SÁCH GIÁO LƯ CHO NGƯỜI TRẺ

YOUCAT

YOUTH CATECHISM     

             

 

GIỚI THIỆU
SÁCH GIÁO LƯ CHO NGƯỜI TRẺ

Antôn Nguyễn Mạnh Đồng,
Nhà Hưu Dưỡng Linh Mục Cần Thơ

 

 

Lời nói đầu

Đầu năm 2013 tôi gửi lên mạng bài giới thiệu cuốn “Giáo lư cho người trẻ” (YOUCAT) là sách giáo lư hiện đại nhất của Hội Thánh Công Giáo. Độc giả chưa biết có thể mở Google tìm: “Youcat Sách Giáo lý hiện đại nhất của HTCG”. Cuốn này được phát hành vào ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Madrid khoảng giữa tháng 8 năm 2011. Sách được xuất bản bằng tiếng Đức, được các nước khác dịch ra khoảng hơn 30 thứ tiếng trên thế giới. Theo tin tức lúc cuối năm 2011, sách đang được Ban Giáo lư Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho dịch sang tiếng Việt. Sang đầu năm 2012, tôi may mắn mượn được cuốn Youcat bằng tiếng Anh ít ngày. Tôi vội đọc và thấy hấp dẫn quá. Tôi nhờ một bạn ở bên Pháp mua cho tôi và gửi bưu điện về. Hai tuần sau, tôi nhận được cuốn Youcat bằng tiếng Pháp, và đọc cẩn thận từng chi tiết. Cuối năm 2012 thấy trong mạng có người dịch Youcat nhưng “chỉ dịch câu hỏi và câu trả lời, không dịch hết phần giải nghĩa thêm và lời trích dẫn bên cạnh’’; và có người đă lấy ra cho sinh viên học giáo lư. Đến lúc đó tôi vẫn chưa thấy sách Youcat tiếng Việt được phát hành. C̣n tôi đă có giờ đọc Youcat bản tiếng Anh, rồi nghiền ngẫm Youcat bản tiếng Pháp, tôi rất tâm đắc và thích thú, và thế là tôi viết bài giới thiệu về Youcat. Nhưng bài giới thiệu đó chỉ tóm tắt đại cương, chưa nói hết được những đặc điểm độc đáo nhất, và cũng mới chỉ giúp cho độc giả như “được cưỡi ngựa xem hoa” mà thôi.

Nay theo yêu cầu của bạn bè, tôi dành thời gian sẵn có ở nhà hưu để chuyển ư toàn bộ sách Youcat, và xin lần lượt chia sẻ từng phần một để sử dụng nội bộ, v́ tôi cho rằng đây là tài liệu rất cần thiết, rất hữu ích để người trẻ học giáo lư. Chia sẻ này nhằm giới thiệu chi tiết hơn những đặc điểm độc đáo của Youcat mà độc giả có thể kiểm chứng được nhờ có sẵn bản văn Youcat trong tay.

 

I. ĐẶC ĐIỂM ĐỘC ĐÁO NỔI CỘM NHẤT CỦA YOUCAT LÀ G̀?

Độc giả đă biết, các soạn giả của Youcat là Đức Hồng Y Schönborn, người đă có mặt trong việc soạn Sách Giáo lư Hội thánh Công giáo (SGLCG) năm 1992, soạn Sách Toát yếu Giáo lư Hội thánh Công giáo (TYGLHTCG) năm 2005, và ngài cũng đứng đầu trong việc soạn thảo Youcat (2011), cùng với một số giám mục, linh mục, giáo sư, cũng như hơn 60 bạn trẻ nam nữ, tất cả làm việc với nhau trong năm năm trời. Nhờ đó Đức Hồng Y có thể nắm được toàn bộ giáo lư trong cả ba cuốn giáo lư của Hội thánh. Tập thể trên đă nhất trí với nhau soạn một sách giáo lư mà Đức Bênêđictô XVI gọi là “hơi khác thường”. Ngài giải thích: “hơi khác thường về nội dung cũng như về cách tŕnh bày nội dung”. Về nội dung là tŕnh bày những ǵ Hội Thánh Công giáo hôm nay đang tin, và tŕnh bày một đức tin không hề mâu thuẫn với lư trí. Về cách tŕnh bày nội dung là các tác giả tuy khác nhau nhưng cùng nhất trí thực hiện một sách giáo lư dễ tiếp thu, dễ hiểu cho mọi người trẻ trên khắp năm Châu ở thời hiện đại. Lúc đầu Đức Bênêđictô XVI có lo âu và nghi ngờ về sự thành công của nó, nhưng cuối cùng ngài cho rằng: “đối với ngài đây là một phép lạ”. (xin xem thư giới thiệu Youcat của Đức Bênêđictô XVI).

Như vậy đặc điểm độc đáo nổi cộm nhất của Youcat đă được Đức Bênêđictô XVI nêu bật ngay từ đầu thư giới thiệu, đó chính là ở nội dung của Youcat và cách tŕnh bày nội dung.

 

II. NỘI DUNG VÀ CÁCH TR̀NH BÀY NỘI DUNG CỦA YOUCAT ĐƯỢC THỰC HIỆN CÁCH NÀO?

Nội dung là đức tin lănh nhận từ các Thánh Tông Đồ, được tŕnh bày một cách tổng hợp và hữu cơ thành bốn cột trụ cổ điển trong SGLHTCG: Hội thánh tin ǵ, Hội thánh cử hành các mầu nhiệm thế nào, Hội thánh sống theo đời sống Chúa Kitô thế nào, Hội thánh cầu nguyện thế nào. C̣n cách tŕnh bày nội dung là lo liệu sao để giúp mọi người dễ hiểu trong trí, dễ cảm nghiệm trong ḷng, dễ thực hành trong đời sống và dễ truyền bá cho người khác. Nội dung và cách tŕnh bày nội dung được Youcat thực hiện cách độc đáo và cụ thể như sau:

Youcat phân phối nội dung trong 527 câu hỏi (Sách Toát yếu có 598 câu hỏi). Mỗi câu hỏi là một điểm giáo lư, được coi như là một vấn đề và được tŕnh bày thành ba phần: phần hỏi, phần trả lời, phần giải nghĩa. Sau phần trả lời có ghi số để tham chiếu SGLHTCG, sau phần giải nghĩa có ghi số tham khảo các câu trong Youcat; như thế mỗi câu đều vừa liên kết với nhau như một tổng hợp vừa có quan hệ hữu cơ với nhau trong Youcat. Thêm vào ba phần trên có các chứng từ để minh họa cho vấn đề, nếu chứng từ thuộc Kinh thánh th́ có kư hiệu cuốn sách  , nếu là định nghĩa th́ có kư hiệu dấu hỏi ?, nếu là trích tư tưởng hay giáo huấn của Công đồng, của Giáo phụ, của các Thánh hay các danh nhân… th́ có kư hiệu hai ngoặc kép } ~. Nhờ các chứng từ này mà ư nghĩa của vấn đề gíáo lư được thêm phong phú, sáng sủa, vừa gắn bó với Lời Chúa, vừa gắn bó với truyền thống sống động của Hội Thánh, vừa chứng tỏ vấn đề giáo lư đă được hiểu biết, được thực hiện bởi nhiều người ở mọi thời mọi nơi. Sách Youcat xếp các chứng từ ở hai bên lề các câu hỏi thưa, bạn đọc phải tìm thì mới gặp chứng từ phù hợp với câu hỏi thưa. Trong tập này, tôi đã tìm trước các chứng từ phù hợp với câu hỏi thưa, rồi xếp ngay sau mỗi câu hỏi thưa cho tiện. Để đi sâu vào chi tiết, xin trích hai thí dụ:

 

a/ Thí dụ thứ nhất về đức tin:

- Sách Toát yếu câu 27:

H. Tin vào Thiên Chúa có ư nghĩa cụ thể ǵ cho con người ?

T. Tin có nghĩa là gắn bó với chính Thiên Chúa, tin tưởng phó thác bản thân cho Người và chấp nhận tất cả những chân lư do Người mặc khải v́ chính Người là chân lư. Tin có nghĩa là tin kính Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

- Sách Toát yếu câu 28:

H. Đức tin có những đặc điểm nào?

T. Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban không và tất cả những ai khiêm tốn cầu xin đều có thể đạt tới. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành vi của lư trí con người, được ḷng muốn thúc đẩy do tác động của Thiên Chúa, tự do chấp nhận chân lư Thiên Chúa. Ngoài ra đức tin c̣n có đặc tính chắc chắn v́ đặt nền tảng trên Lời Chúa; đức tin hành động nhờ đức ái (Gl 5,6), đức tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Ngay từ bây giờ đức tin cho chúng ta nếm trước niềm vui trên trời. Sách Toát yếu chỉ có thế.

C̣n sách Youcat đă không lấy lại hai câu này để nói về đức tin, mà tŕnh bày theo cách độc đáo của Youcat. Một nữ sinh viên công giáo Đức đang dọn tiến sĩ ngữ học, là thành viên của nhóm soạn thảo Youcat, có chia sẻ một chuyện: có hai đứa bạn hỏi cô: có đức tin nghĩa là ǵ? Cô suy nghĩ và cảm thấy bất lực không biết trả lời sao. Cô mở mục lục các từ của Youcat, t́m chữ Tin. Youcat chỉ cho cô xem câu 21-22.

Youcat câu 22:

22.           Tin nghĩa là ǵ ?

-  Tin là đi vào một tương quan cá vị với Thiên Chúa, và sẵn sàng đón nhận tất cả những ǵ Thiên Chúa mặc khải về chính Người. [150-152]

Rồi Youcat giải nghĩa:

  Khi bắt đầu tin con người thường cảm thấy ḿnh rúng động hoặc âu lo. Con người cảm thấy thế giới hữu h́nh và mọi việc thường xảy ra chưa phải là tất cả. Khi tin là họ cảm thấy xúc động v́ đụng chạm đến một mầu nhiệm. Rồi họ lần theo các dấu vết đưa dẫn họ tới sự hiện hữu của Thiên Chúadần dần thấy ḿnh tin tưởng để nói với Người, rồi cuối cùng họ tự nguyện bước vào mối tương quan với Người. Trong Tin Mừng thánh Gioan ta đọc rằng: “Thiên Chúa, chưa có ai thấy bao giờ, chỉ có Con duy nhất ở trong ḷng Cha là Chúa Kitô, chính Người đă tỏ cho chúng ta biêt” (Ga 1, 18). Đó là lư do tại sao phải tin Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, nếu ta muốn biết Thiên Chúa muốn truyền ǵ cho ta. Tin có nghĩa là đồng thuận với Chúa Giêsu“đặt cược” tất cả đời ḿnh cho Người.

Đọc xong Youcat, cô sinh viên thú thật rằng: “Tôi hết sức vui sướng v́ đă t́m được lời lẽ để trả lời cho hai bạn tôi biết tin là ǵ.”

