GIÁO HỘI KITÔ, BÍ TÍCH CỦA ƠN SIÊU ĐỘ
(giaolyductin.org08/03/13, 7:56 pm)
Để có thể nắm bắt được vấn đề nầy, có 3 vấn đề cần phải giải quyết
:
(1) Về hạn từ
và khái niệm “Bí Tích”;
(2) Về khái
niệm “Siêu Độ”;
(3) Giáo Hội,
Thân Mình của Đức Kitô, Bí Tích của Ơn Siêu Độ.
I- VỀ HẠN TỪ VÀ KHÁI NIỆM BÍ TÍCH
Từ Điển của Paulus Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1896, định nghĩa
hạn từ Bí Tích là “DẤU NHIỆM”, nhằm phản ảnh hạn từ Hy ngữ “mysterion” mà đã
được La ngữ chuyển dịch ra thành hai hạn từ : a) “sacramentum” (= serment), để
được gia nhập vào một tổ chức hay một hội kín nào đó, người ta phải có lời cam
kết thề nguyền qua một nghi thức nào đó với những cử chỉ được qui định nào đó ;
b) “mysterium”, là một mầu nhiệm tôn giáo (“mysterium”), tức là một dấu chỉ
linh thánh dẫn đưa người ta đến được một thực tại ẩn dấu nào đó…
Trong Tân Ước, trong cùng lúc vừa có nghĩa đó là hành vi tiết lộ
một bí mật (mysterium) [“Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai
biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ
người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” (Lc 10, 22)]; vừa có
nghĩa đó là kế đồ bí mật của Thiên Chúa (sacramentum) [“Đức Giêsu đáp : ‘Bởi
vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.”
(Mt 13, 11)].
Nơi Phaolô, Bí Tích được hiểu như là mặc khải một mầu nhiệm. Khái
niệm bí tích ở đây đề cao sự hiểu biết và, vì thế, đề cao sự hiện thực hóa, sự
hoàn tất kế đồ của Thiên Chúa.
- Ep 1, 9 : “Ngài cho ta được biết thiên ý nhiệm
mầu: thiên ý nầy là kế hoạch yêu thương Ngài đã định từ trước trong Đức Kitô.”
- Ep 3, 9 : “… và soi sáng cho mọi
người được thấy đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài. Mầu nhiệm nầy đã được
giữ kín từ muôn thưở nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật.”
Khởi đi từ thế kỷ IV scn, cùng với Justinô và Augustinô, cả hai từ
đó đều nhằm để diễn đạt một thực tại mà thôi : “kế đồ vĩnh hằng và thần linh
được tỏ bày và được hiện thực nơi chính ngôi vị Đức Giêsu” (Justinô); “mầu
nhiệm của Thiên Chúa không là gì khác ngoài Đức Kitô” (Thánh Augustinô).
Thế kỷ XII, Hugues de Saint Victor ghi dấu ấn của mình trong lịch
sử thần học bí tích với việc ấn định ba yếu tố cấu thành bí tích : “Bí tích
phải có đặc tính là một dấu chỉ, được thiết lập bởi Đức Kitô, thánh hóa qua ân
sủng mà nó mang trong mình”.
“Việc sử dụng từ bí tích để chỉ “bảy” bí tích chỉ mới xuất hiện
ở thế kỷ XII. Từ bí tích ngày càng được dành để chỉ riêng 7 thực tại liên quan
đến bảy bí tích mà thôi, đến độ làm lu mờ đi chính sự kiện tạo ra nền
tảng cho bảy bí tích nầy, đó là vai trò mang tính bí tích của Ngôi Lời nhập thể
và Giáo Hội.” (P. Woillez, 2009, Mystère et sacrement).
Về khái niệm Bí Tích, nói chung, Sách GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG
GIÁO (từ nay sẽ được viết tắt là GLHTCG) sử dụng lại quan điểm của Justinô và
Thánh Augustinô : “Từ mysterion trong tiếng Hy Lạp được
dịch sang tiếng La tinh bằng hai từ là mysterium (mầu nhiệm)
vàsacramentum (bí tích).. Trong cách giải thích về sau nầy,
từ sacramentum (bí tích) diễn tả dấu chỉ hữu hình của thực tại
ẩn dấu của ơn cứu độ, thực tại ẩn dấu đó được diễn tả bằng từmysterium (mầu
nhiệm). Theo nghĩa nầy, chính Đức Kitô là mầu nhiệm của ơn cứu độ : ‘Mầu nhiệm
của Thiên Chúa không là gì khác ngoài Đức Kitô’.” (GLHTCG, 774).
