÊN GIÁO LÝ
1.1 Của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI về việc giảng dậy và học hỏi giáo
lý.
"Một cách truyền giáo (loan báo Tin Mừng)
không thể bị xem nhẹ là việc giảng dậy và học hỏi giáo lý. Trí khôn, nhất là của
trẻ em và người trẻ, cần được học hỏi - thông qua việc giảng dạy và học hỏi một
cách có hệ thống - những giáo huấn căn bản là nội dung sống động của chân lý mà
Thiên Chúa đã muốn đem đến cho chúng ta, và Giáo Hội đã diễn tả một cách phong
phú trong dòng lịch sử lâu dài. Không ai chối cãi được rằng việc giảng dậy và học
hỏi này cần được tổ chức bằng những hình thái cụ thể của đời sống Kitô hữu và
không chỉ ở trong ý niệm mà thôi. Thật ra nỗ lực truyền giáo sẽ được hưởng lợi
rất nhiều - trong các lớp giáo lý ở nhà thờ, hay ở trường học (những nơi có
thể thực hiện được) và trong mọi trường hợp là ở trong gia đình người Kitô hữu
- nếu những người dạy giáo lý có được những bản văn thích hợp và được cập nhật
với sự khôn ngoan và chuyên môn, dưới quyền giảng dạy của các Giám Mục. Các
phương pháp phải được thích nghi với lứa tuổi, nền văn hóa và thái độ của
những người liên hệ. Các phương pháp luôn phải tìm cách ghi sâu vào trí nhớ,
trí hiểu và tâm hồn những chân lý cơ bản là những chân lý phải thâm nhập vào
toàn bộ cuộc sống. Trước hết cần phải chuẩn bị cho có những nhà giáo dục tốt
- giáo lý viên của giáo xứ, thày cô giáo, các người làm cha làm mẹ là những
người ao ước chính họ trở nên hoàn thiện trong nghệ thuật cao trọng này - là điều
hết sức cần thiết và đòi hỏi phải có học hỏi về tôn giáo. Hơn nữa không được
xem thường bất kỳ phương pháp huấn luyện trẻ thơ nào, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay là lúc
việc giảng dậy giáo lý đã trở nên cấp bách, dưới hình thái các lớp giáo lý, cho
rất nhiều người trẻ và người trưởng thành, là những người một khi được tác động
bởi ơn thánh, sẽ dần dần khám phá ra dung mạo của Chúa Kitô và cảm thấy nhu cầu
phải hiến thân cho Người” (1).
1.2 Của Công Đồng Vatican II
về việc huấn luyện giảng viên giáo lý.
“Cũng thế, có một đạo binh thực sự
đáng khen và rất đáng thưởng công nhờ việc truyền giáo nơi muôn dân, đó là đạo
binh các giảng viên giáo lý nam cũng như nữ; là những người đã thấm nhuần
tinh thần tông đồ, họ vất vả rất nhiều để mang lại sự trợ giúp đặc biệt và hoàn
toàn cần thiết cho việc bành trướng đức tin và Giáo Hội.
“Trong thời đại chúng ta, chức vụ của các giảng
viên giáo lý rất quan trọng vì số giáo sĩ ít oi không đủ để rao giảng Phúc
Âm cho quần chúng quá đông đúc cũng như để thi hành mục vụ. Vì thế, việc huấn
luyện những giảng viên này phải được kiện toàn và thích nghi với tiến bộ
văn hóa, để như những cộng tác viên đắc lực của chức linh mục, họ có thể hoàn
thành đến mức tối đa nhiệm vụ của họ, nhiệm vụ đang đặt nặng trên vai họ những
trọng trách mới mẻ và rộng lớn hơn.
“Bởi vậy phải tăng thêm nhiều trường học thuộc
giáo phận và miền, để các giảng viên giáo lý tương lai vừa được học hỏi về
giáo lý công giáo, nhất là về môn Thánh Kinh và Phụng Vụ, vừa được học hỏi về
phương pháp dạy Giáo lý và thực hành mục vụ, lại được tự luyện theo luân lý
Kitô giáo (2) trong khi không ngừng cố gắng trau dồi đời sống đạo đức và thánh
thiện. Ngoài ra còn phải có những buổi hội thảo hay những khóa học tập định kỳ,
để các giảng viên giáo lý được cải tiến trong những môn học hay nghệ thuật hữu
ích cho thừa tác vụ cũng như để nuôi dưỡng và củng cố đời sống thiêng liêng của
mình nữa. Thêm vào đó, đối với những ai hoàn toàn tận hiến cho công cuộc này,
phải cung cấp cho họ một khoản thù lao cân xứng để họ có một mức sống xứng đáng
và được bảo đảm về mặt xã hội (3).