Thêm vào câu hỏi và câu trả lời số 22 Youcat c̣n có các chứng từ:

«      Tin nghĩa là chịu đựng sự khó hiểu của Thiên Chúa suốt đời. Karl Rahner (1904-1984, thần học gia Đức)

«      Tôi không tin nếu tôi không nhận thấy rằng tin là điều hợp lư. Thánh Tôma Aquinô

«      Tin vào Thiên Chúa là thấy rằng trong các thực tại của thế giới tất cả chưa được nói đến. Tin vào Thiên Chúa là thấy rằng cuộc đời có một ư nghĩa. Ludwig Wittgenstein (1889-1951, triết gia Áo)

«      Cái mà ta tin là điu quan trng, nhưng c̣n quan trng hơn na là ta tin vào ai. Đức Bênêđictô XVI, 28-05-2005

«      Tôi tin để hiểu. Thánh Anselmô Cantorbery (1033-1109, tiến sĩ Hội Thánh, thần học gia Trung Cổ)

«      Tôi không có tưởng tượng. Tôi không thể h́nh dung ra Thiên Chúa Cha. Tất cả điều tôi có thể thấy là Chúa Giêsu. Chân phước Têrêsa Calcutta (1910-1997, sáng lập ḍng. Đoạt giải Nobel về ḥa b́nh 1979)

- Youcat câu 307:

307. Đức tin là ǵ?

- Đức tin là nhân đức giúp ta nhận Thiên Chúa có thật, nhận biết sự thật của Người và tự gắn bó bản thân với Người  [1814 -1816, 1842] 

Youcat giải nghĩa:

  Đức tin là con đường Thiên Chúa làm ra dẫn ta đến sự thật là chính Thiên Chúa. Bởi v́ chính Chúa Giêsu là con đường, là sự thật, là sự sống (Ga 14, 6), đức tin không chỉ là một thái độ, một tin tưởng nào đó. Một đàng đức tin chất chứa những dữ liệu chính xác: Hội Thánh tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, và Hội Thánh có trách nhiệm bảo vệ. Người nào đón nhận ơn đức tin, nghĩa là muốn tin, th́ tuyên bố chấp nhận đức tin đă được gìn giữ trung thành qua các thời đại và nền văn hóa. Đàng khác, tin cũng là dấn thân vào một quan hệ tin tưởng với Thiên Chúa, hết ḷng, hết trí, hết khả năng. Bởi v́ điều quan trọng là “đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5, 6). Không phải qua nhũng lời nói hay, mà ta thấy được người nào đó tin ở Thiên Chúa t́nh yêu, nhưng chỉ bằng những hành động do t́nh yêu của họ.

Thêm vào câu hỏi, trả lời và giải nghĩa, Youcat c̣n có một chứng từ:

Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. 1Cr 13, 13

-Youcat câu 21:

21. Đức tin là ǵ?

-  Đức tin là nhận biết và trông cậy. Đức tin có bảy đặc điểm:

1/  Đức tin là ơn ban tuyệt vời của Thiên Chúa, ta nhận được khi ta sốt sắng cầu xin.

2/  Đức tin là sức mạnh siêu nhiên tuyệt đối cần thiết để ta được cứu độ.

3/  Đức tin là đ̣i có ư muốn tự do và sự hiểu biết rơ ràng khi ta đón nhận lời mời của Thiên Chúa.

4/  Đức tin là sự chắc chắn tuyệt đối v́ chính Chúa Giêsu bảo đảm như thế.

5/  Đức tin không trọn vẹn, bao lâu đức tin chưa được thể hiện qua những hành động bác ái.

6/  Đức tin lớn dần khi ta luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đáp lại Lời Người trong cầu nguyện.

7/  Đức tin cho ta nếm cảm trước niềm vui thiên đàng ngay ở đời này. [153-165, 179-180, 183-184].

Rồi Youcat giải thích:

     Đức tin c̣n hơn là hiểu biết rất nhiều, đức tin là tin tưởng và trông cậy. Chính đức tin đă làm ông Abraham di cư sang đất hứa, đă khiến cho các vị tử đạo trung thành cho đến chết; và ngày nay, đức tin c̣n nâng đỡ các Kitô hữu bị bách hại. Đức tin chiếm đoạt toàn bộ con người.

Youcat c̣n thêm hai chứng từ nũa:

Nếu anh em có ḷng tin lớn bằng hạt cải th́ dù anh em có bảo cây dâu này: hăy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc nó cũng sẽ vâng lời anh em.  Lc 17, 6

«      Bản tính của đức tin là đón nhận một chân lý mà trí tuệ ḿnh không đạt tới được; đức tin ấy phải nhất thiết dựa vào chứng từ. Chân phước John Henry Newman (1801-1890)

 

Tóm lại sau khi đối chiếu Sách Toát yếu với Youcat, ta thấy cả hai đều dựa vào sách GLHTCG để cho biết đức tin là gắn bó, là có tương quan cá vị với Thiên Chúa, là chấp nhận mọi chân lư của Thiên Chúa, là nếm trước niềm vui ở trên trời. Tuy nhiên, Sách Toát yếu chú ư hơn đến khía cạnh hiểu biết của đức tin, c̣n Youcat coi đức tin là thái độ của toàn bộ con người bao gồm cả trí tuệ, tấm ḷng và hành động. Youcat có điểm độc đáo khác mà Toát yếu không có, đó là đề cao vai tṛ cốt yếu của Chúa Kitô trong đức tin, Chúa Kitô là con đường, là sự thật, là sự sống… và tin cũng là tin vào Chúa Kitô. C̣n điểm độc đáo nữa mà Toát yếu không có đó là các chứng từ về đức tin. Youcat có tới chín chứng từ, được chọn từ Kinh thánh và các văn sĩ công giáo, các chứng từ giúp cho ư nghĩa của đức tin phong phú và sâu rộng hơn, vừa gắn bó với lời Chúa, vừa tác động tới đời sống con người. Ông Abraham, các Thánh Tử Đạo, những người bị bách hại chứng tỏ đức tin đă được mọi nguời hiểu biết trong trí, cảm nghiệm trong ḷng, thể hiện trong đời sốngc̣n truyền bá cho người khác nữa, ở mọi thời và mọi nơi.

 


b/ Thí dụ thứ 2: về vấn đề Trời hay Thiên đàng.

- Sách Toát yếu câu 209.

H. Trời (Thiên đàng) là ǵ?

T. Trời là t́nh trạng hạnh phúc tối cao và vĩnh viễn. Những ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được quy tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các Thiên thần và các Thánh. Như vậy, các Ngài làm thành Hội Thánh thiên quốc, nơi các ngài được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1Cr 13, 12); các ngài sống trong sự hiệp thông t́nh yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta.

«      Sự sống thật và theo bản chất cốt tại điều này: Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần đổ tràn các hồng ân Thiên Quốc trên tất cả không trừ ai. Nhờ ḷng thương xót của Người, cả chúng ta là những con người, chúng ta cũng đă lănh nhận lời hứa vĩnh viễn là được sống đời đời.  Thánh Xirilô thành Giêrusalem.

Sách Toát yếu chỉ có thế.

- Youcat câu 52:

52. Trời là ǵ?

-  Trời là nơi ở của Thiên Chúa, nơi ở của các Thiên thần và các Thánh, là đích điểm của việc sáng tạo. Khi ta nói “trời và đất” là nói đến toàn thể những thực tại được Thiên Chúa dựng nên. [325-327]

Rồi Youcat giải nghĩa:

  Trời không phải là một nơi nhất định nào đó trong vũ trụ. Trời là một t́nh trạng trong đời sống mai sau. Trời là nơi Chúa thực thi ư muốn của Người mà không có ǵ chống đối. Trời là nơi có cuộc sống mănh liệt nhất, hạnh phúc nhất, một cuộc sống không thể nào có được ở trần gian. Khi nhờ Chúa giúp, ta chờ đợi ở đó điều mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, ḷng chưa hề cảm được, đó lại là điều mà Thiên Chúa muốn dọn sẵn cho những ai mến yêu Người (1Cr 2, 9). à 158, 285

Và Youcat thêm 2 chứng từ:

«      Chúa Giêsu đă đến để dạy ta rằng Người muốn cho mọi người được lên Thiên đàng, c̣n hỏa ngục mà ngày nay người ta ít nói đến nhưng  nó vẫn có đó, và nó chỉ là đời đời đối với tất cả những ai khép ḷng ḿnh lại trước t́nh yêu của Người. Đức Bênêdictô XVI 8-5-2007

«      Chúng ta thường luyến nhớ đến niềm vui trên trời, nơi Chúa ngự. Chính mỗi người đều có khả năng ở với Chúa trên trời ngay từ bây giờ, và ngay lúc này được hưởng hạnh phúc với Chúa. Nhưng được hạnh phúc với Chúa ngay từ bây giờ nghĩa là ǵ: là giúp đỡ như Chúa giúp đỡ, cho đi như Chúa cho đi, phục vụ như Chúa phục vụ, cứu độ như Chúa cứu độ, yêu mến như Chúa yêu mến, ở với Chúa suốt 24/24 giờ và gặp gỡ Chúa trong bộ quần áo khủng khiếp nhất. Bởi v́ Chúa đă nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” Mt 25,40. Mẹ Têrêsa

- Youcat câu 158.

158. Trời là ǵ?

- Trời là thời gian vô tận của t́nh yêu không bao giờ c̣n xa cách giữa Thiên Chúa và linh hồn để yêu mến và t́m kiếm Người suốt đời. Được hiệp nhất với tất cả các Thiên thần và các Thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn được ở gần Chúa và với Chúa. Trời là thiên đàng [1023-1024,1053]

Rồi Youcat giải nghĩa :

  Một đôi bạn trẻ nh́n nhau với đôi mắt t́nh tứ, một em bé đang bú, mắt t́m cái nh́n của mẹ như muốn giữ lấy măi măi nụ cười… đó là những thí dụ có thể cho ta một ư tưởng về trời. Việc có thể nh́n Thiên Chúa “mặt đối mặt” là như một thời gian độc nhất của t́nh yêu kéo dài đến vô tận  à 52

và thêm 2 chứng từ:

Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được giáp mặt. Bây giờ tôi chỉ biết có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. 1 Cr 13,12

«      Người ta có thể bị mất của cải đời này trái ư muốn của ḿnh, nhưng sẽ không bao giờ mất của cải đời đời mà không hoàn toàn do ư muốn của ḿnh. Thánh Augustinô

 

Tóm lại, qua 2 ví dụ độc giả có thể thấy rơ nội dung và cách tŕnh bày nội dung của Youcat được thực hiện cách độc đáo bằng chia thành nhiều vấn đề, và mỗi vấn đề gồm câu hỏi, câu trả lời, câu giải nghĩa, lại c̣n kèm theo các chứng từ để minh họa, lấy từ Kinh Thánh và Truyền Thống sống động trong Hội Thánh (Công đồng, giáo phụ, các Thánh, các văn sĩ…). Thực ra, cả Sách Toát yếu và Youcat phải theo những ǵ cốt yếu mà truyền thống cổ điển đă để lại, Nhưng Sách Toát yếu theo hướng tŕnh bày cổ điển của thần học kinh viện, nhắm tới suy luận của trí tuệ để hiểu biết hơn ; c̣n Youcat cũng nhằm hiểu biết nhưng hiểu biết dựa vào kinh nghiệm sống hằng ngày, và hiểu biết để thực hành trong đời sống hằng ngày, nghĩa là hiểu biết trong trí và cảm nghiệm trong ḷng, rồi đem thực hành trong đời sống và c̣n lo truyền bá cho người thân cận nữa.