“Công trình siêu độ do nhân tính thánh thiện và có sức thánh hóa
của Đức Kitô thực hiện là bí tích của ơn siêu độ. Bí tích nầy được biểu lộ và
hoạt động trong các bí tích của Giáo Hội (mà các Giáo Hội Đông phương cũng gọi
là các ‘mầu nhiệm thánh’). Bảy bí tích là những dấu chỉ và là những dụng cụ
Chúa Thánh Thần dùng để tuôn đổ ân sủng của Đức Kitô là Đầu, trên Giáo Hội là
là Thân Thể của Ngài. Như vậy, Giáo Hội chứa đựng và truyền thông ân sủng vô
hình mà mình là dấu chỉ. Trong ý nghĩa loại suy nầy, chính Giáo Hội được gọi là
một ‘bí tích’.” (GLHTCG 774).
II- VỀ KHÁI NIỆM “SIÊU ĐỘ”
Khi khẳng định “Chính Đức Kitô là mầu nhiệm của ơn siêu độ”
(GLHTCG, 774), Sách GLHTCG cho chúng ta thấy toàn bộ con người và cuộc đời của
Đức Giêsu-Kitô là mầu nhiệm siêu độ. Như vậy, ơn siêu độ trong cùng lúc
vừa như là một Ngôi Vị mà con người cần có tương quan với (chính Đức
Giêsu-Kitô, Con và Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, và qua Ngài, với Thiên
Chúa-Ba Ngôi), vừa như là một Ân Sủng được ban cho (trong Đức Giêsu-Kitô, con
người được thông phần sự sống vĩnh hằng, tư cách là con Thiên Chúa và là anh em
của mọi người).
Vì thế, được siêu độ có nghĩa là được “ở trong Đức Giêsu-Kitô” và
được “Đức Giêsu-Kitô ở cùng với”, đến nỗi có thể nói được như Phaolô : “Tôi
sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20).
Để có thể cùng “tương ngụ” và “tương tại” (circumincescio) trong
nhau với Đức Giêsu-Kitô, con người cần phải tin yêu Ngài, bởi vì chỉ có tình
yêu mới có thể khiến cho người ta luôn hiện diện đối với nhau và “ở trong
nhau”.
“Tất cả những gì chính Ngài đã sống, Đức Kitô làm cho chúng ta
được sống những điều đó trong Ngài, và Ngài sống những điều đó trong chúng ta.
‘Khi nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã nên một với mọi người’
(Gaudium et Spes, 22). Chúng ta được kêu gọi nên một với Ngài; chính Ngài làm
cho chúng ta, với tư cách là những chi thể của Thân Thể Ngài, được hiệp thông
với những gì Ngài đã sống trong thân thể Ngài vì chúng ta và nên như mẫu mực
cho chúng ta.” (GLHTCG 521).
“Nếu bí tích là hành vi làm cho mầu nhiệm hay kế đồ của Thiên
Chúa-Ba Ngôi trở nên hiện thực, thì Đức Kitô là bí tích duy nhất của Thiên
Chúa. /…/ Đức Kitô là sự tỏ bày ơn siêu độ cách hữu hình nơi
trần gian. Con người cụ thể đó, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã được Cha đồng ý
chọn như là cửa ngõ tiếp cận duy nhất với thực tại siêu độ; Ngài là Đấng trung
gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người /…/ Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Đức
Kitô đã làm cho Thánh Ý Siêu Độ của Cha trở nên hiện thực và
hiện diện trong thế gian nầy : Ngài tỏ bày cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối
với loài người và tình yêu của con người đối với Thiên Chúa. /…/ Mầu nhiệm tình
yêu của Đức Kitô đối với Cha là nền tảng chắc chắn của sự thông ban ân sủng.
Đức Kitô phải thần linh hóa và canh tân đổi mới cách hoàn toàn toàn thể nhân
loại, cho đến ngay cả thực tại thân xác của nó.” (P. Woillez).
III- GIÁO HỘI, THÂN MÌNH CỦA ĐỨC GIÊSU-KITÔ, BÍ
TÍCH CỦA ƠN SIÊU ĐỘ :
Ở đây, chúng tôi sẽ cố gắng tiếp cận vấn đề từ ba góc độ : a) Đức
Giêsu-Kitô là Đấng siêu độ duy nhất và phổ quát; b) Giáo Hội là Thân Mình của
Đức Giêsu-Kitô; c) Giáo Hội là bí tích của ơn Siêu Độ của Đức Kitô.
III.1 - Đức Giêsu-Kitô, Đấng Siêu Độ duy nhất và phổ quát:
Tuyên ngôn DOMINUS JESUS của Bộ Giáo Lý Đức Tin ban hành ngày 6
tháng 8 năm 2000 đã viết :
“Phải xác tín vững vàng,
như một yếu tố kiên định trong đức tin của Giáo Hội, chân lý về Chúa Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa và là Đấng Cứu độ độc nhất, Đấng qua biến cố nhập
thể, tử nạn và phục sinh của mình, đã hoàn thành lịch sử cứu độ, trong đó, Ngài
chính là sự sung mãn và là tâm điểm.” (Dominus Jesus, số 13).
“Do đó, phải xác tín vững
vàng điều nầy như một chân lý thuộc đức tin công giáo, đó là ý muốn cứu độc phổ
quát của Thiên Chúa Duy nhất và Ba Ngôi được ban tặng và hoàn tất một lần là đủ
trong mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa.” (Dominus
Jesus, số 14).
