BÀI THUYẾT TRÌNH 3A: VAI TRÒ CỦA CỘNG
ĐOÀN TRONG VIỆC DẠY GIÁO LÝ
(giaolyductin.org 10/08/11, 11:11 am)
Thuyết trình viên : Lm Antôn Trần Văn
Trường (Đà Nẵng)
Dạy Giáo lý nằm
trong sứ mệnh Chúa trao cho Giáo Hội, qua các Tông Đồ, đó là: Đi rao giảng Tin
Mừng … làm Phép Rửa… và dạy giữ những điều Chúa truyền… (Mc 16, 15-16 ; Mt
28,24).
Có người dựa vào câu
này để phân chia 3 sứ mệnh của Giáo Hội :
- Sứ mệnh Sứ ngôn
- Sứ mệnh Phụng Tự
(Tư tế)
- Sứ mệnh Lãnh Đạo
Hợp với 3 tước vị
của Chúa Kitô: Tiên tri, Thượng Tế và Vua. Giáo hội là Alter Christus.
Phân chia ra để tìm
hiểu cho rõ thôi. Còn trong đời sống, 3 Sứ Mệnh đó liên kết chặt chẽ với nhau
đến nỗi không thể tách rời. Cũng như 3 tước vị trên đều thuộc về một con người,
Đức Giêsu Kitô. Và 3 mệnh lệnh Ngài truyền vẫn là một.
Dạy Giáo Lý là thi
hành sứ mệnh này: Rao giảng Tin Mừng đưa đến Bí Tích Rửa Tội và quyết sống
theo Tin Mừng. Bí Tích Rửa Tội đưa đến kết quả là “Một tạo vật mới được
sinh ra” (Gl 6,15) (tái sinh bởi Nước và Thánh Thần) cho Nước trời, là Giáo
Hội, mà chính Chúa Kitô đã lập.
Đối với người rửa
tội rồi, thì đừng quên đời sống Công giáo là trung thành với phép Rửa tội; và
các bí tích khác (chỉ được lãnh sau phép Rửa tội) có thể nói là “tiếp nối” bí
tích Rửa tội, hoặc “bổ túc”, “nuôi dưỡng”… Thần học của Giáo Hội nhất là sau
Vatican II, đã cho thấy “tầm vóc” của bí tích Rửa tội bao quát cả đời sống nên
thánh của Kitô hữu thế nào. BHDTQ cũng phản ảnh điều đó rất rõ! Quả thật, lời
hứa từ bỏ ma quỷ đi theo Chúa Kitô mà trong nghi lễ Rửa tội xưa được thể hiện
không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cử điệu đang quay về phía Tây nhổ
nước miếng vào ma quỷ, rồi quay hẳn về phía Đông phía mặt trời nguồn ánh sáng
để tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Kitô. Cử chỉ hành vi đó phải kéo dài suốt đời
sống Kitô hữu bằng một tiếng rất xưa “cuộc chiến đấu thiêng liêng”, mà giáo lý
phải chỉ ra và hộ chiến.
Như vậy kết thúc
việc dạy Giáo Lý là gia nhập cộng đoàn Giáo Hội, để rồi cùng Giáo Hội, trong
Giáo Hội tiếp tục thi hành mệnh lệnh Chúa trao. Dạy Giáo Lý đưa đến
truyền giáo là thế!
Bây giờ chúng ta thử
“nhìn vào bên trong” (INSIDE)
1. Cộng đoàn
dạy Giáo Lý: Giáo Hội là cộng đoàn những người tin
và sống Tin Mừng, nên mỗi thành phần trong Giáo Hội đều cho trách nhiệm (dĩ
nhiên là khác nhau) thi hành Mệnh Lệnh “rao giảng Tin Mừng của Chúa”. Trong đời
sống thực tế của con người tín hữu từ khi sinh ra, cộng đoàn đã làm gì?
Tiếng nói đầu tiên
“Lạy Chúa” là do mẹ dạy. Rồi “Lạy Chúa” cúi đầu cũng do mẹ dạy! Mẹ còn lấy tay
giúp con cúi đầu cung kính.
Buổi đọc kinh đầu
tiên trong gia đình. Dự lễ đầu tiên trong Giáo xứ … Buổi học Giáo lý đầu tiên
do anh chị trong Giáo xứ dạy……Rồi hội đoàn…Sinh hoạt…Lãnh Bí Tích …. Học hỏi….
Hội họp… Tham gia đời sống cộng đoàn!...Tất cả đều là do Cộng đoàn.
Đời sống thực tế của
con người tín hữu là sống trong và cho một cộng đoàn : gia đình, Giáo xứ, Giáo
phận, Giáo hội.