 

III. TRONG NỘI DUNG VÀ TRONG CÁCH TRÌNH BÀY NỘI DUNG YOUCAT CÓ ĐẶC ĐIỂM ĐỘC ĐÁO NÀO ?

Chúng ta biết cả 2 Sách Toát yếu và Youcat đều phải theo sát nội dung truyền thống cổ điển của Hội thánh trong Kinh Tin kính, 7 Bí tích, 10 Điều răn, và kinh lạy Cha. Tuy nhiên trong nội dung, Youcat chọn lựa những chủ đề, những câu hỏi, câu trả lời, câu giải nghĩa phù hợp với nhu cầu thời hiện đại mà trước đây chưa sách nào nói tới, chẳng hạn : dùng chất gây nghiện, làm chết êm dịu, hôn nhân đồng tính, thụ thai mướn, toàn cầu hóa, nghiên cứu tế bào gốc, học thuyết xã hội công giáo ... Còn trong cách tŕnh bày nội dung, Youcat chọn những chứng từ xưa cũng như nay phù hợp với chủ đề để minh họa và giúp áp dụng vào đời sống thường ngày.

3.1  Những câu hỏi, câu trả lời và giải nghĩa độc đáo.

Chỉ riêng phần I về Kinh Tin Kính, đă có khoảng 20 câu trên 165 câu (Toát yếu không có ).

Câu 41 . Khoa học có làm cho Đấng Tạo hóa thành ra dư thừa không ?

Câu 42. Có thể vừa chấp nhận tiến hóa vừa tin vào Đấng Tạo hóa không ?

Câu 43. Thế giới này có phải là sản phẩm của t́nh cờ không ?

Câu 51. Nếu Thiên Chúa biết mọi sự và làm được mọi sự, sao không loại bỏ sự dữ ?

Câu 64. Tại sao Thiên Chúa tạo nên con người có nam có nữ ?

Câu 65. Người có đồng tính luyến ái th́ sao ?

Câu 86. Tại sao Chúa Giêsu đă chờ đến 30 tuổi mới đi giảng đạo ?

Câu 101. Tại sao Chúa Giêsu phải cứu chuộc bằng cái chết mà không dùng cách khác ?

Câu 130. Các Kitô hữu ‘không công giáo’ có là anh chị em với ta không ?

Câu 136. Hội thánh nh́n thế nào về các tôn giáo khác ?

Câu 140. Tại sao Hội thánh không là một tổ chức dân chủ ?

Câu 158. Trời là ǵ ?

Câu 161. Hỏa ngục là ǵ ?

Câu 162. Nếu Thiên Chúa là t́nh yêu th́ tại sao có hỏa ngục ?

3.2 Những chứng từ độc đáo

Được chọn trong Kinh thánh, trong các tài liệu của Công đồng, các Giáo phụ, các Thánh, các văn sĩ công giáo, các danh nhân thế giới đạo đời, để minh họa cho ư nghĩa chủ đề, đồng thời soi sáng cho cách thực hiện giáo lư trong đời sống hôm nay. Đúng như Thư gửi Do thái đã viết : « Chúng ta được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh » (Dt 12, 1) nhân chứng hay chứng từ bao giờ cũng thu hút hấp dẫn hơn lý luận. Sách Toát yếu phần I có 16 chứng từ trên 217 câu, c̣n Youcat có 266 chứng từ trên 165 câu. Cần lưu ư rằng việc lựa chọn các chứng từ cho phù hợp với chủ đề không phải đơn giản, không phải có sẵn, mà cần rất nhiều công sức để đọc Kinh thánh, Công đồng, các Thánh… rồi chọn lựa những chứng từ phù hợp với chủ đề và theo đúng chủ đích của ḿnh là để minh họa, khuyến khích thực hành. Mặc dù các chứng từ chỉ có hạn: Toát yếu chỉ có 19 chứng từ trên 598 câu, Youcat có tới 815 chứng từ trên 527 câu ; trong đó danh nhân ngoài công giáo chỉ có hai ông là Gandhi (Ấn độ ) câu 330, và ông Lă Bất Vi (Tàu) câu 370. Thực ra bên Á đông c̣n nhiều chứng từ của Khổng Tử, Lăo Tử… ở Việt Nam nhiều chứng từ của các Thánh Tử đạo). Thế mà tôi đọc trong mạng có dịch giả Youcat nói rằng : ‘chỉ dịch câu hỏi và câu trả lời, không dịch hết phần giải nghĩa thêm và các lời trích dẫn bên cạnh, như thế công phu của các người soạn đi t́m ṭi các chứng từ làm thành một kho những tư tưởng và kinh nghiệm sống độc đáo đă trở thành công dă tràng, vừa bỏ mất tính cách độc đáo của Youcat, vừa gây thiệt tḥi cho độc giả. Chỉ cần chú ư đến các chứng từ trong hai ví dụ trên cũng thấy được.

3.3 Những h́nh ảnh minh họa.

Ngoài các chứng từ Youcat c̣n dùng rất nhiều h́nh ảnh, h́nh chụp, các hoạt h́nh… để minh họa cho chủ đề giáo lư. Trong thời hiện đại vi tính ngày nay, h́nh ảnh là một ngôn ngữ vừa hấp dẫn vừa có khả năng diễn tả gấp nhiều lần ngôn ngữ, Toát yếu cũng có nhiều h́nh ảnh mầu, nghệ thuật, có giá trị nhưng quá ít chỉ có tất cả 16. C̣n Youcat (bản tiếng Pháp) th́ có thể nói trong 300 trang sách, không có trang nào mà không có h́nh ảnh trừ 20 trang mục lục: h́nh ảnh hoặc lớn hoặc nhỏ, h́nh chụp các bức họa, h́nh chụp các cảnh sống, các nơi sống, có màu hay đen trắng, cả các hoạt h́nh rất linh động… các h́nh ảnh diễn tả theo chủ đề các câu trong kinh Tin kính, 7 Bí tích, 10 Điều răn, kinh lạy Cha. Các h́nh ảnh tạo cơ hội cho độc giả chiêm ngắm, thưởng thức, qua cái đẹp và nghệ thuật, các biến cố quan trọng trong mầu nhiệm cứu độ (Cựu ước lẫn Tân ước). Đây là đặc điểm độc đáo đáng kể của Youcat.

 

ĐỂ KẾT THÚC

 

Đây là giới thiệu Youcat cho đến nơi đến chốn, xin độc giả dẹp bỏ thành kiến vốn có về giáo lư, v́ ngay từ nhỏ đa số đă phải nhồi nhét giáo lư để lănh các Bí tích, nó đă gây ấn tượng sâu để ngày nay hễ nói đến giáo lư, ta chỉ nghĩ đến chuyện giáo lư cho trẻ con, chuyện đă xưa rồi, không liên quan đến ḿnh. Sách Youcat phải giúp ta quét sạch thành kiến đó, để ta đổi mới tư duy và  nhận định rằng Sách Youcat không phải là sách cho trẻ con mà cho người trẻ thời hiện đại ngày nay. Tuy  nó không phải là một thứ bách khoa từ điển  về Kitô giáo hoặc một thứ tổng luận thần học về đức tin Kitô giáo nhưng Youcat có đặc điểm này: đó là một sách tŕnh bày đức tin Kitô giáo một cách tổng hợp, hữu cơ và ngắn gọn, với những định nghĩa, giải nghĩa, và chứng từ phù hợp với thời nay. Một sách giúp ta suy niệm và cầu nguyện, giúp ta hiểu biết đức tin sâu sắc hơn, giúp ta sống đức tin đích thực hơn, biết cách trả lời hoặc truyền bá đức tin, cũng như có những lời lẽ thích hợp để tŕnh bày những vấn đề hóc búa lắt léo về đức tin, về t́nh yêu, về xă hội, về nhân quyền, về sự sống … nhất là những vần đề của thời hiện đại mà xưa nay vốn được coi là cấm kỵ khó nói như về t́nh dục, hôn nhân đồng tính, thông dâm, măi dâm, khiêu dâm, thủ dâm … cho người trẻ hôm nay.  

Đối với các giáo sĩ, tu sĩ, giáo lư viên, các bậc cha mẹ thầy cô, Youcat là tài liệu hiện đại nhất, độc đáo nhất, vừa ngắn ngọn vừa đầy đủ, vừa hợp thời, có đủ lời Kinh thánh, tài liệu Công đồng, tư tưởng các Giáo phụ, các Thánh, các danh sĩ và các danh nhân, giúp thông truyền giáo lư, nhất là giúp dựa theo các giải nghĩa hoặc chứng từ của Youcat mà nảy mầm ra các chứng từ về người và việc có thể có ở địa phương ḿnh, chắc chắn sẽ góp phần đẩy mạnh Tái Phúc Âm hóa ở địa phương ḿnh.

    Tuần Thánh 2013

 

 


PHẦN I

KINH TIN KÍNH

(Câu 1 – 165)

 

 

Đoạn I. Tại sao chúng ta tin.

Chương 1. Con người hướng mở về Thiên Chúa.

Chương 2. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người.

     Chương 3. Con người đáp lời Thiên Chúa.

Đoạn II. Kitô hữu tuyên xưng đức tin.

Chương 1. Tôi tin Thiên Chúa Cha

Chương 2. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con Một Thiên

                  Chúa.

Chương 3. Tôi tin kính Đức Chúa thánh Thần.

Chương 4. Tôi tin Hội Thánh Công giáo.

Chương 5. Tôi tin phép tha tội.

Chương 6. Tôi tin hằng sống vậy

 

 

ĐOẠN I: TẠI SAO CHÚNG TA TIN

 

1.             Ta sống ở đời này để làm ǵ ?

Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để làm việc lành theo ư Thiên Chúa, và để một ngày nào đó sẽ đạt tới quê Trời. [1-3, 358]

     Được làm người có nghĩa là đến từ Thiên Chúa và đi về với Thiên Chúa. Nguồn gốc của con người đến từ cao xa hơn là từ cha mẹ họ, nghĩa là đến từ Thiên Chúa, nơi có chứa hạnh phúc của cả trời đất, nơi ta được chờ đón để hưởng hạnh phúc đời đời vô hạn định. Ta đang sống ở trần gian này. Đôi khi, ta thấy gần gũi với Đấng Tạo hóa, nhưng thường là chẳng thấy ǵ. Để dẫn ta vào đúng hướng tốt, Thiên Chúa đă sai con của Người là Chúa Giêsu để giải thoát ta khỏi tội, cứu ta khỏi mọi sự dữ và dẫn ta vào sự sống thật không sai lầm. Người “là Con Đường, là Sự Thật, là Sự Sống”. (Ga 14,6) à 285

Thiên Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu rỗi và nhận biết sự thật. 1Tm 2, 4

«      Nói về chuyện của loài người, ta thường bảo rằng phải hiểu biết chúng để yêu thích chúng. Nói về chuyện thần thiêng, ta bảo rằng phải yêu mến chúng để hiểu biết chúng. Blaise Pascal, (1623-1662, nhà toán học và triết học Pháp)

2.             Tại sao Thiên Chúa dựng nên ta ?

-  Thiên Chúa dựng nên ta v́ Người yêu thương ta một cách tự ư và vô vị lợi. [1-3]

     Khi yêu, trái tim ta đầy tràn chan chứa. Nó muốn chia sẻ niềm vui cho những người khác. Ta có được như vậy là do Đấng Tạo hóa. Mặc dầu Thiên Chúa là một mầu nhiệm, ta vẫn có thể từ kinh nghiệm loài người của ta mà gợi nghĩ ra Người, và có thể nói: Người tạo dựng nên ta do t́nh yêu Người “quá đầy”. Người muốn chia sẻ niềm vui của Người cho ta là những thụ tạo của t́nh yêu Người.