“Ước mong rằng Thánh Bộ Truyền Bá Ðức
Tin đặc biệt trợ cấp cách thích đáng cho công cuộc đào tạo và nâng đỡ các giảng
viên giáo lý. Nếu thấy cần và thích hợp, phải thành lập một Tổ Chức giúp các giảng
viên này.
“Ngoài ra các Giáo Hội cũng nên biết ơn nhìn
nhận công việc quảng đại của các giảng viên giáo lý trợ tá mà Giáo Hội đang
cần họ giúp đỡ. Chính các giảng viên giáo lý chủ sự các buổi đọc kinh chung
trong cộng đoàn và giảng dạy giáo lý. Cũng phải đặc biệt lo cho họ được huấn
luyện về giáo lý và đường thiêng liêng. Hơn nữa, ước mong rằng nơi nào thấy thuận
lợi, nên công khai cử hành một nghi lễ phụng vụ để ủy thác sứ mệnh pháp lý (4)
cho các giảng viên giáo lý đã được huấn luyện đầy đủ, ngõ hầu họ được thêm uy
tín với dân chúng mà phục vụ đức tin” (5).
II. MỐI QUAN TÂM CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM VỀ VIỆC GIẢNG DẠY VÀ HỌC HỎI
GIÁO LÝ VÀ VỀ VIỆC ĐÀO TẠO GIẢNG VIÊN
GIÁO LÝ
2.1 Giáo Hội Việt Nam luôn quan tâm đến
việc giảng dậy và học hỏi giáo lý:
Ở thành phố cũng như ở nông thôn Việt
Nam, hoạt động nổi bất nhất của các giáo xứ, sau việc cử hành Các Bí Tích, là
việc giảng dậy và học hỏi Giáo Lý. Sau Thánh Đường thì Phòng Giáo Lý cũng là mối
quan tâm thứ hai trong kế hoạch xây cất cơ sở ở đại đa số các giáo xứ. Đó là
hai sự việc nói lên sự quan tâm đến vấn đề huấn giáo của Giáo Hội Việt Nam.
Nhưng hai sự kiện đó chưa thể nói hết được tất cả mối quan tâm của Giáo Hội Việt
Nam về công tác mục vụ quan trọng này như chúng ta sẽ thầy ngay sau đây.
2.2 Giáo Hội Việt Nam chưa quan tâm đủ đến
mục vụ huấn giáo
Đi sâu vào đời sống các giáo xứ và các
giáo phận chúng ta sẽ thấy rằng, trong lãnh vực giảng dậy và học hỏi giáo lý, còn
rất nhiều điều Giáo Hội Việt Nam chưa làm hoặc chưa có thể làm để thực hiện những
chỉ đạo của Giáo Hội về huấn giáo. Chúng ta có thể tìm thấy những bằng chứng
"không thể chối cãi được" về khẳng định ấy, chẳng hạn như:
(1) Việc giảng dậy Giáo
Lý ở các Giáo Xứ Việt Nam hiện nay
Việc giảng dậy giáo lý ở hầu hết các nơi
là công việc gần như được khoán trắng cho giáo dân. Ở một số ít nơi thì việc điều hành tổ chức mục vụ này được
giao cho các nữ tu (nam tu sĩ rất ít người nên không đóng vai trò lớn trong mục
vụ huấn giáo này). Thậm chí có nơi linh mục coi xứ chẳng ngó ngàng gì đến công
việc hệ trọng này. Trong bản đúc kết đợt thường huấn của các linh mục của giáo
phận X, về việc giảng dạy giáo lý ở các giáo xứ, ban thư ký đã ghi lại ý kiến của
các linh mục như sau :
“Khi giảng dạy, thường thì không dọn
bài vì nhận thấy trình độ người giáo dân
thấp, cho nên không muốn dành thời giờ dọn bài, cho đó là việc dư thừa vô ích.
Có những nơi, linh mục khoán trắng cho giáo dân, mà quên rằng, linh mục chính
là thầy dạy giáo lý đầu tiên” (6).
Một sự kiện khác: Nếu việc giảng dậy và
học hỏi Giáo Lý có được quan tâm thì các giáo xứ cũng chỉ mới quan tâm đến các
thiếu nhi và thiếu niên. Còn với thanh niên và người trưởng thành thì chưa mấy
giáo xứ có chương trình và các lớp khóa/thích hợp trừ khóa giáo lý hôn nhân cho những người trẻ
sắp lập gia đình, để nâng cao và đào sâu vốn liếng sống Đạo của người giáo dân.
