Bài Giáo Lý của ĐTC: 39. Lời cầu nguyện của Thánh Phaolô trong
Thư gửi tín hữu Philipphê
04/07/2012
“Học tâm tình của Đức
Kitô là con đường của đời sống Kitô hữu”
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ 39 về cầu
nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư
ngày 27 tháng 6 năm 2012 tại Đại Sảnh Phaolô VI. Hôm nay ĐTC tiếp tục bàn về
việc cầu nguyện trong các Thư của Thánh Phaolô. Hôm nay ngài suy niệm về bài
thánh thi Kitô học của Thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Philipphê. Trong
Tháng 7 ĐTC sẽ nghỉ hè và sẽ không có bài Giáo Lý hằng tuần.
***
Anh chị em thân mến,
Như chúng ta đã thấy trong những ngày Thứ Tư vừa qua, lời
cầu nguyện của chúng ta bao gồm những lúc thinh lặng và những lời nói, các bài
thánh ca và những cử điệu liên quan đến toàn thể người: từ ngoài miệng đến tâm
trí, từ con tim đến toàn thể con người. Đó là một đặc tính mà chúng ta tìm thấy
trong cầu nguyện của người Do Thái, đặc biệt là trong các Thánh Vịnh. Hôm nay
tôi muốn nói về một trong những thánh ca và thánh thi cổ xưa nhất trong truyền
thống Kitô giáo, mà Thánh Phaolô đặt trước chúng ta, trong đó, theo một nghĩa
nào đó, là di chúc tinh thần của ngài: Thư gửi tín hữu Philipphê. Thực sự thư
này là một thư mà Thánh Tông Đồ đã đọc cho viết khi ngài bị giam cầm, có lẽ ở Roma.
Ngài cảm thấy cái chết đã gần, vì ngài nói rằng cuộc sống của ngài sẽ được hiến
dâng như là một hy lễ (x. Phil 2:17).
Bất chấp tình trạng cực kỳ nguy hiểm liên quan đến sự an
toàn về thể lý của ngài, trong toàn thể bản văn, Thánh Phaolô diễn tả niềm vui
được làm một môn đệ Đức Kitô và có thể đi gặp Người, vì vậy mà ngài coi cái
chết không phải là một sự mất mát nhưng là một mối lợi. Ở chương cuối cùng của
Thư, có một lời mời gọi vui mừng mãnh liệt, một đặc tính cơ bản của việc làm
Kitô hữu và việc cầu nguyện của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Anh em hãy luôn
vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui mừng” (Phil 4:4). Nhưng làm sao một
người có thể vui mừng được khi đang đối diện với một án tử hình sắp xảy ra? Từ
đâu, hoặc đúng hơn, từ ai mà Thánh Phaolô rút ra được sự thanh thản, sức mạnh
và lòng can đảm để đương đầu với việc tử vì đạo và đổ máu của mình?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời ở trọng tâm của Thư gửi tín
hữu Philipphê, ở điều mà truyền thống Kitô giáo gọi là carmen Christo, bài
thánh thi dành cho Đức Kitô, hoặc thông thường hơn, “bài thánh thi Kitô học”;
một bài thánh thi trong đó tất cả mọi chú ý đều tập trung vào “những tâm tình”
của Đức Kitô; đó là, về cách suy nghĩ của và thái độ cụ thề và sống của Người.
Kinh nguyện này bắt đầu với lời kêu gọi: “Hãy có tâm tình này trong anh em, đó
cũng là tâm tình trong Ðức Giêsu Kitô” (Phil 2:5). Những tâm tình này được
trình bày trong các câu tiếp theo: tình yêu, lòng đại lượng, khiêm tốn, vâng
phục Thiên Chúa, món quà tự hiến. Không phải chỉ là vấn đề đơn thuần theo gương
Chúa Giêsu, như là một điều gì vền đạo đức luân lý, nhưng là uốn nắn toàn thể
cuộc đời của mình theo cách suy nghĩ và hành động của Chúa Giêsu. Cầu nguyện
phải đưa đến một sự hiểu biết và một sự kết hợp trong một tình yêu sâu xa hơn
bao giờ hết với Chúa, để có thể suy nghĩ, hành động và yêu thương như Người,
trong Người và cho Người. Thực hành này, việc học tâm tình của Đức Kitô, là con
đường của đời sống Kitô hữu.