Thiên Chúa là t́nh yêu. 1Ga 4,16

«      Giới hạn của t́nh yêu là yêu không giới hạn. Thánh Phanxicô Salêxiô (1567-1622, giám mục, linh hướng, lập ḍng và tiến sĩ Hội Thánh)

«      T́nh yêu là t́m được niềm vui trong sự tốt lành; sự tốt lành là lư do duy nhất để yêu. Yêu là muốn làm điều tốt lành cho người ta. Thánh Tôma Aquinô (1225-1274, linh hướng thời Trung cổ, tiến sĩ Hội thánh, và nhà thần học lớn)

 

Chương 1. Con người hướng mở về Thiên Chúa 

 

3.             Tại sao chúng ta t́m kiếm Thiên Chúa ?

-  V́ Thiên Chúa đă đặt trong ḷng ta ước mong t́m Người và gặp được Người. Thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa đă dựng nên chúng con cho Thiên Chúa, và ḷng chúng con không nghỉ yên cho tới khi được nghỉ yên trong Thiên Chúa." Sự ước mong t́m Thiên Chúa đó ta gọi là tôn giáo. [27-30]

     Con người đi t́m Thiên Chúa là chuyện tự nhiên. Mọi khát vọng sự thật và hạnh phúc rốt cuộc chỉ là đi t́m đến Đấng chứa đựng nó một cách tuyệt đối, đến thỏa măn nó một cách tuyệt đối, và Đấng có trách nhiệm về nó một cách tuyệt đối. Một người chỉ hoàn toàn là chính ḿnh khi họ đă t́m được Thiên Chúa. “Ai t́m sự thật là t́m Thiên Chúa, dù họ có ư thức hay không” Thánh Edith Stein. à 5, 281-285

Tôn giáo. Nói đến “tôn giáo” ta thường hiểu rằng đó là chuyện quan hệ với thần linh. Một người có tôn giáo nhận biết rằng trong sức mạnh đă tạo dựng họ và tạo dựng thế giới có một cái ǵ là thần linh, một sức mạnh mà họ phải lệ thuộc vào và họ phải hướng tới. Trong lối sống của họ, họ sẽ t́m cách làm đẹp ḷng thần linh và tỏ ḷng tôn kính thần linh.

«      Nguồn vui của Kitô hữu là biết chắc rằng họ được Thiên Chúa yêu thương, yêu thương thân mật bởi Đấng Tạo hóa… yêu thương bằng một t́nh yêu đam mê và trung tín, một t́nh yêu lớn hơn là những bất trung và tội lỗi của ta, một t́nh yêu luôn tha thứ. Đức Bênêđictô XVI, 01- 06- 2006

4.             Ta có thể biết được Thiên Chúa hiện hữu nhờ lư trí không ?

-  Có, nhờ lư trí, ta có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn. (vd. Con cái bởi cha mẹ, cha mẹ bởi ông bà... ông bà đầu tiên phải có Ai sinh ra, làm ra ?). [31-36, 44-47]

     Thế giới không thể nào tự ḿnh mà có một nguồn gốc hay mục đích. Trong tất cả mọi hiện hữu, vẫn c̣n những ǵ mà người ta không thấy được. Trật tự, sự tốt đẹp và sự phát triển của thế giới hướng cái nh́n đến một cái ǵ đó vượt quá chúng ta. Chúng hướng ta tới Thiên Chúa. Mọi con người đều mở ra cho sự thật, sự tốt, sự đẹp. Họ nghe tiếng lương tâm trong ḷng, tiếng này thúc đẩy họ đến sự lành và ngăn ngừa họ khỏi sự dữ. Ai có khôn ngoan để theo dấu vết đó là t́m được Thiên Chúa.

Thiên Chúa tạo dựng con người để họ t́m cách hết ḿnh ḍ dẫm sao cho có thể t́m thấy Người; tuy rằng Thiên Chúa không xa mỗi người chúng ta. V́ chính ở nơi Thiên Chúa mà ta sống, cử động và hiện hữu. Cv 17, 27- 28

«      Sức mạnh chính của con người là lư trí. Mục đích tối cao của lư trí là nhận biết Thiên Chúa. Thánh Albertô Cả (1200-1280, ḍng Đôminicô, giảng dạy nhiều môn, tiến sĩ Hội thánh và nhà thần học lớn)

5.             Tại sao có người lại từ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa, đang khi người ta có thể nhận biết Người bằng lư trí ?

-  V́ nhận biết Thiên Chúa vô h́nh là một thách đố lớn đối với tâm trí con người, khiến cho không ít người đă tháo lui. Đàng khác, một số người không muốn biết Thiên Chúa, v́ họ không muốn thay đổi cuộc sống. Bất cứ ai nói rằng đặt vấn đề Thiên Chúa là vô nghĩa lư, đó là kiểu nói vội vă cho qua chuyện, họ không muốn bàn tới. (Vd. người vô thần chính cống không tin nhận Thiên Chúa) [37-38]  à 357

«      Có những người đă đích thân đi đến chỗ thấu triệt một cách dễ dàng cái nguyên tắc cho rằng, trong lănh vực thần học, tất cả những ǵ họ không muốn nó là sự thật đều là sai lạc và ít là đáng hồ nghi. Đức Piô XII, Humani Generis

6.             Ta có thể thực sự hiểu biết và có thể nói đúng về Thiên Chúa không ?

-  Với trí khôn hữu hạn, con người không thể hiểu thấu sự cao cả vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng ta vẫn có thể nói đúng về Thiên Chúa. [39-43, 48]

     Để có thể nói đúng về Thiên Chúa, ta cần ư thức rằng ngôn ngữ của ta không thể thích đáng với sự cao cả của Thiên Chúa. V́ thế cần phải thanh tẩy và cải tiến không ngừng ngôn ngữ của ta về Thiên Chúa.  

«      Tất cả những ǵ không thể hiểu được ít nhằm để người ta không hiểu được, cho bằng nhằm để người ta hiểu nhiều hơn. Blaise Pascal

 

 

Chương 2.  Thiên Chúa đến gặp gỡ con người

 

7.             Thiên Chúa có phải tỏ ḿnh ra để ta có thể biết Người là ai không ?

-  Trí khôn ta có thể biết Thiên Chúa hiện hữu, nhưng không thể biết thực sự Thiên Chúa là ai. Tuy nhiên Thiên Chúa thật sự muốn cho ta nhận biết Người, nên Người đă tự tỏ ḿnh ra cho ta. [50-53, 68-69]

     Thiên Chúa không bị buộc phải tự mặc khải cho ta. Người mặc khải chỉ v́ yêu thương. Cũng như trong t́nh yêu loài người, ta chỉ có thể biết được sự ǵ của người ḿnh yêu khi họ mở ḷng ra cho ta. Đối với Thiên Chúa ta cũng chỉ đạt tới chỗ hiểu biết một chút ǵ đó về các tư tưởng sâu kín nhất của Người, bởi v́ người là Đấng vĩnh cửu và cao siêu, Người đă chỉ v́ yêu mà đă tỏ lộ cho ta…Từ khi tạo dựng, qua các tổ phụ và tiên tri cho đến mặc khải sau cùng qua Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đă không ngừng nói với loài người. Thiên Chúa đă mở ḷng cho ta và cho phép ta chiêm ngắm bản tính sâu sắc nhất của Người, nhờ Đức Giêsu Kitô.

«      Dù giữa Đấng Tạo hóa và thụ tạo có một sự giống nhau rất lớn ta vẫn phải lưu ư rằng c̣n có một sự khác biệt nhau lớn hơn nữa. Công đồng Latran IV, 1215

«      Theo sự khôn ngoan và tốt lành của Thiên Chúa, Người đă vui ḷng tự mặc khải bản thân Người và cho ta biết mầu nhiệm của ư định Người mà loài người, nhờ Đức Kitô Ngôi Lời nhập thể, có thể nhờ Chúa Thánh Thần đạt tới Chúa Cha và được tham dự vào bản tính Thiên Chúa. Công đồng Vatican II, Dei Verbum

8.             Thiên Chúa tỏ ḿnh ra trong Cựu ước thế nào ?

-  Thiên Chúa tỏ ḿnh ra trong Cựu ước như là Đấng dựng nên thế giới này v́ T́nh yêu, và Người trung tín với loài người, cả sau khi họ sa ngă phạm tội xa cách Người.

[54-64, 70-72]

     Thiên Chúa tự mặc khải trong lịch sử: Người đă kư giao ước với ông Nôê để cứu độ mọi loài sinh vật. Rồi kêu gọi ông Abraham để ông trở nên Cha của nhiều dân tộc (Kn 17,5) và Người qua ông mà chúc phúc cho muôn dân trên trái đất (Kn 12,3). Dân Israel, phát xuất từ Abraham trở nên sở hữu riêng của Người. Với ông Môsê Người tỏ cho ông Tên của Người. Tên rất huyền bí được ghi chép thường là dưới h́nh thức Yahvê, nghĩa là, “Ta là đấng hiện hữu”. Người giải thoát Israel khỏi nô lệ Ai Cập, kư với dân giao ước ở núi Sinai và ban cho dân Luật của Người qua ông Môsê. Thiên Chúa không ngừng sai đến với dân các tiên tri để kêu gọi họ ăn năn trở lại và đổi mới giao ước. Các tiên tri loan báo rằng Thiên Chúa sẽ kư kết một giao ước mới và vĩnh viễn để đem lại một sự đổi mới triệt để và sự cứu độ dứt khoát. Giao ước này sẽ ban cho cả nhân loại.

Mặc khải là việc Thiên Chúa biểu lộ bằng cách tự cởi mở, tự bày tỏ và nói cho thế giới biết về sáng kiến riêng của Người.

9.             Thiên Chúa tỏ ra điều ǵ về chính Người khi gởi Con của Người đến với chúng ta ?

-  Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta t́nh yêu thương xót thẳm sâu của Người. [65-66, 73]

     Nhờ Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa vô h́nh trở nên hữu h́nh. Người trở nên người như ta. Điều đó chứng tỏ t́nh yêu của Chúa đi tới chỗ Người đă nhận lấy trên ḿnh tất cả những ǵ đè nặng lên ta: Người đi theo ta trên khắp các nẻo đường; Người có mặt trong nỗi cô đơn, nỗi đau khổ và nỗi âu lo của ta trước cái chết; Người hiện diện ở những nơi mà ta không thể đi xa hơn được để mở cửa sự sống cho ta (như người cha đón đứa con hoang đàng trong bước đường cùng của nó). à  314

Nhập thể là hành vi Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhập thể là nền tảng của đức tin Kitô giáo và của niềm trông cậy nhân loại được cứu độ.