2. Cộng đoàn là
môi trường dạy, học và sống Đức Tin (Dạy Giáo Lý) : Ngày nay người ta nói nhiều về môi trường sống : ô nhiễm môi
trường, làm sạch môi trường…
Không thể sống lành
mạnh trong một môi trường bị ô nhiễm, ô nhiễm đủ kiểu : ô nhiễm mạch nước ngầm
(làng ung thư) ô nhiễm do khí thải (nhà máy xả khí độc) ô nhiễm phóng xạ (nhà
máy nguyên tử bị sự cố).
Đời sống Đức tin Kitô Giáo hiện nay bị đe dọa thế nào do ô
nhiễm… chúng ta đã nghe.
Ở đây chúng ta chỉ
muốn lưu ý đến khía cạnh: không thể dạy Giáo lý độc lập với cộng đoàn. Nói cách
khác cả cộng đoàn phải tham gia vào việc dạy Giáo Lý. Vì dạy Giáo Lý là dạy
sống Đức tin chứ không phải chỉ dạy một lý thuyết! Đối với trẻ nhỏ, thanh thiếu
niên, tuổi dễ bị tác động bởi môi trường sống, càng cần phải lưu tâm!
Lành mạnh hóa môi
trường sống tức cộng đoàn, là điều thiết yếu của việc dạy Giáo Lý.
Một cộng đoàn bị ô
nhiễm khi đời sống luân lý, đạo đức quá bết bát! Hay quá nguội lạnh!
Cảnh “trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược”: ở nhà thờ, Giáo xứ, nghe Lời Chúa, về gia đình sống hoàn
toàn ngược lại!
Hay chỉ đơn giản là
trong Giáo xứ không kiếm ra Giảng viên Giáo Lý vì thanh niên nam nữ quá kém
cỏi. Mà giảng viên Giáo Lý ở ngoài Giáo Xứ thì làm sao biết được các em trong
giáo xứ, gia đình các em… không biết các em mình dạy, thì dạy làm sao cho có
kết quả ?
Vấn đề ba má đỡ đầu
rửa tội, Thêm Sức cũng lâm vào ngõ cụt! Chả nhẽ cứ mãi mãi một số ít, rất ít,
ông bà làm vú bọ (ba má đỡ đầu).
Tệ nhất là các tân
tòng mới rửa tội, tâm hồn còn trong trắng từ giếng nước Thanh Tẩy…”bị” gia nhập
vào một cộng đoàn đầy ô nhiễm!!... Vài nơi, trong những giáo xứ lớn, người ta
lập một “cộng đoàn đón tiếp tân tòng” gồm một số đại diện đầy đủ, già
trẻ, đàn ông đàn bà, có đời sống đạo tương đối tốt ! Thế nhưng chả nhẽ duy trì
“cộng đoàn tiêu biểu” này mãi! Rồi tinh thần “Biệt phái”rình rập!!...
Tuy nhiên ô nhiễm về
luân lý, đạo đức, có thể Lời Chúa nói: “Hãy nghe lời chúng nói nhân danh
Maisen…, nhưng đừng bắt chước việc chúng làm”, sẽ hóa giải được! ...Hoặc những
thành phần có bản lĩnh vững chắc có thể sống “độc lập” với ảnh hưởng xấu.
Điều đáng lo ngại
hơn đó là chính đời sống gọi là đạo đức của cộng đoàn! Một đời sống đạo bị “dị
dạng”, cái chính trở thành cái phụ! Một phần phát triển quá cỡ đến át cả toàn
thể: Mũi quá to sẽ biến khuôn mặt ra dị dạng đáng sợ !!...
Điều mà Công Đồng
Vatican II kêu gọi phải trở “Về Nguồn”. Nguồn Lời Chúa được ghi chép một cách
vô ngộ trong Thánh Kinh ! vì theo dòng thời gian những thứ “biến dạng” …đã xâm
nhập vào đời sống Giáo Hội !... Trong số đó phải kể các thứ “mạc khải tư”,
những tôn sùng nặng về tâm tình tư riêng, có thể tốt cho bản thân, nhưng không
tốt cho mọi người! Nhất là khi những thứ “tư riêng” đó lấn át những điều căn
bản chính yếu của Lời Chúa!
Sách “Hướng Dẫn tổng
quát” đã nhắc đi nhắc lại một cách tích cực, dưới nhiều phương diện điều quan
trọng này qua những đoạn nói về “Phúc Âm hóa”, “việc rao giảng Tin Mừng”, “Tinh
thần Giáo lý dự tòng thời Giáo Hội Sơ Khai” (số 35), nói tới cả “Lời Rao Giảng”
tiên khởi (Kérygma) (số 62), đặc biệt mục nói về “Giáo Lý Khai tâm” (Số 72,
258).
