ĐTC
Phanxicô: Đức Tin vào Biến Cố Phục Sinh
Phaolô Phạm Xuân Khôi -
4/9/2013
“Chúa đang sống và
Người đi bên cạnh chúng ta trong cuộc sống. Đây là sứ vụ của các con! Hãy đi
bày tỏ niềm hy vọng này.”
Dưới đây là bản dịch
bài Giáo Lý thứ nhất của ĐTC Phanxicô về Năm Đức Tin trong buổi Triều Yết Chung
tại Quảng trường Thánh Phêrô, hôm thứ tư ngày mùng 3 tháng 4 năm 2013. Hôm nay
Ngài tiếp tục loạt bài về Kinh Tin Kính mà ĐTC Bênêđictô XVI đã bắt đầu.
* * *
Anh chị em thân mến,
Kính chào anh chị em,
Hôm nay chúng ta trở
lại bài Giáo Lý về Năm Đức Tin. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta lặp lại cụm từ
này: “Đến ngày thứ ba, Người sống lại, như lời Thánh Kinh.” Đây
chính là biến cố mà chúng ta đang cử hành: Việc Phục Sinh của Chúa Giêsu, là
trung tâm của sứ điệp Kitô giáo được vang vọng ngay từ thủa ban đầu và được
truyền đạt đến chúng ta. Thánh Phaolô viết cho các tín hữu thành
Côrinthô: “Tôi đã truyền lại cho anh em… trước tiên điều mà tôi đã cũng
nhận được là, Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta như Thánh Kinh, Người đã
được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại theo như Thánh Kinh. Người đã hiện ra
với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai.” (1 Cor 15:3-5). Lời tuyên xưng
đức tin ngắn này vừa công bố Mầu Nhiệm Phục Sinh, với cuộc hiện ra đầu tiên của
Đức Kitô Phục Sinh với Thánh Phêrô và Nhóm Mười Hai: cái chết và việc Phục Sinh
của Chúa Giêsu là tâm điểm của niềm hy vọng của chúng ta. Nếu không có niềm tin
vào cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu này, thì niềm hy vọng của chúng ta
sẽ yếu ớt, và thậm chí sẽ không có hy vọng, và chính cái chết và việc Phục Sinh
của Chúa Giêsu là tâm điểm của niềm hy vọng của chúng ta. Thánh Tông Đồ
nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em sẽ ra vô
ích và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi mình” (câu 17).
Tiếc thay, người ta
thường cố gắng làm cho niềm tin vào việc Phục Sinh của Chúa Giêsu bị lu mờ, và
những hồ nghi đã len lỏi vào ngay cả trong vòng các tín hữu. Một chút niềm tin
đã bị “giảm thiểu”, như chúng ta nói; đó không phải là đức tin mạnh mẽ. Và sở
dĩ có điều đó là do người ta suy đoán nông cạn, đôi khi vì thờ ơ, bận rộn với
hàng ngàn những điều được coi là quan trọng hơn đức tin, hoặc bởi vì một cái nhìn
hoàn toàn nhân bản (theo chiều ngang) về cuộc đời. Nhưng chính việc sống lại mở
lòng chúng ta ra để đón nhận niềm hy vọng lớn nhất, bởi vì nó khai mở cuộc sống
của chúng ta và cuộc sống của thế giới ra cho tương lai vĩnh cửu của Thiên
Chúa, cho hạnh phúc sung mãn, cho sự chắc chắn rằng sự dữ, tội lỗi và sự chết
có thể bị đánh bại. Và điều này dẫn đến việc sống thực tại thường nhật một cách
tin tưởng hơn, đối diện chúng với lòng can đảm và quyết tâm. Việc Phục Sinh của
Đức Kitô soi chiếu một ánh sáng mới trên những thực tại thường nhật này. Việc
Phục sinh của Đức Kitô là sức mạnh của chúng ta!