«      Hạnh phúc mà bạn kiếm t́m, hạnh phúc mà bạn có quyền hưởng có một tên, một khuôn mặt: đó là Chúa Giêsu Kitô ở Nadaret. Đức Bênêđictô, 18-8-2005

«      Thiên Chúa đă nhận lấy vẻ bề ngoài là loài người nơi Chúa Giêsu Kitô và trở nên bạn hữu cũng như anh em với ta. Đức Bênêđictô XVI, 06- 09- 2008

10.        Qua Chúa Giêsu Kitô, mọi sự đă được mặc khải trọn vẹn hay vẫn c̣n tiếp tục sau khi Người về trời ?

 Thiên Chúa đă đích thân xuống trần gian nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô  là Lời mặc khải sau cùng của Thiên Chúa. Nhờ nghe Người nói, mọi người trong mọi thời có thể nhận biết Thiên Chúa là ai, và biết họ cần phải làm ǵ để được cứu rỗi.  [66-67]

     Cùng với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Mặc khải của Thiên Chúa đă dứt khoát và trọn vẹn. Để mặc khải đó soi sáng ta. Chúa Thánh Thần dẫn dắt ta dần dần đi sâu vào sự thật.  Trong đời sống của một số người, ánh sáng của Chúa chiếu lên rất mạnh đến nỗi họ thấy “trời mở ra” (Kh 7, 56). Do đó mà có những nơi hành hương lớn như: Đức Mẹ Guadalupe ở Mêxicô, hoặc Đức Mẹ Lộ Đức bên Pháp. Những “mặc khải riêng tư” của những người đó không thể thay đổi Tin Mừng của Chúa Kitô, ta không buộc phải tin, nhưng giúp ta hiểu Tin Mừng tốt hơn. Hội thánh giúp ta đánh giá sự thật của các mặc khải đó.

Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách Thiên Chúa đă phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đă phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đă nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đă đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Dt 1,1-2

«      Ngoài Chúa Giêsu Kitô, ta không biết ǵ về đời sống ta, về cái chết của ta, cũng chẳng biết ǵ về Thiên Chúa và về cả chính ta nữa. Blaise Pascal

11.        Tại sao chúng ta phải loan truyền đức tin ?

-  Chúng ta phải loan truyền đức tin, v́ Chúa Giêsu đă truyền dạy: "Hăy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19). [91]

     Không một Kitô hữu thực thụ nào lại bỏ mặc việc truyền bá đức tin cho một ḿnh các nhà chuyên môn (thầy giáo, linh mục, nhà truyền giáo). Ta là Kitô hữu để cho những người khác, nghĩa là mỗi Kitô hữu thực thụ đều muốn cho Thiên Chúa cũng đến với những người khác nữa. Họ tự nhủ rằng: Chúa cần đến tôi. Tôi được rửa tội, thêm sức và trở nên người có trách nhiệm để các người chung quanh tôi hiểu biết Thiên Chúa và tiến tới nhận biết được sự thật (1 Tm 2,4). Mẹ Têrêsa đă dùng một so sánh rất hay “Bạn thường thấy những dây điện giăng trên đường lộ. Khi không có ḍng điện chạy qua dây th́ đèn điện không sáng. Chính bạn là dây điện. Thiên Chúa là ḍng điện. Ta có khả năng để ḍng điện chạy qua ta và ḍng điện ấy thắp sáng cho thế giới - à Giêsu - hoặc ta từ chối không cho ḍng điện chạy qua, như thế là ta phải chịu trách nhiệm về sự tối tăm của trần gian.” à 123

Điều tôi đă lănh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em. 1Cr 11,23

Truyền giáo: Truyền giáo là lẽ sống của Hội thánh. Đó là lệnh Chúa Kitô ban cho mọi Kitô hữu loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm để mọi người đều có thể tự do quyết định theo Chúa Kitô.

«      Thật là cần thiết, một cách khẩn cấp phải có một thế hệ tông đồ mới nổi lên, vừa bén rễ sâu trong lời Chúa, vừa có hoàn cảnh mang lại câu trả lời cho những câu hỏi của thời nay và vừa sẵn sàng loan truyền Tin Mừng đi khắp nơi. Đức Bênêđictô XVI, 22-02-2006

12.        Làm sao ta biết được đâu là đức tin chân chính ?

-  Chúng ta t́m thấy đức tin chân chính trong Kinh Thánh và trong Truyền Thống sống động của Hội Thánh (Thánh Truyền). [76, 80-82, 85-87, 97,100]

     Kinh Thánh Tân Ước phát sinh từ đức tin của Hội Thánh. Kinh Thánh và Thánh Truyền liên kết với nhau chặt chẽ. Việc loan truyền đức tin không dựa trước hết vào các văn bản đâu. Ở thời Hội Thánh khởi đầu, người ta nói rằng: “Trước khi Kinh Thánh được viết trên các cuộn da th́ đă được viết trong trái tim của Hội Thánh”. Các môn đệ và tông đồ đă có kinh nghiệm về một đời sống mới, dựa theo cách các ông sống cộng đồng với Đức Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu sống lại, cộng đồng các ngài đă tồn tại một cách khác, đó là cởi mở đón nhận mọi người. Các Kitô hữu đầu tiên “chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Họ đă hiệp nhất với nhau bằng cách để dành chỗ cho những người khác. Cho đến hôm nay, đức tin vẫn hoạt động như vậy. Các Kitô hữu mời các người khác sống hiệp thông với Thiên Chúa. Trong Hội Thánh Công Giáo, đời sống hiệp thông này luôn được duy tŕ nguyên vẹn không đổi khác từ thời các tông đồ.

«      Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết với nhau và thông truyền chặt chẽ với nhau. V́ cả hai đều vọt ra từ một nguồn như nhau là Thiên Chúa, làm thành một toàn thể và cùng hướng về một mục đích. Công đồng Vatican II, Dei Verbum

13.        Hội Thánh có thể sai lầm trong lănh vực đức tin không ?

-  Toàn thể các tín hữu không thể sai lầm về đức tin, v́ Chúa Giêsu đă hứa với các môn đệ Người rằng: "Người sẽ ban Thần Chân lư đến với họ, để giữ họ trong chân lư" (Ga 14,17).  [80-82, 85-87, 92, 100]

     Cũng như các môn đệ đă tin Chúa Giêsu với cả tấm ḷng, một Kitô hữu cũng có thể tin cậy hoàn toàn vào Hội thánh khi đi t́m con đường dẫn đến sự sống. V́ Chúa Giêsu Kitô đă đích thân ban lệnh cho các tông đồ giảng dạy, Hội thánh cũng có một Huấn quyền và Hội thánh không thể làm thinh. Thực ra, các cá nhân là chi thể Hội thánh có thể sai lầm và c̣n phạm cả những lỗi nặng, nhưng xét chung Hội thánh không bao giờ có thể rớt ra ngoài chân lư của Chúa. Qua các thế kỷ, Hội thánh mang một chân lư sống động lớn hơn cả chính Hội thánh. Đó là kho tàng đức tin mà Hội thánh phải giữ ǵn. Khi chân lư đó bị công khai nghi ngờ hoặc bóp méo, Hội thánh được mời gọi phải làm cho sáng lên “cái mà mọi nơi, mọi thời và mọi người vẫn tin.” Thánh Vincent Lérins (450)

Tông đồ (được sai đi): Trong Tân ước, tiếng này được dùng để chỉ mười hai người mà Chúa Giêsu đă chọn làm những cộng tác viên thân cận và chứng nhân của Người. Chính thánh Phaolô cũng đă tự giới thiệu ḿnh là tông đồ được Chúa Kitô kêu gọi.

Huấn quyền: Đây là sứ vụ giáo huấn Chúa Kitô trao cho các tông đồ và những người kế vị các Ngài, tất cả được Chúa Thánh Thần trợ giúp để hoàn thành.

14.        Những ǵ Kinh Thánh viết có xác thực không ?

-  “Các sách Kinh Thánh dạy sự thật (chân lư) cách chắc chắc, trung tín, và không sai lầm v́ đă được Chúa Thánh Thần linh hứng và có Thiên Chúa là tác giả.” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Mặc Khải 11). [103-107]

     Kinh thánh không phải đă có sẵn từ trời rơi xuống và cũng không phải do Thiên Chúa đọc cho các người máy (rôbot) chép lại. Trái lại Thiên Chúa “đă chọn lựa những người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ để khi chính Người hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những ǵ Chúa muốn và chỉ viết những điều đó thôi” (Vatican II, Hiến chế Mặc khải 11). Muốn nhận ra bản văn nào là thuộc Kinh thánh, cũng phải để ư xem các bản văn đó có được Hội thánh chấp nhận không. Cần phải có sự đồng thuận trong các cộng đồng Kitô giáo: “Quả thật, chính Thiên Chúa nói với ta qua bản văn - bản văn được Chúa Thánh Thần linh hứng.” Trong số rất nhiều bản văn của Hội Thánh sơ khởi, những bản văn thực sự được Chúa Thánh Thần linh hứng đều được quyết định từ thế kỷ IV trong cái mà ta quen gọi là qui điển các sách Kinh Thánh.

Linh hứng: Là ảnh hưởng của Thiên Chúa trên các nhà viết Kinh Thánh, giúp ta có thể coi chính Thiên Chúa như là tác giả của Kinh Thánh.

Quy điển: Là danh sách chính thức do Hội thánh quy định sách nào là sách Kinh thánh Cựu và Tân ước.

Kinh Thánh: Người Do Thái và Kitô hữu dùng từ Kinh Thánh để chỉ bộ Sách Thánh, được soạn thảo trong ṿng hơn một ngàn năm, làm nên một tài liệu trung tâm của đức tin. Kinh Thánh của Kitô giáo gồm nhiều tập hơn Kinh Thánh của Do Thái, v́ Kinh Thánh Kitô giáo c̣n bao gồm bốn sách Tin Mừng, các thư Thánh Phaolô, Sách Khải huyền và các tập viết khác của Hội Thánh sơ khởi.