Và Tuyên Ngôn gửi tới các nhà thần học lời nhắn nhủ nầy :
“Khoa thần học ngày nay được mời gọi, trong khi suy tư về sự
hiện hữu và về ý nghĩa của những kinh nghiệm tôn giáo khác trong chương trình
cứu rỗi của Thiên Chúa, hãy ghi nhớ định thức đức tin nầy và khám phá xem những
dạng thức lịch sử và các yếu tố tích cực của các tôn giáo có nằm trong chương
trình cứu rỗi của Chúa hay không và bằng cách nào.” (Dominus Jesus, số 14).
Vấn đề, quả thực, không đơn giản chút nào.
Ở đây, trong tư cách một người con của Giáo Hội, chúng tôi mạo muội
chia sẻ với quí vị một vài suy tư mang tính gợi ý sau đây của mình :
Trong tư cách vừa là Nguyên Lý, vừa là Trung Gian, vừa là Cùng đích
của toàn thể Thụ Tạo, đặc biệt, con người (hay loài người), Đức Giêsu, Con và
là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, chính là Nguyên Lý, là Trung Gian và là Cùng
Đích của toàn thể nhân loại (humanité), hiểu theo nghĩa cá nhân cũng như tập
thể.
1- Trên cơ sở mầu nhiệm Sáng Tạo: khi nói con người
được tạo dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 26-27), thế mà hình ảnh Thiên
Chúa chính là Đức Giêsu-Kitô (Cl 1, 15; 2 Cr 4, 4), điều nầy, vì thế, có nghĩa
Nguyên Lý hiện hữu và Cùng Đích phải hoàn thành của con người không chỉ là trở
nên giống như Đức Giêsu-Kitô mà còn là hiệp nhất nên một với Ngài và trong
Ngài…
2- Trên cơ sở mầu nhiệm Ngôi Hiệp: sự hiệp nhất toàn
thể nhân loại nên một với Đức Giêsu-Kitô và trong Ngài được dựa trên cơ sở mầu
nhiệm Ngôi Hiệp, tức là bởi vì nhân tính (humanité) của Đức Giêsu-Kitô là hiện
thân của toàn thể nhân loại mọi nơi và mọi thời, vì thế, khi nhân tính của Ngài
được siêu độ, hay được thần linh hóa qua biến cố Thập Giá (Chết và Phục Sinh),
điều đó có nghĩa toàn thể nhân loại mọi nơi và mọi thời đều được siêu độ, được
thần linh hóa, được giao hòa lại với Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô… Đó chính
là cơ sở cho thấy tại sao Giáo Hội công giáo trước sau như một vẫn khẳng định
Đức Giêsu-Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất và phổ quát giữa Thiên Chúa và loài
người và ngược lại, giữa loài người và Thiên Chúa, hay nói cách khác, là Đấng
Siêu Độ duy nhất và phổ quát…Và điều đó còn cho thấy tình yêu nhưng không, vô
điều kiện, vô vị lợi và vô biên của Thiên Chúa đối với các thụ tạo, đặc biệt,
con người, nơi Đức Giêsu-Kitô, Con và Ngôi Lời Thiên Chúa làm người của Ngài…
III.2 - Giáo Hội, Thân Mình của Đức Giêsu-Kitô
Có thể nói rằng về tương quan giữa Đức Giêsu-Kitô và Hội Thánh,
Thánh Phaolô là tác giả có nhiều đóng góp suy tư độc đáo và sâu sắc nhất.
Về tương quan giữa Đức Kitô Giêsu và Giáo Hội, Thánh Phaolô sử dụng
hai hình ảnh khá độc đáo : a) Giáo Hội là Thân Thể (hay Thân Mình) của Đức
Giêsu-Kitô (Ep 1, 23; Cl 1, 18.24) ; b) Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Kitô (2 Cr
11, 2; Ep 5, 25-29; 21, 9).
III.2.A – Giáo Hội là Thân Mình của Đức Kitô Giêsu:
Khi sử dụng hình ảnh nầy, có vẻ như Thánh Phaolô trong cùng lúc
muốn nhấn mạnh vừa sự khác biệt giữa nhau vừa sự liên kết hiệp nhất nên một,
như tương quan giữa các chi thể của cùng một thân thể.
Về vấn đề nầy, Tuyên Ngôn DOMINUS JESUS sử dụng một số hạn từ mang
hơi hám mầu nhiệm ngôi hiệp :
“Chúa Kitô và Giáo Hội không thể lẫn lộn với nhau, cũng không
thể phân ly nhau, và tạo thành một “Chúa Kitô toàn thể” (Dominus Jesus, số
16).
“Không thể lẫn lộn với nhau”, bởi vì đó là hai thực thể khác
biệt nhau : Đức Kitô và Giáo Hội. “Cũng không thể phân ly nhau”’ bởi vì Đức
Kitô và Giáo Hội hiệp nhất với nhau nên một.