Nhưng chân lý đức tin
về việc Phục Sinh của Đức Kitô được truyền lại cho chúng ta thế nào? Có hai
loại bằng chứng trong Tân Ước, một số dưới hình thức tuyên xưng đức tin, nghĩa
là, những công thức tổng hợp biểu thị trọng tâm của đức tin; ngoài ra là những
bằng chứng khác dưới hình thức tường thuật về việc Phục Sinh và về các biến cố
liên quan đến nó. Trước hết: hình thức tuyên xưng đức tin chẳng hạn, là điều mà
chúng ta vừa nghe, hoặc những điều trong Thư gửi tín hữu Rôma, ở đó Thánh
Phaolô viết: “Thực ra, nếu anh em dùng miệng mà tuyên xưng Chúa Giêsu
là Chúa, và tin trong lòng rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi
chết, thì anh em sẽ được cứu độ.”(10:9). Từ những bước đầu tiên của Hội
Thánh, đức tin vào mầu nhiệm cái chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu là điều rất
kiên định và rõ ràng. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn suy niệm về hình thức thứ
hai, về bằng chứng dưới hình thức tường thuật mà chúng ta thấy trong các sách
Tin Mừng. Trước hết, chúng ta ghi nhận rằng các nhân chứng đầu tiên cho biến cố
này là các phụ nữ. Ngay từ tảng sáng, các bà đã đi đến mồ để ướp xác Chúa
Giêsu, và tìm thấy dấu chỉ đầu tiên: ngôi mộ trống (x. Mc 16:1). Tiếp theo là
cuộc gặp gỡ với một Sứ Giả của Thiên Chúa là vị đã tuyên bố: Đức Giêsu
Thánh Nadarét, Đấng Chịu Đóng Đinh, Người không có ở đây, Người đã sống
lại (xem cc. 5-6.). Các phụ nữ được thúc đẩy bởi tình yêu và biết chấp
nhận lời loan báo này bằng đức tin: các bà tin, và lập tức thông truyền nó, các
bà không giữ cho mình, mà thông truyền tin ấy.
Niềm vui của việc biết
rằng Chúa Giêsu còn sống, niềm hy vọng tràn đầy tâm hồn chúng ta, là điều không
thể giữ nổi. Điều này cũng cần được thực hiện trong đời sống của chúng ta. Chúng
ta cảm nghiệm được niềm vui được làm Kitô hữu! Chúng ta tin vào Chúa Phục Sinh
là Đấng đã chiến thắng sự dữ và sự chết! Chúng ta hãy can đảm “đi ra” để đem
niềm vui và ánh sáng này đến tất cả mọi nơi trong cuộc sống chúng ta! Việc Phục
Sinh của Đức Kitô là sự chắc chắn vĩ đại nhất của chúng ta, là kho tàng quý giá
nhất của chúng ta! Làm sao mà chúng ta không chia sẻ với những người khác kho
tàng này, sự chắc chắn này? Nó không chỉ dành riêng cho chúng ta, nó phải được
thông truyền, phải được trao ban cho những người khác, phải được chia sẻ với
những người khác. Đó chính là chứng từ của chúng ta.
Có một yếu tố khác.
Trong những tuyên xưng đức tin của Tân Ước, chỉ những người nam, các Tông Đồ,
được nhắc đến như những chứng nhân của việc Phục Sinh, chứ không phải các phụ
nữ. Sở dĩ có điều này là bởi vì theo Luật Do Thái thời đó, phụ nữ và trẻ em
không thể là những nhân chứng xác thực, đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong các Tin
Mừng, các phụ nữ đóng một vai trò chính và cơ bản. Ở đây chúng ta có thể nắm
được một yếu tố ủng hộ tính cách lịch sử của việc Phục Sinh: nếu nó là một biến
cố bịa đặt, thì trong bối cảnh của thời đại ấy, nó đã không được kết nối với
lời chứng của các phụ nữ. Thay vào đó, các Thánh Ký chỉ đơn thuần tường thuật
những gì đã xảy ra: các phụ nữ là những nhân chứng đầu tiên. Điều này nói lên
rằng Thiên Chúa không chọn lưa theo những tiêu chuẩn của loài người: những nhân
chứng đầu tiên của việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu là các mục đồng, những người
đơn sơ và khiêm nhường; những nhân chứng đầu tiên của việc Phục Sinh là các phụ
nữ. Và điều này tuyệt đẹp. Theo một mức độ nào đó thì đây là sứ vụ của các phụ
nữ: của các bà mẹ, các phụ nữ! Làm chứng cho con cái và cháu chắt của họ rằng
Chúa Giêsu đang sống, Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng
đã sống lại. Hỡi các bà mẹ và các phụ nữ, hãy tiến lên với chứng từ này!