«      Kinh Thánh là thư t́nh mà Thiên Chúa gởi cho ta. Soren Kierkegaard (1813-1855, triết gia Đan Mạch)

15.        Kinh Thánh có thể là chân lư sao được, v́ trong đó có những điều không chính xác ?

-  Kinh Thánh không có ư chuyển đạt cho ta những xác định về lịch sử, hoặc những thông tin về khoa học. Đàng khác, các người Thiên Chúa dùng để viết Kinh Thánh là những người thời đó. Họ chia sẻ những tư tưởng về văn hóa của thời đó, và có thể phạm những sai lầm của thời đó. Nhưng tất cả những điều ǵ con người cần biết về Thiên Chúa và về con đường cứu độ đều được t́m thấy trong Kinh Thánh cách chắc chắn, không thể sai lầm. [106-107, 109]

16.        Làm thế nào để đọc Kinh Thánh cho đúng ?

-  Muốn đọc Kinh Thánh cho đúng, cần đọc với tinh thần cầu nguyện, nghĩa là cần Chúa Thánh Thần giúp đỡ, v́ nhờ Chúa Thánh Thần mà Kinh Thánh được viết ra. Kinh Thánh chính là Lời của Thiên Chúa, và chứa đựng mặc khải của Thiên Chúa. [109-119, 137]

     Kinh Thánh như một bức thư dài Thiên Chúa gửi cho mỗi người chúng ta. Nên ta phải đón nhận Kinh Thánh với ḷng yêu mến và tôn trọng lớn lao: quan trọng trước hết là đọc thực sự lá thư của Thiên Chúa, nghĩa là không được lẩy ra các chi tiết mà bỏ qua toàn bộ bản văn. Rồi ta phải giải nghĩa sứ điệp đi từ điều là trung tâm và là mầu nhiệm, đó là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà toàn bộ Kinh Thánh kể cả Cựu ước nói đến. Đức tin mà ta phải có để đọc Kinh Thánh là đức tin sống động của Hội thánh là nơi đức tin được xuất phát. à 491

«      Suy gẫm thường ngày Lời Chúa và để cho Chúa Thánh Thần làm thầy của bạn, bạn sẽ thấy tư tưởng của Chúa không phải tư tưởng của loài người, bạn sẽ đạt tới chiêm ngắm Thiên Chúa thật, và nh́n mọi biến cố bằng con mắt của Chúa, bạn sẽ được nếm một niềm vui dồi dào phát xuất từ sự thật. Đức Bênêđictô XVI, 22-02-2006

 

Các sách Kinh Thánh:

Cựu Ước 46 sách

Tân Ước 27 sách

 

17.        Kinh Thánh Cựu ước có ư nghĩa ǵ đối với các Kitô hữu ?

- Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ ḿnh là Đấng Sáng Tạo và ǵn giữ thế giới, là Đấng lănh đạo và Đấng huấn luyện của loài người. Các sách Cựu Ước cũng là Lời Chúa và là Kinh Thánh. Không có Cựu ước, ta không thể hiểu về Chúa Kitô trong Tân Ước. [121-123, 128-130, 140]

     Để dạy đức tin cho ta, một lịch sử lớn bắt đầu từ Cựu ước rồi tới khúc ngoặt quyết định trong Tân ước và đi đến cùng đích với tận thế và việc Chúa Kitô trở lại. Cựu ước c̣n hơn là một lời chỉ mở đầu cho Tân ước. Những điều răn và các lời tiên tri cho Dân của Cựu ước và những lời hứa cho cả nhân loại chứa đựng trong Cựu ước không bao giờ bị hủy bỏ. Trong các sách Cựu ước có một kho tàng các kinh nguyện và các bản văn khôn ngoan không có ǵ thay thế được: đặc biệt các Thánh vịnh là trung tâm của kinh nguyện hằng ngày trong Hội thánh.

Cựu ước là phần đầu của Kinh Thánh và là Sách Thánh của Do Thái. Cựu ước của Hội thánh Công giáo gồm 46 sách: các sách lịch sử, các sách tiên tri và văn chương khôn ngoan cùng với các Thánh vịnh.

Tân ước: Phần thứ hai của Kinh Thánh, bao gồm những bản văn riêng của Kitô giáo, nghĩa là 4 Tin Mừng, Công vụ các Tông đồ, mười bốn thư của thánh Phaolô, bảy thư Công giáo và sách Khải huyền. (27 bản văn)

«      Kinh Thánh không được viết để ta phê b́nh nhưng để Kinh thánh phê b́nh ta.  Soren Kierkegaard

«      Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob không phải của những triết gia và nhà thông thái… Chỉ t́m được Thiên Chúa nhờ những đường lối mà Tin Mừng chỉ dạy. Blaise Pascal, sau một mặc khải của thần linh

18.        Kinh Thánh Tân ước có ư nghĩa ǵ đối với các Kitô hữu ?

-   Trong Tân ước, sự mặc khải của Thiên Chúa đă được trọn vẹn. Bốn sách Phúc Âm theo thánh Matthêu, Marcô, Luca, và Gioan là trung tâm của Kinh Thánh và là kho tàng quư giá nhất của Hội Thánh. Trong đó Chúa Kitô tỏ ḿnh ra Người là Ai và Người đến gặp gỡ chúng ta. Trong sách Công vụ Tông đồ, ta học biết Hội Thánh thuở ban đầu và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh. Trong các thư các Tông đồ viết, tất cả các hoàn cảnh của cuộc sống con người được đặt trong ánh sáng Chúa Kitô. Trong sách Khải huyền, ta thấy trước cuộc tận thế. [124-127, 128-130, 140]

     Chúa Giêsu là toàn bộ những ǵ Thiên Chúa muốn nói với ta. Tất cả Cựu ước sửa soạn cho việc Chúa Kitô nhập thể. Tất cả các lời hứa của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Chúa Giêsu. Là Kitô hữu là phải luôn hiệp nhất ngày càng chặt chẽ với Chúa Kitô. Muốn thế phải đọc các Tin Mừng và sống theo. Bà Madeleine Delbrel nói rằng: “Nhờ Lời của Người, Thiên Chúa nói với ta. Người là ai và Người muốn ǵ; Người nói một lần thay cho tất cả, Người nói cho ta mỗi ngày...khi ta cầm Tin Mừng trong tay, ta phải nghỉ rằng trong đó có chứa Ngôi Lời, muốn làm người nơi ta, muốn chiếm đoạt ta để trái tim Người ghép vào trái tim ta và tinh thần của Người mắc nối vào tinh thần ta, để chúng ta lại bắt đầu cuộc sống của Người trong một nơi khác, một thời khác, một xă hội loài người khác.”

«      Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô.  Thánh Jérome (347- 419, giáo phụ, tiến sĩ, nhà chú giải và dịch giả Kinh Thánh)

«      Chỉ khi ta gặp được Thiên Chúa hằng sống trong Chúa Kitô, ta mới hiểu được sự sống là ǵ. Không có ǵ đẹp hơn là được nối kết lại, được ngạc nhiên sửng sốt bởi Tin Mừng, bởi Chúa Kitô. Đức Bênêđictô XVI, 24-04-2005

19.        Kinh Thánh giữ vai tṛ nào trong Hội Thánh ?

 Hội Thánh múc lấy sự sống và sức mạnh của ḿnh từ trong Kinh Thánh. [103-104, 131-133, 141]

     Ngoài sự hiện diện của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, Hội thánh không có sự tôn sùng nào khác quan trọng hơn là tôn sùng sự hiện diện của Chúa trong Kinh Thánh. Trong thánh lễ việc đọc Tin Mừng được mọi người đứng nghe v́ trong các lời lẽ loài người mà ta nghe, có chính Thiên Chúa nói cho ta  à 128

«      Kinh Thánh không thuộc về quá khứ. Chúa Giêsu không nói cho thời quá khứ mà Người nói cho hiện tại, người nói hôm nay với ta, Người ban tặng ta ánh sáng, Người chỉ cho ta con đường đến sự sống; Người hiến cho ta một cộng đoàn, Người chuẩn bị cho ta như vậy và mở đường b́nh an cho ta. Đức Bênêđictô XVI, 29-03-2000

«      Đọc Kinh Thánh là hỏi ư kiến của Chúa Kitô.  Thánh Phanxicô Assidi (1182-1226, sáng lập ḍng, nhà thần bí)

 

 

Chương 3. Con người đáp lời Thiên Chúa

 

20.        Chúng ta có thể trả lời Thiên Chúa thế nào khi Người nói với chúng ta ?

-  Chúng ta trả lời Thiên Chúa khi chúng ta tin Người.  [142-149]

     Người muốn tin cần có một tấm ḷng biết nghe theo lương tri (1V 3, 9). Thiên Chúa t́m tiếp xúc với ta bằng nhiều cách. Mỗi lần gặp gỡ ai, mỗi lần thán phục trước quang cảnh thiên nhiên, mỗi việc t́nh cờ hiển nhiên, mỗi thách đố, mỗi đau khổ đều có ẩn giấu một sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi ta. Một cách rơ ràng hơn, Người muốn nói với ta qua Lời Người hoặc qua tiếng lương tâm của ta. Người nói với ta như nói với những người bạn. Như vậy, ta cần trả lời Người, hoàn toàn trông cậy vào Người, học hỏi để hiểu biết Người hơn và đón nhận ư muốn Người không có giới hạn.

21.        Đức tin là ǵ ?

-  Đức tin là nhận biết và trông cậy. Đức tin có 7 đặc tính sau:

1/       Đức tin là ơn ban tuyệt vời của Thiên Chúa, ta nhận được khi ta sốt sắng cầu xin.

2/       Đức tin là sức mạnh siêu nhiên, tuyệt đối cần thiết để ta được cứu độ.

3/       Đức tin đ̣i phải có ư muốn tự do và sự hiểu biết rơ ràng, khi ta đáp lại lời mời của Thiên Chúa.

4/       Đức tin là sự chắc chắn tuyệt đối, v́ chính Chúa Giêsu bảo đảm như thế.

5/       Đức tin chỉ trọn vẹn, khi đức tin được thể hiện qua những việc bác ái.

6/       Đức tin lớn dần khi ta luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đối thoại sống động với Người trong cầu nguyện.

7/       Đức tin cho ta nếm cảm trước niềm vui Thiên đàng ngay ở đời này. [153-165, 179-180, 183-184]

     Đức tin c̣n hơn là hiểu biết rất nhiều, đức tin là một cậy trông. Chính đức tin đă làm cho Abraham di cư sang Đất Hứa, đă khiến cho các vị tử đạo trung thành cho đến chết; và ngày nay, đức tin c̣n nâng đỡ các Kitô hữu bị bách hại. Đức tin chiếm đoạt toàn bộ con người. à 307

Nếu anh em có ḷng tin lớn bằng hạt cải th́ dù anh em có bảo cây dâu này: hăy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em. Lc 17,16

«      Đức tin tự bản tính là chấp nhận một chân lư mà trí khôn không thể đạt tới; đức tin dựa vào bằng chứng một cách đơn giản và cần thiết.Chân phước John Henry Newman (1801 – 1890, trở lại Công giáo, sau làm Hồng y của Hội Thánh Công giáo, triết gia Anh và thần học gia)

22.        Tin nghĩa là ǵ ?

-  Tin là đi vào một tương quan cá vị với Thiên Chúa, và sẵn sàng đón nhận tất cả những ǵ Thiên Chúa mặc khải về chính Ngài. [150-152]

     Khi bắt đầu tin con người thường cảm thấy ḿnh rung động hoặc âu lo. Con người cảm thấy thế giới hữu h́nh và mọi việc thường xảy ra chưa phải là tất cả. Khi tin là họ cảm thấy xúc động v́ đụng chạm đến một mầu nhiệm. Rồi họ lần theo các dấu vết đưa dẫn họ tới sự hiện hữu của Thiên Chúa và dần dần thấy ḿnh tin tưởng để nói với Người, rồi cuối cùng họ tự nguyện bước vào mối tương quan với Người. Trong Tin Mừng thánh Gioan ta đọc rằng: Thiên Chúa, chưa có ai thấy bao giờ; chỉ có Con duy nhất ở trong ḷng Cha là Chúa Ki tô, chính Người mới dẫn dắt cho họ hiểu biết Thiên Chúa. V́ thế ta phải tin Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, nếu ta muốn biết Thiên Chúa muốn nói ǵ với ta. Tin có nghĩa là đồng thuận với Đức Giêsu và đặt cược toàn bộ đời ḿnh cho Người.