(2) Việc đào tạo Giáo
Lý Viên cho các giáo xứ, giáo phận ở Việt Nam
Việc thu nhận và đào tạo các giáo lý viên
cũng là vấn đề lớn còn bỏ ngỏ. Có một ít giáo phận đã cố gắng tổ chức chương
trình đào tạo giảng viên giáo lý với các khóa. Nhưng nhiều nơi vẫn phải chấp nhận
tình trạng "có sao làm vậy". Nhiều giáo lý viên chỉ có lòng nhiệt
thành mà không được đào tạo chính quy, không có đủ vốn giáo lý, sư phạm và tâm
lý cần thiết. Vì thế mà việc giảng dậy và học hỏi giáo lý còn mang tính "từ
chương" học sinh học thuộc lòng và thụ động.
3. Uỷ Ban Giáo Lý Đức
Tin toàn quốc và của các giáo phận Việt Nam
Nếu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã thiết
lập Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin toàn quốc, thì Ủy Ban này cũng mới chỉ bắt đầu hoạt
động vài năm nay. Công việc thì nhiều chẳng khác chi dẫy núi Trường Sơn mà số
thành viên thì đếm trên đầu ngón tay và không chuyên nghiệp. Hơn nữa tất cả các
linh mục thành viên đều là những chánh phó xứ hay các giáo sư đại chủng viện bận
bịu với trăm công ngàn việc của giáo xứ hay của chủng viện, nên thời gian và
công sức dành cho Ủy Ban chẳng được bao nhiêu. Ở cấp toàn quốc cũng như ở cấp
các giáo phận, còn thiếu những vị chuyên trách, chỉ lo một công việc là Giáo Lý
của Hội Đồng Giám Mục hay của giáo phận mà thôi.
Xuống cấp các giáo phận thì chúng ta thấy
không phải giáo phận nào cũng đã có Ban Giáo Lý Giáo Phận. Và lại thường có
tình trạng "hữu danh vô thực" nghĩa là trên giấy tờ thì có ban có bệ
đầy đủ nhưng trên thực tế thì không có người làm việc (7).
4. Chương trình Giáo Lý
thống nhất và các thủ bản sách Giáo Lý
Ở các giáo phận Miền Bắc thì tôi không
rõ, còn trong Nam thì có ba bộ Sách Giáo Lý được nhiều người biết đến và sử dụng
nhiều nhất là Bộ Sách Giáo Lý của Sàigòn, bộ sách Giáo lý của Xuân Lộc và Bộ
Sách Giáo lý của Nha Trang.
Việc có một Chương Trình Giáo lý thống
nhất và có thủ bản thống nhất cũng là một vần đề lớn. Dĩ nhiên công việc này cũng
không dễ dàng gì vì sự khác nhau và chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, giữa
Miền Bắc (trên vĩ tuyến 17) và Miền Nam (dưới vĩ tuyến 17).
5. Các Trung Tâm Giáo
Lý và Mục Vụ của các Giáo Phận ở Việt Nam
Ở cấp toàn quốc cũng như ở cấp giáo phận
chúng ta chưa có một trường hay trung tâm đào tạo Giảng Viên Giáo Lý và đảm
trách về huấn giáo của Giáo Hội Việt Nam hay của giáo phận. Từ ít năm nay một số
giáo phận đã có Trung Tâm Mục Vụ hay Tòa Giám Mục mới được xây dựng có thể dùng
làm nơi tổ chức các khóa/đợt huấn luyện giáo dân nói chung, Giảng Viên Giáo Lý
nói riêng; nhưng cũng mới ở bước đầu, còn thiếu nhân sự và tài chánh, thiếu kế
hoạch và chương trình.