Đối với Thiên Chúa,
chính con tim mới đáng kể, chúng ta mở lòng ra cho cho sự hiện diện của Ngài
như thế nào, nếu chúng ta như những trẻ em đầy tín thác. Nhưng điều này cũng
làm cho chúng ta suy nghĩ về cách thế mà các phụ nữ trong Hội Thánh và trong
hành trình đức tin, đã có và ngày nay có một vai trò đặc biệt trong việc mở cửa
cho Chúa, bằng cách đi theo Người và thông truyền Dung Nhan của Người, bởi vì
cái nhìn đức tin luôn luôn cần cái nhìn tình yêu đơn sơ và sâu sắc. Các Tông Đồ
và các môn đệ thấy khó (mà) tin (vào việc Phục Sinh). Còn các phụ nữ thì không.
Thánh Phêrô chạy đến ngôi mộ, nhưng ngừng lại ở ngôi mộ trống; Thánh Thôma phải
chạm vào các vết thương trên thân thể của Chúa Giêsu với hai bàn tay của mình.
Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng thế, thật là quan trọng khi
biết và cảm thấy rằng Thiên Chúa yêu thương mình, đừng sợ yêu: đức tin được
tuyên xưng bằng miệng và bằng con tim, bằng những lời nói và bằng tình yêu.
Sau những lần hiện ra
với các phụ nữ, thì Chúa cũng hiện ra với những người khác: Chúa Giêsu hiện
diện một cách mới mẻ: Người là Đấng Chịu Đóng Đinh, nhưng thân xác Người được
vinh hiển; Người đã không trở về cuộc sống trần thế, nhưng đã trở lại trong một
điều kiện mới. Lúc đầu họ không nhận Người, và chỉ qua những lời nói và cử chỉ
của Người mà đôi mắt của họ được mở ra: cuộc gặp gỡ Chúa Phục Sinh biến đổi,
ban một sức mạnh mới cho đức tin, một nền tảng không thể lay chuyển nổi. Đối
với chúng ta cũng có nhiều dấu chỉ mà Đấng Phục Sinh làm cho chúng ta nhận ra
Người: Thánh Kinh, Thánh Thể và các bí tích khác, đức bác ái, những cử chỉ ấy
của tình yêu mang lại một tia sáng của Đấng Phục Sinh. Chúng ta hãy để cho mình
được soi sáng bởi việc Phục Sinh của Đức Kitô, hãy để cho mình được biến đổi
bởi quyền năng của Người, để rồi qua chúng ta, trong thế gian, những dấu chỉ
của sự chết nhường chỗ cho những dấu chỉ của sự sống.
Tôi thấy có rất nhiều
người trẻ ở quảng trường. Kìa họ ở đó! Với các con cha nói: các con hãy nói lên
sự chắc chắn này: Chúa đang sống và Người đi bên cạnh chúng ta trong cuộc sống.
Đây là sứ vụ của các con! Hãy đi bày tỏ niềm hy vọng này. Hãy cột chặt vào neo
hy vọng này: cái neo này là cái neo ở trên trời; hãy giữ chặt dây, hãy cột chặt
vào neo và nói lên niềm hy vọng. Các con, những nhân chứng của Chúa Giêsu, hãy
đi nói lên lời chứng rằng Chúa Giêsu đang sống và điều này sẽ cho chúng ta niềm
hy vọng, sẽ đem lại hy vọng cho thế giới này là thế giới đã một phần nào đó trở
nên già nua vì chiến tranh, sự dữ và tội lỗi. Hỡi người trẻ, hãy tiến lên!