“Đức Kitô cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh”
(Cl 1, 18).
“Mà Hội Thánh là thân thể của Đức Kitô, là sự viên mãn của Ngài,
Đấng làm cho tất cả được viên mãn.” (Ep 1, 23).
Ngoài ra, khi gọi Giáo Hội là thân mình của Đức Kitô, trong đó Đức
Kitô là “đầu”, có lẽ Thánh Phaolô còn muốn cho thấy có một sự hiệp nhất không
chỉ trên cơ sở tương quan mà còn có cái gì đó trên cơ sở “ngôi vị” (personne),
điều mà tuyên ngôn DOMINUS JESUS gọi cách mơ hồ là “Chúa Kitô toàn thể”
(Dominus Jesus, số 16).
Để bổ sung cho những hình ảnh nầy, Thánh Phaolô còn dùng hình ảnh
phu-thê để diễn tả tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và Hội Thánh.
III.2.B – Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Kitô Giêsu:
“Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi
đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng anh em cho
Ngài như một trinh nữ thanh khiết.” (2 Cr 11, 2).
Trên cơ sở St 2, 24 : “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn
bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt (hay một thân xác)”,
Thánh Phaolô đã có những suy tư táo bạo và độc đáo về tương quan giữa chồng-vợ
và giữa Đức Kitô và Hội Thánh :
“Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải
tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như
chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh…Cũng thế, chồng
phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có
ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân
xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ
phận trong thân thể của Ngài. Sách Thánh có lời chép rằng : Chính vì thế, người
đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một thân xác.
Mầu nhiệm nầy thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.” (Ep
5, 24-25.28-32).
Khi nói “Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình” hay “yêu vợ
là yêu chính mình”, Thánh Phaolô làm vọng lại điều mà Đức Giêsu đã nói về tương
quan giữa con người với nhau (Mc 12, 33; Mt 19, 19), và về tương quan giữa Đức
Giêsu-Kitô và mọi người (xem Mt 25, 40.45). Để có thể cả hai đều “là mình” như
thế, cũng như trong mầu nhiệm ngôi hiệp, có hai hành vi diễn ra : a) từ phía Đức
Kitô, đó là sự thông truyền cho nhau (communications) và sự nhận nhau là mình
(appropriations); b) từ phía con người, đó là sự đón nhận (reception)…
III.2.C – Những hành vi thông truyền cho nhau (communications)
và nhận nhau là mình (appropriations):
Khi nhận nhau là mình, Đức Kitô Giêsu thông truyền cho các thụ tạo
những yếu tố đặc thù riêng của Ngài, vốn là Thiên Chúa, và nhận những yếu tố
đặc thù của các thụ tạo làm của mình, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4, 15) : đó là
những hành vi thông truyền cho nhau những yếu tố đặc thù giữa các đối tác trong
tình yêu (communication des idiomes).
Đối tượng của những hành vi nầy có thể là :
1- Một sự vật tầm thường, như tấm bánh miến và chén rượu nho,
trong Bí tích Thánh Thể :
“Và đang lúc họ ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, chúc tụng, rồi bẻ ra
và ban cho họ và nói : ‘Hãy cầm lấy ! Nầy là Mình Thầy’. Đoạn cầm lấy chén, tạ
ơn, Ngài ban cho họ và họ uống chén ấy hết thảy. Và Ngài nói với họ : ‘Nầy là
Máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì nhiều người…” (Mc 14, 22-24; xem thêm Mt
26, 26-29; Lc 22, 19-20; 1 Cr 11, 23-26).
2- Một kẻ đi theo Ngài, như một tông đồ hay một môn đệ của
Ngài, trong Bí tích truyền chức và đặt tay :
“Kẻ tiếp đón các ngươi là tiếp đón Thầy; và kẻ tiếp đón Thầy là
tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10, 40; Mc 9, 37).
“Ai nghe các ngươi là nghe Thầy, và ai thảy bỏ các người là thảy
bỏ Thầy, mà ai thảy bỏ Thầy là thảy bỏ Đấng đã sai Thầy.” (Lc 9, 16).
“Đức Giêsu nói với ông Phêrô : ‘…Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết
: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của
Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa
Nước Trời : dưới đất, anh cầm buộc điều gì trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy;
dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” (Mt 16,
17a.18-19).
“…Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi
bẻ ra và nói : ‘Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em; anh em hãy làm việc nầy,
mà tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, sau bữa ăn, Ngài cầm lấy chén rượu và nói :
‘Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc
nầy, mà tưởng nhớ đến Thầy.” (1 Cr 11, 23b-25).
3- Tất cả mọi người :
“Đức Vua sẽ đáp lại rằng : ‘Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các
ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta vậy…Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi không
làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không
làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25, 40.45).