«      Tin nghĩa là chịu đựng sự khó hiểu của Thiên Chúa suốt đời. Karl Rahner (1904-1984, thần học gia Đức)

«      Tôi không tin nếu tôi không nhận thấy rằng tin là điều hợp lư. Thánh Tôma Aquinô

«      Tin vào Thiên Chúa là thấy rằng trong các thực tại của thế giới tất cả chưa được nói đến. Tin vào Thiên Chúa là thấy rằng cuộc đời có một ư nghĩa. Ludwig Wittgenstein (1889-1951, triết gia Áo)

«      Cái mà ta tin là điều quan trọng, nhưng c̣n quan trọng hơn nữa là ta tin vào ai. Đức Bênêđictô XVI, 28-05-2005

«      Tôi tin để hiểu. Thánh Anselmô Cantorbery (1033-1109,  tiến sĩ Hội Thánh, thần học gia Trung Cổ)

«      Tôi không có tưởng tượng. Tôi không thể h́nh dung ra Thiên Chúa Cha. Tất cả điều tôi có thể thấy là Chúa Giêsu. Chân phước Têrêsa Calcutta (1910-1997,sáng lập ḍng. Đoạt giải Nobel về ḥa b́nh 1979)

23.        Có sự xung khắc giữa đức tin với khoa học không ?

-  Chẳng có sự xung khắc nào giữa đức tin với khoa học mà không giải quyết được, v́ không thể có 2 loại chân lư. [159]

     Thiên Chúa đă dự liệu cho có cả đức tin và khoa học để giúp đỡ nhau. Đó là lí do tại sao đức tin Kitô giáo khích lệ và cổ vũ các khoa học, kể cả các khoa học tự nhiên. Nhờ đức tin, ta hiểu biết các thực tại vượt quá khả năng của trí tuệ ta, nhưng chúng lại có thật mặc dầu không thể dùng lư trí đạt được. Đức tin nhắc nhớ cho các khoa học rằng các khoa học không được thay thế Thiên Chúa mà phải phục vụ cho thế giới vạn vật và tôn trọng phẩm giá của con người.

«      Không ai có thể hiểu được các thực tại thần linh hay nhân loại nếu không nghiêm chỉnh học toán học trước. Thánh Augustinô (354-430, tiến sĩ Hội Thánh, văn sĩ và thần học gia thời Hội Thánh đầu tiên)

«      Chúng tôi không thấy có xung khắc giữa Thiên Chúa và khoa học. Cả hai bên không loại trừ nhau như ngày nay có người tin như vậy hoặc nghi ngờ như vậy, cả hai bổ túc cho nhau và chồng chéo lên nhau. Max Planck (1858-1947, nhà vật lư học, giải Nobel 1918, sáng lập lư thuyết các quanta)

24.        Đức tin của tôi có liên quan ǵ đến Hội Thánh ?

-  Không ai có thể tin một ḿnh, cũng như không ai tự sống một ḿnh. Chúng ta nhận đức tin từ Hội Thánh và sống đức tin trong t́nh hiệp thông với những ai cùng chung niềm tin vào Thiên Chúa. [166-169, 181]

     Đức tin là một điều rất riêng của con người, nhưng không phải v́ thế mà nó là chuyện riêng tư của họ. Người muốn tin phải có thể nói “tôi” cũng như nói “chúng tôi”, bởi v́ một đức tin mà  ta không thể chia sẻ hoặc thông truyền th́ quả là vô lư. Cá nhân người tin tự ư dính kết với “chúng tôi tin” của Hội Thánh. Chính là từ Hội Thánh mà họ nhận được đức tin. Qua các thế kỷ, Hội Thánh đă truyền bá đức tin, đă bảo vệ khỏi mọi xuyên tạc và đă để cho ánh sáng đức tin luôn không ngừng soi chiếu.  Do đó, đức tin là tham gia vào một xác tín tập thể. Đức tin của những người khác nâng đỡ tôi, cũng như lửa đức tin của tôi đốt lên hoặc làm cho mạnh lên lửa của những người khác. Chữ “tôi” và “chúng tôi” của đức tin được nhấn mạnh bởi việc Hội Thánh dùng hai bản tuyên xưng đức tin trong khi cử hành thánh lễ: kinh tin kính các thánh Tông đồ bắt đầu bằng “Tôi tin” và kinh tin kính Công đồng Nixê-Constantinople bắt đầu bằng “Chúng tôi tin” (h́nh thức xưa nhất).

Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, th́ có Thầy ở đó giữa họ. Mt 18,20

Credo: Tiếng này dùng để chỉ các kinh tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, trong đó các yếu tố chính của đức tin được sắp xếp có trật tự.

 

 

ĐOẠN II: KITÔ HỮU TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

 

25.        Tại sao đức tin đ̣i có định nghĩa và cần công thức hóa thành những tín biểu ?

-  Khi diễn tả Đức tin, ta không nói những lời trống rỗng, nhưng là nói một thực tại. Trải qua bao thế kỷ, nội dung đức tin được Hội Thánh công thức hóa trong kinh Tin kính. Qua kinh này, ta có thể chiêm ngắm, suy gẫm, học hỏi, chia sẻ, cử hành và sống thực tại đức tin. [170-174]

     Không có công thức cố định, nội dung của đức tin sẽ rời rạc. V́ thế Hội Thánh rất chú trọng đến một vài câu mà bản văn chính xác chỉ có được trải qua nhiều khó khăn, cốt để bảo vệ sứ điệp của Chúa Kitô khỏi những hiểu lầm và sai lạc. Các công thức đức tin đặc biệt quan trọng khi được dịch sang các ngôn ngữ khác nhau mà vẫn không bị thay đổi bản chất. Bởi v́ đức tin chung là nền tảng cho sự hiệp nhất của Hội Thánh.

«      Hội Thánh cẩn thận giữ ǵn [đức tin và sứ điệp của các tông đồ], dường như Hội Thánh chỉ ở trong một nhà duy nhất; cũng vậy Hội Thánh tin vào các chân lư đó dường như Hội Thánh chỉ có một linh hồn và một trái tim duy nhất; Hội Thánh nhất trí công bố các chân lư, giảng dạy và thông truyền chúng dường như Hội Thánh chỉ có một miệng lưỡi. Thánh Irênê ở Lyon (khoảng 135-202, giáo phụ)

26.         Kinh Tin kính là ǵ ?

-  Kinh Tin kính là những công thức vắn tắt của đức tin, để các tín hữu có thể cùng nhau tuyên xưng chung một niềm tin. [185-188, 192-197]

     Thư của Thánh Phaolô đă chứa đựng nhiều công thức vắn tắt. Kinh Tin Kính của các tông đồ mà Hội Thánh ban đầu soạn ra, có giá trị đặc biệt v́ được coi là Kinh tóm tắt đức tin của các tông đồ. C̣n Kinh Tin Kính của Công đồng Nixêa cũng rất đáng tôn trọng v́ được xuất phát từ các Công đồng của Hội Thánh (Công đồng Nixêa 325, Công đồng Công-tan-tinốp 381). Cho đến ngày nay, kinh này là nền chung cho các Kitô hữu Đông cũng như Tây phương.

«      Ước mong Kinh Tin Kính như là tấm gương để bạn soi. Bạn hăy nh́n bạn trong đó: để xem bạn có tin tất cả những ǵ bạn tuyên bố là bạn tin không. Bạn hăy vui mừng mỗi ngày về đức tin của bạn. Thánh Augustinô

«      Không ai sống một ḿnh, không ai tin một ḿnh. Thiên Chúa nói với ta. Người làm thế để tập họp ta lại. Người thiết lập một cộng đồng là dân Người, là Hội thánh Người. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Hội Thánh là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa trong trần gian. Basile de Césarée (thế kỷ V, giám mục)

27.        Kinh Tin kính có từ khi nào ?

-  Từ thời Chúa Giêsu, khi Người truyền dạy các môn đệ Rửa tội cho những ai tin. Họ phải công khai tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. (à Ba Ngôi).

     Nền móng của tất cả việc tuyên xưng đức tin sau này là tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Chúa và Người đă trao cho những ai tin một sứ vụ: hăy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chua Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28,19). Tất cả mọi người tuyên xưng đức tin của Hội Thánh đều là khai triển đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, bắt đầu luôn luôn là tuyên xưng Chúa Cha, Đấng tạo thành trời đất và duy tŕ cho nó sống. Rồi tiếp theo là Chúa Con, Đấng đă đem sự giải thoát cho thế giới và cho mỗi người chúng ta. Cuối cùng là Chúa Thánh Thần, Đấng là sự hiện diện của Thiên Chúa trong Hội Thánh và trong thế giới.

28.        Kinh Tin kính Các thánh tông đồ dạy ǵ ?

- Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.(1)

  Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi,(2)

             bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh bởi Bà Maria Đồng Trinh,(3)

          chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác,(4)

          xuống ngục Tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại,(5)

          lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng, (6)

          ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.(7)

  Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.(8)

  Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này. Các Thánh thông công.(9)

  Tôi tin phép tha tội.(10)

  Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.(11)

  Tôi tin hằng sống vậy.(12) Amen.

29.        Kinh Tin kính Công đồng Nixêa (Nixêa-Côngtantinốp) dạy ǵ ?

-  Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng,

          Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu h́nh và vô h́nh.

   Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa,

       Sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời:

Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng,

       Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.

Được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha ;

      nhờ Người mà muôn vật được tạo thành.

       V́ loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta,

       Người đă từ trời xuống thế;

Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đă nhập thể  trong ḷng Trinh Nữ Maria,

       và đă làm người.

Người chịu đóng đinh vào thập giá v́ chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô,

       Người chịu khổ h́nh và mai táng.

       Ngày thứ ba, Người sống lại như lời Thánh Kinh,

       Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha,

       và Người sẽ lại đến trong vinh quang,

       để phán xét kẻ sống và kẻ chết,

       Nước Người sẽ không bao giờ cùng.

   Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần,

       là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống;

       Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra.

Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con;

       Người đă dùng các tiên tri mà phán dạy.

   Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.

   Tôi tuyên xưng có một Phép Rửa để tha tội.

   Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen.

 

 

Chương 1. Tôi tin Thiên Chúa Cha

 

30.       Tại sao chúng ta tin chỉ có Một Thiên Chúa ?

-  Chúng ta tin chỉ có Một Thiên Chúa, v́ theo chứng cớ Kinh Thánh, chỉ có một Thiên Chúa, và theo luật lư luận (logic) chỉ có thể có Một Thiên Chúa. [200-202, 228]

     Giả như có hai Chúa th́ một trong hai sẽ là giới hạn của nhau, không ai là không giới hạn, không ai là hoàn hảo; do đó không ai trong hai là Thiên Chúa (à Yahvê). Dân Israel đă diễn tả kinh nghiệm nền tảng của họ rằng: Hăy nghe hỡi Israel, Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất (Đnl 6,4). Các tiên tri không ngừng kêu gọi dân từ bỏ các tà thần và quay về với Thiên Chúa duy nhất: chính Ta là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác (Is 45, 22).

Chúa Giêsu trả lời, "Điều răn đứng đầu là, nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết ḷng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Mc 12,29-30

Độc thần: Giáo thuyết về Thiên Chúa là duy nhất, tuyệt đối và có ngôi vị, Người là nền móng cuối cùng của muôn vật. Các tôn giáo độc thần là Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo.