THAY LỜI KẾT
Chúng ta có thể nói
rằng Giáo Hội Việt Nam tuy có quan tâm đến việc giảng dậy và học hỏi Giáo Lý
và đến việc đào tạo Giảng Viên Giáo Lý, nhưng quả thật là Giáo Hội Việt Nam
chưa quan tâm đủ đến mục vụ huấn giáo quan trọng này, vì còn rất nhiều việc
cần làm như vừa trình bày ở trên. Theo quan điểm cá nhân tôi thì vấn đề phải giải
quyết trước hết là não trạng và cách làm việc của lãnh đạo thượng tầng của Giáo
Hội Việt Nam từ cấp toàn quốc đến cấp giáo phận. Nếu Giáo Lý là vấn đề quan trọng
bậc nhất thì vốn đầu tư vào lãnh vực mục vụ này cũng phải đứng hàng đầu trong
các đầu tư của Giáo Hội hay giáo phận. Đầu tư từ con người, cho đến cơ sở vật
chất và phương tiện làm việc. Bên lề Hội Nghị Thần Học Thường
Niên từ 22 đến 26 tháng 4 vừa qua của các nhà thần học Ấn Độ, với chủ đề “GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI: CĂN TÍNH VÀ SỨ MẠNG TẠI ẤN ĐỘ NGÀY NAY”, bà
Valerie D'Souza, một nhà thần học giáo dân, đã nói với Thông Tấn
Xã Công Giáo Á Châu rằng: "Giáo hội cần phải ưu tiên đầu tư vào việc
đào tạo giáo dân. Trong khi Giáo hội chi những khoản khổng lồ cho việc đào tạo
các linh mục và tu sĩ, thì Giáo hội không chịu tốn kém gì cho giáo dân cả.” Một
thành phần giáo dân xứng đáng được Giáo Hội ưu tiên đầu tư là Các Giảng Viên Giáo Lý với
các Trung Tâm Đào Tạo Giảng Viên Giáo Lý và hoạt động của các Ban Giáo Lý giáo
phận hay toàn quốc.
Ưóc mong các Hồng Y, Tổng
Giám Mục, Giám Mục và các linh mục Việt Nam đồng tình với quan điểm trên của bà
Valerie D'Souza và tìm cách thực hiện điều ấy ngay từ bây giờ, để củng cố và
phát triển Cộng Đồng Dân Chúa tại Việt Nam là Cộng Đồng đã được xây dựng bằng Xương
Máu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Giêrônimô Nguyễn
Văn Nội
Ontario (CA.USA)
ngày 19.11.2006
Lễ Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam.
.........................
Ghi chú:
(1) Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, số 44.
(2) Xem Gioan XXIII, Tđ. Princeps Pastorum, 28-11-1959 : AAS 51
(1959), trang 855.
(3) Ở đây nói những người vẫn được gọi là "catéchistes à plein
temps", "full time catechists" (những thầy giảng, kẻ giảng).
(4) Sứ mệnh pháp lý theo giáo luật là quyền hành do Giáo Quyền có
thẩm quyền ban cho, như quyền dạy dỗ, quyền cử hành các nghi thức để phục vụ
Giáo Hội.
(5) Công Đồng Vaticanô II, Sắc Lệnh Truyền Giáo, số 17.
(6) Xem Bản đúc kết thường huấn linh mục của giáo phận X., tháng
10.2003.
(7) Xin nêu lên trường hợp của giáo phận Sàigòn, một giáo phận lớn
và nhiều nhân sự: Thời Đức Tổng Giám Mục
Phaolô Nguyễn Văn Bình, (kể từ 1975 trở về sau) trên danh nghĩa thì có một linh
mục có chức vụ Trưởng Ban Huấn Giáo giáo phận. Nhưng vị linh mục này chẳng có cộng
tác viên để lập thành Ban Huấn Giáo và
thật ra ngài cũng chẳng làm gì nhiều, một phần vì hoàn cảnh khó khăn lúc
bấy giờ, một phần vì cá tính của ngài. Trong khi đó có một nhóm linh mục, tu sĩ
và giáo dân cảm thấy nhu cầu phải có bộ
Giáo lý thích hợp với hoàn cảnh mới thay thế cho cuốn Giáo Lý Tân Định (dưới dạng
hỏi thưa) nên tình nguyện làm việc chung với nhau, soạn ra bộ Giáo Lý Khai Tâm,
Rước Lễ và Thêm Sức, được đấng bản quyền chấp nhận. Nhưng sau khi Đức Tổng Bình
qua đời, thì Đức Giám Quản lại giao việc soạn Giáo Lý cho một linh mục không ở
trong nhóm này và nhóm này cũng không được mời hợp tác. Còn từ ngày Đức Hồng Y
Phạm Minh Mẫn nhậm chức Tổng Giám Mục Sàigòn cho đến nay thấm thoát đã hơn 8
năm rồi, Ban Giáo Lý vẫn chưa được thành lập. Hình như vì Tòa Tổng Giám Mục
chưa tìm được một linh mục để giao trách nhiệm Trưởng Ban (!).