Cũng như trong Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô Giêsu nhận tấm bánh là
Thịt của mình và nhận chén rượu là Máu của mình, hay trong Bí tích Truyền chức,
Ngài nhận ai đó là mình, cũng vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, Ngài nhận mọi chi
thể là mình : đó là những hành vi nhận nhau là mình giữa Đức Kitô và các thụ
tạo nói chung (appropriations).
Các hành vi “thông truyền cho nhau” và “nhận nhau là mình” nầy đều
là những hành vi phát xuất từ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Vấn đề của
các thụ tạo là đón nhận những ân huệ nhưng không đó của Thiên Chúa hay không và
như thế nào.
III.2.D – Sự đón nhận trong tự do từ phía con người:
Qua mầu nhiệm Thập Giá (chết và Phục sinh), thần tính và nhân tính
của Đức Giêsu-Kitô hoàn toàn hiệp nhất nên một trong Ngôi Vị Con, trong cùng
lúc toàn thể nhân loại trong nhân tính của Ngài, về mặt cấu trúc hữu thể học,
cũng được hiệp nhất với Ngài, được ở trong Ngài, được siêu độ, được hòa giải
lại với Thiên Chúa, với nhau và với mình. Đây là ân huệ hoàn toàn nhưng không
từ phía Thiên Chúa-Ba Ngôi.
“Công trình siêu độ do nhân tính thánh thiện và có sức thánh hóa
của Đức Kitô thực hiện là bí tích của ơn siêu độ. Bí tích nầy được biểu lộ và
hoạt động trong các bí tích của Giáo Hội (mà các Giáo Hội Đông phương cũng gọi
là các ‘mầu nhiệm thánh’). Bảy Bí tích là những dấu chỉ và là những dụng cụ
Chúa Thánh Thần dùng để tuôn đổ ân sủng của Đức Kitô là Đầu, trên Giáo Hội là
Thân Thể của Ngài. Như vậy, Giáo Hội chứa đựng và truyền thông ân sủng vô hình
mà mình là dấu chỉ. Trong ý nghĩa loại suy nầy, chính Giáo Hội được gọi là một
‘bí tích’.” (GLHTCG 774).
Vì là một đối tác tình yêu có tự do, nên con người có thể đón nhận
ân huệ nhưng không nầy như thế nào là tùy và điều đó sẽ tạo nên căn tính của
nó. Tuy nhiên, cũng như trong quan hệ phụ-tử, dù hoặc do không biết, hoặc do có
biết mà người cha có từ con hay người con có từ cha, thì quan hệ phụ-tử giữa họ
về mặt huyết tộc vẫn không có gì thay đổi. Trong tương quan của các thụ tạo nói
chung, và đặc biệt con người, với Thiên Chúa cũng vậy. Dù con người, với tự do
của mình, hoặc do không biết hoặc có ý từ khước hay phủ nhận Thiên Chúa và các
công việc của Ngài, thì các tương quan dựa trên cấu trúc hữu thể học giữa Thiên
Chúa và các thụ tạo vẫn không có gì thay đổi.
Vai trò của Giáo Hội, Thân Mình của Đức Kitô, ở đây, là làm sao để
cho người ta nhận biết được những điều đó, bằng lời rao giảng cũng như bằng
những hành động. Ơn đức tin của những người kitô-hữu, của Giáo Hội kitô, như
vậy, không hẳn chỉ là đặc ân, mà còn là một sứ vụ.
Đó chính là cơ sở cho việc Giáo Hội, Thân Mình của Đức Giêsu-Kitô,
là Bí tích của ơn Siêu độ.
III.3 – Giáo Hội, Thân Mình của Đức Kitô Giêsu, Bí tích của ơn Siêu
độ độc nhất và phổ quát:
Về vấn đề nầy, Tuyên ngôn DOMINUS JESUS viết :
“Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ độc nhất, không chỉ kiến tạo Giáo Hội
như một cộng đồng đơn giản gồm các môn đệ, nhưng đã thiết lập Giáo Hội là một
mầu nhiệm cứu rỗi : chính Ngài ở trong Giáo Hội và Giáo Hội ở trong Ngài (x. Ga
15, 1tt; Ga 3, 28; Ep 4, 15-16; Cv 9, 5). Do đó, sự sung mãn nơi mầu nhiệm cứu
rỗi của Chúa Kitô cũng thuộc về Giáo Hội, được liên kết bất khả phân ly với
Chúa của mình. Thật vậy, Chúa Giêsu-Kitô tiếp tục hiện diện và thực hiện công
trình cứu rỗi trong Giáo Hội và bằng các phương thế của Giáo Hội (x. Cl 1,
24-27), là thân thể của Ngài (x. 1 Cr 12, 12-13.27; Cl 1, 18).” (Dominus
Jesus, số 16).
Ở đây, có ba vấn đề cần được làm sáng tỏ : a) Đức Giêsu-Kitô “ở
trong” Giáo Hội và Giáo Hội “ở trong” Đức Giêsu-Kitô; b) Chúa Giêsu-Kitô tiếp
tục hiện diện và thực hiện công trình cứu rỗi trong Giáo Hội và bằng các phương
thế của Giáo Hội là thân thể của Ngài; c) Giáo Hội là sự Viên Mãn của Đức
Giêsu-Kitô.