3. Cộng đoàn
tham gia việc dạy Giáo lý thế nào? Sách HDTQ đã
kể ra rất rõ ràng, tỉ mỉ nữa: Từ Giáo Hội hoàn vũ, đến Giám Mục Giáo phận, Linh
mục, Tu sĩ nam nữ, Giáo dân; từ quốc tế đến quốc gia, Giáo phận, Giáo xứ, Hội
đoàn, gia đình.
Nhưng đặc biệt lưu
tâm đến một thành phần của cộng đoàn, do cộng đoàn: đó là các Giáo lý viên,
không chuyên nghiệp và chuyên nghiệp.
Đối với thành phần
không chuyên nghiệp (dạy một thời gian, tham gia một phần) sách HDTQ lưu ý đến
nhu cầu đào tạo ít là vắn hạn nhưng thích hợp. Có thể nghĩ tới những khóa đào
tạo một tuần, 10 ngày, hằng năm trong giáo xứ hay liên giáo xứ, có thể cả Giáo
phận. Mời các Giảng viên trong Giáo Phận, ngoài Giáo phận đến dạy.
Rất thường các Cha
xứ thường kêu gọi ngang nhiên một số thanh niên thiếu nữ đạo đức, siêng đi nhà thờ…
làm Giáo lý viên. Cứ nghĩ rằng các em đó đạo đức, thế là đủ! Sách HDTQ nêu ra
đủ thứ cần bồi dưỡng: Tâm lý, sư phạm, học thuyết của Giáo Hội, nhân bản… Ấy là
chưa nói tới chính nền tảng Giáo lý của các em đó, có đáp lại được những điều
căn bản của Lời rao giảng Tin Mừng chưa?
Giảng viên chưa nắm
vững, chưa sống đúng Tin Mừng, thì làm sao dạy các em nhỏ chính xác và kết quả
được. Một nhận định của “Phong trào rao giảng” (mouvement Kérygmatique) phát
xuất từ
Đối với Giảng viên
giáo lý chuyên nghiệp.– (Một điều kiện rất cần cho việc dạy Giáo lý có thực
chất và bền vững) – bản HDTQ đề cập đến các trường đào tạo chuyên nghiệp từ cơ
sở đến đại học, cấp quốc gia, cấp quốc tế.
Tuy nhiên, đi vào cụ
thể thực tế, nếu ban bệ đủ cấp, văn phòng đủ kiểu mà không có lấy một chương
trình giáo lý cụ thể, khả thi và đầy đủ,
thì tất cả chỉ là lý thuyết, là cơ chế không hiệu quả! Nói theo hình ảnh Thánh
Kinh: “cây vả tươi tốt, lá cành xum xuê, mà đến tìm quả thì lại không có!”
Nói một chương trình
“cụ thể”,
nghĩa là có thể mang ra dạy, học ngay! Tuy nhiên vẫn không phải là thứ “Giáo lý
mì ăn liền” hay “Giáo lý lá cải”….
“Khả thi”
bởi vì có nhiều chương trình nhìn qua thấy hay, hấp dẫn nữa! Nhưng khi đưa vào
dạy, mới thấy là các em nuốt không nổi! Còn giảng viên thì thấy không thể dạy
hết được, vì ôm đồm quá nhiều!… Rồi còn không có chỗ cho phần của giảng viên
(!), giảng viên chỉ là một thứ “máy nói”!.... Chúng ta biết trong lớp Giáo lý,
giảng viên phải là “nhân chứng” cho điều mình nói! Qua con người giảng viên,
các em như được mời gọi, “lôi kéo”, sống Lời Chúa, đưa Lời Chúa vào đời sống
thực tế.
“Đầy đủ”:
cần phân biệt nhiều thứ đầy đủ! Đầy đủ kiểu máy móc vô hồn, khác với đầy đủ của
vật sống! Chúa ví Nước Trời như hạt cải nhỏ lớn lên thành cây to! Cây cải đầy
đủ từ trong hạt nhỏ, đầy đủ theo kiểu “trứng nước”, nhưng là đầy đủ! Và trăm
phần trăm là cây cải chứ không phải là cây khác!
Một chương trình
giáo lý đầy đủ phải có sự thuần nhất và tiệm tiến từ lớp nhỏ Mẫu giáo cho đến
con người trưởng thành trong đức tin, dù người đó là nhà bác học hay nông dân.
Tin Mừng Kitô giáo
là cho mọi người và mọi người đều có thể và phải sống trọn vẹn đức tin Kitô
giáo (Ơn gọi nên thánh là ơn gọi cho mọi Kitô hữu)
Trở lại với ý tưởng
“cụ thể”, vì nói nguyên tắc chung thì dễ và nói mãi cũng được “Cụ thể” là cái
gì cầm trong tay và có thể xử dụng ngay: “dạy” và “học” theo. Chúng ta có 2 ví
dụ của Giáo Hội:
* Kinh “Tin Kính Dân
Chúa” của Đức Phaolô VI
* Sách Giáo lý cho
toàn Giáo Hội 1992
Một bản tóm tắt
chính thức và theo ngôn ngữ thời nay, những điều Giáo Hội Công Giáo tin.