Giờ đây tôi muốn vắn tắt bàn đến một số yếu tố của bài
thánh thi cô đọng này, là bài thánh thi tóm tắt toàn thể hành trình Thiên Chúa
và con người của Con Thiên Chúa cùng bao gồm toàn bộ lịch sử nhân loại: từ tình
trạng là Thiên Chúa, đến việc Nhập Thể, cho đến cái chết trên thập giá và việc
được tôn vinh trong vinh quang Chúa Cha, hành vi của Adam và của con người từ
ban đầu cũng được nói đến. Bài thánh thi dành cho Đức Kitô bắt đầu với việc
Người ở “en morphe tou Theou”, theo bản văn Hy Lạp, có nghĩa là, từ “trong hình
dạng Thiên Chúa” hoặc hay hơn, trong tình trạng Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Thiên
Chúa thật và người thật, không sống tình trạng “như Thiên Chúa” của mình để
thắng thế hoặc áp đặt uy quyền tối cao của Người; Người không coi điều đó như
một vật sở hữu, một đặc quyền, hoặc một kho báu phải được bảo vệ hết mình. Thật
vậy, “Người trút bỏ chính Mình”, Người tự tước đoạt chính mình – mặc lấy điều
mà văn bản Hy Lạp đọc là “morphe doulos”, “hình dạng của một kẻ nô lệ”, tức là
thực trạng của con người, được đánh dấu bởi sự nghèo đói, đau khổ và cái chết.
Người đã hoàn toàn đồng hóa Mình với loài người, ngoại trừ tội lỗi, để hoạt
động như một đầy tớ hiến thân phục vụ tha nhân. Về điều này, Eusebius thành
Cesarea ở thế kỷ thứ tư đã nói: “Người tự mình gánh trên vai những khó khăn của
các thành viên đau khổ. Người đã biến các bệnh tật hèn mọn của chúng ta thành
củaNgười. Người đã chịu đau khổ và vất vả vì chúng ta: điều này phù hợp với
tình yêu tuyệt vời của Người dành cho nhân loại” (Trình Bày Tin Mừng, 10,1,22).
Thánh Phaolô tiếp tục bằng cách vạch lại cốt truyện “lịch
sử” trong đó việc Chúa Giêsu tự hạ mình được thực hiện: “Người tự hạ mình và
vâng lời cho đến chết” (Phil 2:8). Con Thiên Chúa thật sự trở thành người phàm
và bước một con đường hoàn toàn vâng lời và trung thành với Thánh Ý Chúa Cha,
ngay cả đến hy sinh tột cùng là hiến cuộc đời mình. Còn hơn nữa, như Thánh Tông
Đồ nói rõ, “cho đến chết, và chết trên cây thập giá” (Phil 2:8). Trên thập giá,
Đức Giêsu Kitô đạt đến mức độ nhục nhã lớn nhất, vì bị đóng đinh là hình phạt
dành cho những kẻ nô lệ chứ không phải cho những người tự do: “mors turpissima
crucis” [cái chết trên thập giá là cái chết nhục nhã nhất], như
Trên Thánh Giá của Đức Kitô, con người được cứu độ và kinh
nghiệm của Ađam bị đảo ngược: Adam, được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên
Chúa, tìm cách giống Thiên Chúa bằng sức riêng của mình, để tự đặt mình lên địa
vị Thiên Chúa, và do đó đã đánh mất phẩm giá nguyên thủy mà Thiên Chúa đã ban
cho ông. Ngược lại, Chúa Giêsu, đang ở trong “tình trạng của Thiên Chúa,” lại
tự hạ mình, dìm mình vào tình trạng con người, trong việc hoàn toàn trung thành
với Chúa Cha, để chuộc lại cái Adam trong chúng ta và để phục hồi cho con người
phẩm giá mà họ đã mất. Các Giáo Phụ đã nhấn mạnh rằng Người đã trở nên vâng
phục, do đó, qua nhân tính và sự vâng phục của Người, Người phục hồi cho bản
tính con người những gì đã bị mất vì sự bất phục tùng của Adam.
Trong cầu nguyện, trong mối liên hệ của chúng ta với Thiên
Chúa, chúng ta mở trí khôn, tâm hồn và ý chí của mình ra cho tác động của Chúa
Thánh Thần để bước vào cùng một động lực này của cuộc đời. Như Thánh Cyrilô
thành
Chủ đề được thay đổi trong phần thứ hai của “bài thánh thi
Kitô học” trong Thư gửi tín hữu Philipphê; nó không còn là Đức Kitô, mà là
Thiên Chúa Cha. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng chính vì sự vâng phục Thánh Ý của
Chúa Cha của Người mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và đã ban cho Người một
danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Phil 2:9). Đấng đã tự hạ mình một cách sâu
thẳm bằng cách thông phần vào tình trạng của một kẻ nô lệ được tôn vinh rất
cao, Người được Chúa Cha nâng lên trên tất cả mọi sự, và Ngài đã ban cho Người
danh hiệu “Kyrios”, “Chúa”, tức là phẩm giá và chủ quyền cao trọng nhất. Thực
ra, trước danh hiệu mới này, chính là danh hiệu của Thiên Chúa trong Cựu Ước,
“mọi đầu gối phải quỳ xuống, trên trời, dưới đất và dưới lòng đất, và mọi miệng
lưỡi phải xưng tụng rằng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để tôn vinh Thiên Chúa Cha”
(cc. 10-11).