III.3.A – Đức Giêsu-Kitô và Giáo Hội “ở trong nhau”:
Những khái niệm “ở trong nhau” không đon giản chỉ được hiểu qua
phạm trù không gian, mà đúng hơn cần phải được hiểu qua phạm trù tình yêu. Trong
lãnh vực tình yêu, những hạn từ nầy vốn đồng nghĩa với nhau : “là nhau”, “là
của nhau”, “hiện diện đối với nhau”, “hiện diện trong nhau”, “có nhau”, “ở
trong nhau”, v.v…
Khi viết : “Do đó như đầu và các thành phần của một thân thể
sống động, tuy không đồng nhất, nhưng không thể chia cắt nhau, thì cũng thế,
Chúa Kitô và Giáo Hội không thể lẫn lộn với nhau, cũng không thể phân ly nhau,
và tạo thành một “Chúa Kitô toàn thể”. Tính cách bất khả phân ly nầy cũng được
diễn đạt theo ý nghĩa loại suy trong hình ảnh Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa
Kitô (x. 2 Cr 11, 2; Ep 5, 25-29; 21, 9).” (Dominus Jesus, số 16), hẳn
Tuyên Ngôn muốn cho chúng ta hiểu tương quan giữa Đức Kitô và Giáo Hội trong
chân trời tình yêu đó.
Thật vậy, kinh nghiệm cho thấy khi người ta yêu nhau thực sự thì
người ta luôn hiện diện đối với nhau, luôn có nhau, luôn ở trong nhau, như dân
gian thường nói “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương
phùng.”. Đó là điều mà trong ngôn ngữ thần học về mầu nhiệm Ba Ngôi, các Giáo
phụ vẫn thường gọi là “circumincescio” (“tương tại trong nhau”) hay
“inhabitation réciproque” (“tương ngụ trong nhau”).
Thánh Phaolô đã diễn đạt được mối tương quan nầy cách tuyệt vời khi
nói : “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.”
(Gl 2, 20). Liệu Giáo Hội, Thân Mình của Đức Kitô cũng có thể nói : “Chúng tôi
sống, nhưng không còn là chúng tôi, mà là Đức Kitô sống trong chúng tôi” ?
III.3.B – Chúa Giêsu-Kitô tiếp tục hiện diện và thực hiện công
trình cứu rỗi trong Giáo Hội và bằng các phương thế của Giáo Hội là thân thể
của Ngài:
Khi nói về nhu cầu đối thoại liên tôn và truyền giáo, Tuyên
Ngôn DOMINUS JESUS viết :
“Trong nỗ lực đối thoại liên tôn, sứ vụ đến với muôn dân (ad
gentes) ‘ngày nay và luôn mãi vẫn còn hoàn toàn có hiệu lực và cần thiết’ (Ad
gentes, số 7). Thật vậy, ‘Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận
biết chân lý’ (1 Tm 2, 4); nghĩa là Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu
độ nhờ nhận biết chân lý. Ơn cứu độ được gặp thấy trong chân lý. Những ai vâng
theo sự thúc đẩy của Thánh Thần chân lý thì đã ở trên con đường cứu độ. Nhưng
chân lý được ủy thác cho Giáo Hội, nên Giáo Hội phải ra đi để đáp ứng khát vọng
của con người, để mang chân lý đến cho họ. Vì tin vào kế hoạch cứu độ phổ quát
của Thiên Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo. (Giáo lý Hội Thánh Cong Giáo, số
851).” (Dominus Jesus, số 22).
Trước tiên, chúng tôi cần lưu ý ngay rằng việc Tuyên Ngôn số
22 giải thích 1 Tm 2, 4 là hơi tùy tiện, và có nguy cơ làm hạn chế những
nội hàm phong phú trong tư tưởng của Thánh Phaolô. Thật vậy, khi thay thế giới
từ “và” (“et”, “and”) trong 1 Tm 2, 4 bằng giới từ “nhờ” hay “qua”,
“bởi” (“par”, “through”), Tuyên Ngôn đã giải thích không chính xác tư
tưởng sâu sắc của Thánh Phaolô. Khi sử dụng giới từ “và”, Thánh Phaolô có lẽ
muốn cho thấy giữa việc được cứu độ và được nhận ra sự thật không nhất thiết
phải là tương quan nhân-quả, có điều kiện, mà đúng hơn là trình tự và cấp độ
tương quan. Và đây là một vấn đề rất quan trọng trong suy tư thần học, bởi vì
tình yêu của Thiên Chúa luôn là một thứ tình yêu nhưng không, vô vị lợi, vô
điều kiện và vô biên.