Và một Sách Giáo lý
đầy đủ những gì GHCG tin và sống hiện nay trong thế giới đang phát
triển, thuận và không thuận này.
Đối với GHVN cũng
cần hai thứ đó.
* Một quyển giáo lý
hỏi thưa vắn gọn chính thức của Hội đồng Giám Mục Việt Nam kiểu như Đức Cha
Nghi đã làm (sách Giáo lý Tân Định sửa đổi), điều mà GHVN đang làm .
* Một bộ giáo lý đầy
đủ cho mỗi năm từ tiểu học đến hết trung học có thể gọi là giáo lý phổ thông
cho mọi người tín hữu:
Tiếp theo là giáo lý
cho cấp sau Trung học (sau trình độ phổ thông) mà bản HDTQ nói tới khi nói về
Giáo lý cho các trường Công giáo: Giáo lý phải “thâm nhập vào môi trường, văn
hóa, và liên hệ với những lãnh vực kiến thức khác… giúp hiểu biết về nguồn gốc
thế giới, ý nghĩa lịch sử, nền tảng cho các giá trị đạo đức, vai trò tôn giáo
trong văn hóa, định mệnh con người và tương quan với thiên nhiên” (số 73).
Nhận định của bản
HDTQ làm ta liên tưởng tới cái nhìn của Cha Teilhard de Chardin: thế giới tiến
hóa qua 3 bước quyết định: Cosmogénèse (phát sinh vũ trụ), biogénèse (phát sinh
sự sống) noosgénèse (phát sinh trí tuệ) và bây giờ đang trong giai đoạn cuối :
trí tuệ “đấu tranh” trong cuộc xô xát vĩ đại để tìm về Chân Thiện Mỹ là Thiên
Chúa Đấng Tạo Dựng ! Cái nhìn Teilhardienne này đã làm say mê bao nhiêu nhà trí
thức đến nỗi lập cả viện cao học để nghiên cứu… và gọi Cha Teilhard là một Tiên
Tri nói ngôn ngữ khoa học… Điều thật thú vị là chính Cha Teilhard thú nhận là
đoạn Ep 1,3-14 đã là nguồn cảm hứng cho Ngài !!....
Một chương trình GL
cho Thanh Niên Đại Học, theo gợi ý của bản HDTQ trên, rất có thể đi từ nguồn
cảm hứng này.
Quả thật, có thể nói
là sau Trung học, con người có ý thức về tương lai đời sống của mình trong xã
hội loài người, nên cố chọn cho mình một vai trò trong xã hội bằng cách học
chuyên một ngành (trong Đại học, cao học, chuyên nghiệp). Con người tự nhiên
phát triển cho mình một cách “nhìn đời”, một nhân sinh quan. Giáo lý Kitô giáo
phải cho họ một cái nhân sinh quan bao quát và sâu xa nhất đó là cái nhìn
của chính Đấng Tạo Dựng, được mặc khải rõ ràng và dứt khoát trong Đức Giêsu
Kitô. Chính lúc này là lúc mầu nhiệm của Đức Kitô phải được làm sáng tỏ đầy đủ và
sâu xa nhất! Đời sống mỗi con người và qua con người đến xã hội sẽ lệ thuộc vào
cái “nhân sinh quan” này! Giáo lý đúng đắn đóng vai trò quyết định.
Sau giai đoạn “học
sinh” tiểu trung học, “sinh viên” (đại học, cao học chuyên nghiệp), con người
bước sang giai đoạn thực hành (thực hiện những gì đã học) Giáo lý không còn
“dạy” nữa mà là “cố vấn, đồng hành” ! Giáo lý không có chương trình, mà chỉ có
trao đổi, giải đáp… và sẽ thực hiện công việc này cho đến mãn đời sống con
người. Đúng là “học Giáo Lý” cho đến chết!
Kết: Hội Đồng Giám Mục, GM Giáo Phận lãnh đạo cộng đoàn đưa ra một
chương trình vắn tắt (hỏi thưa căn bản) và một chương trình đầy đủ cho suốt
thời gian phát triển đời sống con người bình thường!
Việc áp dụng cho mỗi
nơi, mỗi trường hợp, sẽ linh động theo khả năng! Khả năng con người (dạy và
học)! Khả năng hoàn cảnh sống (giầu nghèo, sống rải rác hay tập trung thành phố
hay thôn quê v.v….).
Điều quan hệ là có
“cầu” thì có “cung” và “cung” bảo đảm lành mạnh, đúng mức!
Trên đây cũng là một
trình bày cụ thể và đề nghị “cụ thể”!
Xin cám ơn Đại Hội
đã lắng nghe!