Chúa Giêsu, Đấng được tôn vinh cũng là Đấng đã hiện diện
trong Bữa Tiệc Ly, Đấng cởi áo ngoài của mình, thắt lưng bằng một chiếc khăn,
cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông Đồ và hỏi các ông: “Các con có hiểu
việc Thầy vừa làm cho các con không? Các con gọi Thầy là ‘Thầy,’ là ‘Chúa,’ các
con nói đúng, vì thật sự Thầy là thế. Như thế, nếu Thầy là Chúa và là Thầy, mà
Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga
13:12-14). Phải luôn nhớ lại điều này trong cầu nguyện và trong đời sống chúng
ta: “Việc đi lên với Thiên Chúa xảy ra chính trong việc đi xuống của phục vụ
khiêm tốn, trong việc đi xuống của tình yêu, vì tình yêu là bản chất của Thiên
Chúa, và do đó là quyền năng thực sự thanh tẩy con người và cho phép họ nhận
thức được Thiên Chúa và thấy Ngài” (Chúa Giêsu thành Nadareth, New York năm
2007, p.95).
Bài thánh thi trích từ Thư gửi tín hữu Philipphê ở đây cung
cấp cho chúng ta hai bài học quan trọng về việc cầu nguyện của chúng ta. Bài
học thứ nhất là việc dùng danh hiệu “Chúa” đề gọi Đức Giêsu Kitô, đang ngự bên hữu
Chúa Cha: Chính Người là Chúa duy nhất của cuộc đời chúng ta, giữa nhiều “nhà
cai trị” đang muốn chỉ đạo và hướng dẫn nó. Vì lý do này, chúng ta cần phải có
một nấc thang giá trị, trong đó bậc cao nhất phải dành cho Thiên Chúa, để cùng
với Thánh Phaolô, chúng ta khẳng định: “tôi coi tất cả mọi sự là thua thiệt, vì
sự giá trị tuyệt vời của việc nhận biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa của tôi” (Phil
3:8). Việc gặp gỡ Đấng Phục Sinh đã làm cho ngài hiểu rằng Người là kho báu duy
nhất đáng cho người ta mua bằng toàn thể cuộc sống của mình.
Bài học thứ nhì là việc phủ phục, “mọi đầu gối phải quỳ”
trên trời và dưới đất, nhắc lại cách diễn tả của ngôn sứ Isaia, trong đó ám chỉ
việc tôn thờ mà mọi tạo vật phải dành cho Thiên Chúa (x. 45:23). Việc bái gối
trước Bí Tích Cực Trọng hoặc quỳ gối trong khi cầu nguyện diễn tả chính thái độ
thờ lạy trước mặt Thiên Chúa, cùng với thân mình. Do đó, tầm quan trọng của cử
chỉ này không phải vì sự thúc đẩy của thói quen hoặc vội vàng, nhưng vì ý thức
sâu xa. Khi chúng ta quỳ xuống trước mặt Chúa chúng ta tuyên xưng đức tin của
mình nơi Người, chúng ta xác nhận rằng Người là Chúa duy nhất của cuộc đời của
chúng ta.
Anh chị em thân mến, trong việc cầu nguyện của mình, chúng
ta hãy chăm chú nhìn vào Đấng Chịu Đóng Đinh; chúng ta hãy ở lại tôn thờ thường
xuyên hơn trước Thánh Thể để cho cuộc sống của chúng ta được nhập vào vào tình
yêu của Thiên Chúa, Đấng khiêm tốn hạ mình để nâng chúng ta lên với Người. Ở
đầu bài giáo lý này, chúng ta đã tự hỏi làm sao mà Thánh Phaolô có thể vui mừng
khi đối diện với việc tử vì đạo và đổ máu sắp xảy ra của mình. Điều này chỉ có
thể được bởi vì Thánh Tông Đồ không bao giờ rời mắt khỏi Đức Kitô, đến nỗi trở
nên đồng hình đồng dạng với Người ngay cả trong cái chết, để “hy vọng đạt được
sự sống lại của kẻ chết” (Phil 3:11). Như Thánh Phanxicô trước Thánh Giá, chúng
ta cũng thưa: “Ồi lạy Thiên Chúa Tối Cao và vinh quang, xin chiếu ánh sang vào
nơi tăm tối của tâm hồn con. Xin ban cho con một đức tin chân chính, một đức
cậy (hy vọng) vững vàng và một đức ái hoàn hảo, ơn biết phân biện và ơn thông
hiểu để con có thể thực thi Thánh Ý chân thật và thánh thiện của Ngài. Amen.”
(X. Cầu nguyện trước Thánh Giá: FF [276]).