Để tiện bề theo dõi, chúng tôi mạn phép trích dẫn ra đây phân đoạn
quan trọng nầy, theo ba ngôn ngữ :
a- Bản Pháp ngữ : “En effet, ‘Dieu veut que tous les
hommes soient sauvésetparviennent à la connaissance de la vérité’
(1 Tm 2, 4). Dieu veut le salut de tousparla connaissance de la
vérité. Le salut se trouve dans la vérité” (Dominus Jesus, 22).
b- Bản Anh ngữ : “Indeed, God ‘desires all men to be
saved andcome to the knowledge of the truth’ (1 Tm 2, 4);
that is, God wills the salvation of everyonethroughthe knowledge
of the truth. Salvation is found in the truth” (Dominus Jesus, 22).
c- Bản Việt ngữ tạm thời của UBGLĐT của HĐGMVN : “Thật
vậy, ‘Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ vànhận biết
chân lý’ (1 Tm 2, 4); nghĩa là, Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu
độ nhờnhận biết chân lý. Ơn cứu độ được gặp thấy trong chân
lý” (Dominus Jesus, số 22).
Như chúng tôi đã có lưu ý trên đây, qua mầu nhiệm Thập Giá (chết và
Phục sinh), Đức Giêsu-Kitô đã làm cho nhân tính của Ngài được thần linh hóa và
hiệp nhất nên một trong Ngôi Vị Con của Ngài, và qua nhân tính của Ngài toàn
thể nhân loại mọi nơi và mọi thời được siêu độ, được thần linh hóa, được trở
nên giống như Thiên Chúa, một lần là đủ. Tình trạng được siêu độ nầy vốn nằm
trong cấu trúc hữu thể học của con người, mọi nơi và mọi thời. Sứ mạng của Giáo
Hội kitô, vốn không ai có thể thay thế, vì thế, đúng hơn không phải là tạo ra
ơn siêu độ mà Đức Giêsu-Kitô đã mang lại một lần là đủ, mà là làm cho người ta
nhận biết tình trạng mình được siêu độ đó, và nhận biết Thiên Chúa là Ai, Đức
Giêsu-Kitô là Ai và con người cùng các thụ tạo là ai, để đáp trả lại tình yêu
nhưng không đó của Thiên Chúa với tâm tình tri ân và cảm tạ.
Để được ơn cứu độ, điều quan trọng trước tiên đó là được Thiên Chúa
chủ động đến viếng thăm và ở cùng, như trong trường hợp của ông Dakêu [“Đức
Giêsu mới nói về ông ta rằng : ‘Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy, bởi
người nầy cũng là con cháu tổ phụ Apraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những
gì đã mất’.” (Lc 19, 9-10)], chứ không nhất thiết là do người ta đã biết
được sự thật về Ngài. Vấn đề sự thật về Thiên Chúa, về Đức Giêsu-Kitô, về con
người và các thụ tạo sẽ từ từ được khám phá ra sau, theo trình tự và cấp độ mà
Đức Kitô đã nói về mình : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự
sống. Không ai có thể đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết
Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Ngài và đã thấy
Ngài.” (Ga 14, 6-7); hay : “Mà sự sống vĩnh hằng đó là họ nhận biết Cha,
Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu
Kitô.” (Ga 17, 3).
Như vậy, vai trò của Giáo Hội, Thân Mình của Đức Giêsu-Kitô, trước
tiên, cũng phải là “con đường”, không hẳn là để dẫn đưa nhân loại đến với Thiên
Chúa mà đúng hơn là để Thiên Chúa đến với nhân loại (đặc biệt, qua các bí
tích), cũng phải là “sự thật” mặc khải cho biết Thiên Chúa là Ai và con người
là ai (đặc biệt, qua nỗ lực loan báo Tin Mừng Tình Yêu và đời sống chứng tá của
mình), cũng phải là “sự sống” tình yêu qua đó nhân loại khi hiệp thông với Giáo
Hội được thông phần vào sự sống tình yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa (đặc biệt,
qua đời sống chứng tá bằng yêu thương và phục vụ)...
Ngoài ra, những nỗ lực Tin Mừng hóa muôn dân, hay những nỗ lực xây
dựng Nước Thiên Chúa chính là những nỗ lực Giáo Hội tự hoàn thiện mình, tự làm
cho mình hoàn hảo hơn, trưởng thành hơn, sung mãn hơn và tạo điều kiện cho biến
cố Quang Lâm của chính Đức Giêsu-Kitô, hay nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô :
“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian
nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì
lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh.” (Cl 1, 24).
“Mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Ngài,
Đấng làm cho tất cả được viên mãn.” (Ep 1, 23).
“Giáo Hội, - mà tất cả chúng ta đều được mời gọi trong Đức Kitô
và mà trong đó chúng ta có được sự thánh thiện nhờ ân sủng Thiên Chúa, - chỉ
đạt đến tình trạng viên thành trong vinh quang thiên quốc mà thôi /…/ Đức Kitô
khi bị cất lên khỏi đất đã lôi kéo tất cả mọi người đến được với Ngài; được
phục sinh từ giữa những kẻ chết, Ngài đã sai phái Thần Khí sự sống của Ngài đến
trên các tông đồ, và nhờ Thần Khí đó, Ngài đã tạo nên Thân Mình của Ngài, là
chính Giáo Hội, như bí tích phổ quát của ơn siêu độ; ngự bên hữu Cha, Ngài vẫn
không ngừng tiếp tục tác động lên thế giới để dẫn đưa con người về với Giáo
Hội, nhờ Giáo Hội hiệp nhất họ lại với nhau ngày càng thắt chặt hơn, và làm cho
họ được tham phần sự sống vinh quang của Ngài, qua việc nuôi sống họ bằng chính
Mình và Máu của Ngài.” (Lumen Gentium, 48).
III.3.C – Giáo Hội là sự Viên Mãn của Đức Giêsu-Kitô:
1 Ga 3,2 đã viết một cách bí hiểm : “Anh em thân mến, hiện giờ
chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được
bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như
Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy.”
Ở đây, có vẻ như 1 Ga 3, 2 muốn cho chúng ta hiểu Ngày Quang Lâm
của Đức Giêsu-Kitô cũng chính là lúc nhân loại thành toàn, tức là trở nên giống
như Ngài (St 1, 26-27), và đó cũng là lúc Giáo Hội trở nên Thân Mình của Đức
Giêsu-Kitô, như dưới tác động của Chúa Thánh Thần, tấm bánh thánh trở nên Thân
Mình của Ngài và chén rượu trở nên Máu của Ngài. Quá trình phát triển của Giáo
Hội-Thân Mình của Đức Kitô, hay của Nước Thiên Chúa, như vậy, cũng giống như
quá trình phát triển của hạt giống. Trong suốt quá trình phát triển đó, chính
Đức Kitô là Đấng “nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh vì chúng ta là bộ phận
trong thân thể của Ngài” (x. Ep 5, 28-32) bằng chính Ngài (Lời Chúa và các
Bí tích, đặc biệt Bí tích Thánh Thể).
Trên cơ sở đó, chúng ta hiểu được phần nào tại sao Thánh Phaolô lại
phát biểu : “Vì mỗi lần anh em ăn bánh ấy và uống chén ấy, anh em loan báo
sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến.” (1 Cr 11, 26). Và chúng ta cũng có
thể nói việc cử hành Bí tích Thánh Thể mà qua đó Giáo Hội loan báo sự chết của
Chúa, như vậy, sẽ chấm dứt vào lúc Đức Kitô Quang Lâm, hay có thể nói, vào lúc toàn
thể thụ tạo, đặc biệt, con người, hay toàn thể Giáo Hội, như tấm bánh và chén
rượu, trở nên Thân Mình và Máu của Đức Giêsu-Kitô. Và chính trong tư cách đó,
Giáo Hội kitô mới có thể được gọi là “Thành thánh”, “Giêrusalem mới”, “tân
nương trang sức chờ đón đức lang quân” :
“Và tôi đã thấy một trời mới và một đất mới, vì trời cũ và đất
cũ đã qua, và biền không còn nữa. Và Thành thánh, Giêrusalem mới, tôi đã thấy
tự trời xuống từ nơi Thiên Chúa, chỉnh tề như tân nương trang sức chờ đón đức
lang quân.” (Kh 21, 1-2).
Một tấm bánh tầm thường, một chén rượu bình thường, khi Ngài muốn,
và đưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã làm cho chúng trở nên Thân
Mình của Ngài và Máu của Ngài, chẳng lẽ, nếu Ngài muốn và dưới tác động của
Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu-Kitô lại không thể làm cho toàn thể thụ tạo, đặc
biệt, toàn thể nhân loại, trở nên Thân Mình của Ngài hay sao !
“Và Đức Giêsu nói với các môn đệ : ‘…Thầy bảo thật anh em :
chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nầy nữa, cho đến ngày Thầy
uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” (Mc 14, 24a.25; xem thêm Mt 26,
29; Lc 22, 18).
Nhìn từ những góc độ đó, người ta sẽ có thể nhận ra rằng Ngày Quang
Lâm cũng sẽ là ngày hoàn tất các Công trình Sáng tạo, Mặc khải và Siêu độ của
Thiên Chúa-Ba Ngôi; hoặc nói theo ngôn ngữ của Mt 6, 9-10, đó là Ngày mà “Danh
Cha cả sáng”, “Nước Cha trị đến”, “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời”; hoặc theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô trong 1 Cr 15, 24.28 :
“Rồi sẽ là cùng tận, lúc Đức Kitô trao trả vương quyền cho Thiên Chúa và là
Cha, sau khi đã hủy ra không, mọi thiên phủ, mọi uy thế và quyền năng…Vì khi
mọi sự đã phục quyền Ngài, thì bấy giờ Con cũng sẽ phục quyền Đấng đã bắt mọi
sự phục quyền mình, ngõ hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.”…
Chủng Viện Thánh Nicôla, ngày 4 tháng 3 năm 2013
Lm Phêrô Nguyễn Thiên Cung