31.        Tại sao Thiên Chúa tự cho ḿnh một tên gọi ?

-  Thiên Chúa tự cho ḿnh một tên gọi để ta được dễ dàng hơn khi kêu cầu đến Người. [203-213, 230-231]

     Thiên Chúa không muốn để không ai biết được ḿnh. Người không muốn tôn kính như một “Đấng Tối cao” mà người ta chỉ cảm thấy hay đoán ra. Thiên Chúa muốn được nhận biết và kêu cầu như một Đấng hiện hữu thật và hoạt động. Trong bụi gai đang cháy Thiên Chúa cho ông Môsê biết tên của Người YHWH (Xh 3,14). Thiên Chúa tự làm cho dân có thể đến với Người, tuy nhiên Người vẫn là Thiên Chúa ẩn giấu, là mầu nhiệm đang có mặt. Ở Israel để tôn kính Thiên Chúa, người ta không đọc (và không bao giờ đọc) tên Thiên Chúa. Người ta thay thế bằng tiếng Adonai (Chúa). Tân ước dùng từ Chúa để tôn kính Đức Giêsu như Thiên Chúa thật: Giêsu là Chúa (Rm 10,9).

Ông Môsê nói với chúa: Tôi sẽ t́m đến dân Do Thái và nói với họ: “Thiên Chúa của cha ông các người sai tôi đến với các người”. Nhưng nếu họ hỏi: “Người tên là ǵ ?” “Tôi sẽ nói với họ thế nào?” Thiên Chúa bảo Môsê: “Ta là Đấng hiện hữu”. Rồi nói thêm: Ngươi sẽ nói cho dân Israel thế này: “Đấng hiện hữu” đă sai tôi đến với các ngươi. Người c̣n nói với Môsê: “Yahvê, Thiên Chúa của cha ông các ngươi, của Abraham, của Israel, của Jacob đă sai tôi đến với các ngươi. Đây là tên của Người cho đến muôn đời, người ta sẽ gọi Ta bằng tên đó từ đời nọ sang đời kia”. Xh 3, 13-15

YHWH/Yahvê: Là tên quan trọng nhất Cựu ước dùng để gọi tên Thiên Chúa (Xh 3,14). Có thể dịch là “Ta là”. Đối với dân Do Thái cũng như Kitô hữu, tên ấy có ư chỉ Thiên Chúa duy nhất của trái đất, Đấng sáng tạo, Đấng duy tŕ cho có thể hiện hữu, Đấng là đối tác của giao ước, Đấng giải thoát khỏi nô lệ Ai Cập, Đấng xét xử và cứu độ.

32.        Khi nói Thiên Chúa là Đấng Chân thật có nghĩa là ǵ ?

-  Nghĩa là Thiên Chúa là sự Sáng, trong Thiên Chúa không có tối tăm (1Ga 1, 5). Lời của Chúa là sự thật (Cn 8,7). Luật của Người là sự thật (Tv 119, 142). Chính Chúa Giêsu bảo đảm về sự thật của Thiên Chúa trước ṭa Philatô "Ta sinh ra, Ta đến thế gian để làm chứng cho sự thật.“ (Ga 18, 37). [214-217]

     Không  đặt Thiên Chúa vào một tiến tŕnh thử nghiệm v́ khoa học không thể lấy Thiên Chúa như một đồ vật để khảo sát. Tuy nhiên chính Thiên Chúa cũng chịu đặt trong một tiến tŕnh thử nghiệm riêng biệt. Ta biết rằng Thiên Chúa là sự thật, v́ Chúa Giêsu là Đấng tuyệt đối đáng tin cậy. Người là con đường, là sự thật, là sự sống (Ga 14, 6). Tất cả những ai tin cậy vào người có thể khám phá ra Người và có kinh nghiệm về Người. Nếu Thiên Chúa không là “sự thật”, đức tin và lư trí không thể nào đối thoại được với Người. Tuy nhiên hai bên có thể thỏa thuận được v́ Thiên Chúa là sự thật và sự thật là Thiên Chúa.

«      Chúa Giêsu Kitô là sự thật làm Người, lôi kéo thế giới đến với Người. Ánh sáng từ Chúa Giêsu phát ra chính là sự huy hoàng của sự thật. Mọi thứ sự thật khác chỉ là một mảnh của sự thật là Chúa Giêsu và phải phản chiếu về Người. Đức Bênêđictô XVI, 18-02-2006

33.        Khi nói Thiên Chúa là T́nh yêu có nghĩa là ǵ ?

 -  Nghĩa là Thiên Chúa dựng nên mọi sự, bao bọc mọi sự với ḷng nhân từ vô biên của Người. Người không chỉ tuyên bố Người là T́nh yêu mà c̣n làm chứng cho T́nh yêu: "Không ai có T́nh yêu lớn hơn người đă chết cho bạn ḿnh" (Ga 15,13).  [218-221]

     Không một tôn giáo nào nói như Kitô giáo đă nói: Thiên Chúa là T́nh Yêu (Ga 4, 8.16). Đức Tin quả quyết rất mạnh mẽ như thế đến nỗi kinh nghiệm về đau khổ và về sự dữ trên thế giới đă khiến người ta phải hồ nghi rằng thực sự Thiên Chúa có đúng là T́nh Yêu không. Ngay trong Cựu ước Thiên Chúa đă dùng miệng tiên tri Isaia nói với dân Chúa rằng: V́ ngươi có giá trước mắt Ta, có giá trị và Ta yêu mến ngươi, Ta lấy các dân thay mạng ngươi, Ta thế đất đai thay cho ngươi. Đừng sợ, v́ có Ta ở với ngươi (Is 43, 4-5). Người c̣n nói rằng: Người mẹ nào lại quên con đẻ của ḿnh, cạn ḷng thương với con dạ nó đă mang? Cho dù chúng quên được nữa th́ phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi. Này ta đă khắc ngươi trên bàn tay ta (Is 49,14-15). Khi Chúa Giêsu hiến ḿnh cho các bạn ḿnh trên thập giá, Người chứng minh rằng những lời Người nói về t́nh yêu Thiên Chúa không phải không có ư nghĩa ǵ.

«      Mẹ Têrêsa có kinh nghiệm rằng t́nh yêu đích thực là phải khổ. Nó luôn luôn phải làm khổ và cũng luôn phải đau khổ v́ yêu một người nào đó; đau khổ v́ phải bỏ nhau, người ta c̣n muốn chết cho người đó nữa. Khi người ta kết hôn, họ phải từ bỏ mọi sự để yêu nhau. Người mẹ khi sinh con phải đau khổ nhiều. Chữ “t́nh yêu” đă bị người ta hiểu sai quá nhiều và bị sử dụng sai quá nhiều. Mẹ Têrêsa

34.        Bạn sẽ làm ǵ khi bạn đă nhận biết Thiên Chúa ?

-  Khi đă nhận biết Thiên Chúa, bạn phải đặt Người lên chỗ nhất trong cuộc đời bạn. Được như thế, đời sống mới của bạn sẽ bắt đầu. Bạn phải làm cho người ta biết Kitô hữu c̣n yêu thương cả kẻ thù nghịch của ḿnh. Nhận biết Thiên Chúa mà chỉ gật đầu một chút th́ không đủ. Kitô hữu c̣n phải chấp nhận sống theo lối sống của Người. [222-227, 229]

     Nhận biết Thiên Chúa là nhận biết sự có mặt của Đấng đă tạo ra chúng ta, đă muốn ta có, đă nh́n ta với t́nh yêu mến từng giây phút, chúc phúc cho đời ta và ǵn giữ đời ta, Đấng nắm trong tay trái đất và tất cả những ǵ ta yêu thích, dẫn ta đến chỗ hoàn thiện, chờ đợi ta nhẫn nại, muốn ta được măn nguyện, ước mong ta luôn bên Người.

«      Thiên Chúa thật là mẹ ta cũng như thật là cha của ta vậy. Chân phước Juliana de Norwich (1342–1413 nhà thần bí Anh)

«      Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, hăy loại bỏ khỏi con những ǵ làm con xa cách Chúa. Lạy Chúa là Chúa con, xin ban cho con tất cả những ǵ lôi kéo con tới Chúa. Lạy Chúa là Chúa con, xin giữ lấy con cho con và hăy ban cho con hoàn toàn cho Chúa. Thánh Nicôlas de Flice (1417-1487, nhà thần bí, ẩn tu Thụy sĩ)

«      Từ khi tôi biết là có Thiên Chúa, tôi không thể làm ǵ khác hơn là chỉ sống cho Chúa. Chân Phước Charles de Foucault (1858-1916, Kitô hữu ẩn tu trong sa mạc Sahara)

35.        Chúng ta tin vào 1 Thiên Chúa hay 3 Thiên Chúa ?

-  Chúng ta tin vào Một Thiên Chúa, trong Ba Ngôi. “Thiên Chúa không đơn độc, nhưng hiệp thông trọn vẹn với nhau” Đức Bênêđictô XVI, 22/5/2005.  [232-236, 249-256, 261, 265-266]

     Kitô hữu không cầu nguyện với Ba Chúa khác nhau nhưng chỉ một Chúa duy nhất thôi, Người là Ba Ngôi và chỉ là một Chúa thôi. Ta biết được Thiên Chúa là Ba Ngôi nhờ Chúa Giêsu Kitô, Người là Con và nói về Cha Người ở trên trời (Tôi với Cha chỉ là một, Ga 10,30). Người cầu nguyện Cha và ban cho ta Thánh Thần là T́nh Yêu giữa Cha và Con. V́ thế chúng ta được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. (Mt 28,19)

Ba ngôi: Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất nhưng Người lại là ba ngôi. Khi muốn chú ư đến việc chỉ có một Chúa, ta dùng Thiên Chúa ba ngôi; khi muốn nói đến ba ngôi vị khác nhau, ta dùng Thiên Chúa là ba ngôi vị chứ không phải Thiên Chúa có ba ngôi. Ta thấy khó có thể diễn tả mầu nhiệm này.

«      Khi nói đến t́nh yêu là nói đến Thiên Chúa ba ngôi, một ngôi yêu, một ngôi được yêu và một ngôi là nguồn mạch của t́nh yêu. Thánh Augustinô

36.        Chúng ta có thể nhờ suy đoán mà kết luận rằng Thiên Chúa là Ba ngôi không ?

-  Không. Thiên Chúa Ba ngôi là một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của trí khôn ta. Ta chỉ biết được nhờ Chúa Kitô dạy cho. [237]

     Chỉ dùng trí khôn mà thôi con người không thể kết luận là có Thiên Chúa Ba Ngôi được. Tuy nhiên mầu nhiệm này không tuột khỏi lư trí khi con người đón nhận Mặc Khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Nếu Thiên Chúa là cô đơn và cô độc th́ Thiên Chúa không thể yêu thương từ thuở đời đời được. Nhờ Chúa Giêsu soi sáng, ta có thể thấy những dấu vết của Thiên Chúa Ba Ngôi ngay trong Cựu ước (chẳng hạn St 1,2; 18,2; 2S 23,2) và ngay cả trong vạn vật.

37.        Tại sao lại gọi Thiên Chúa là "Cha "?

-  Ta tôn vinh Thiên Chúa là Cha, trước hết v́ Người là Đấng Sáng Tạo, và hằng yêu thương săn sóc các thụ tạo của Người. Chúa Giêsu Con Thiên Chúa đă dạy ta điều đó, hơn nữa, c̣n coi Cha Người như là Cha chúng ta, và dạy ta thưa với Người "Lạy Cha chúng con." [238-240]

     Nhiều tôn giáo có trước Kitô giáo đă gọi Thiên Chúa là “Cha”. Ở Israel, trước Chúa Giêsu, người ta đă thưa với Thiên Chúa là Cha (Đnl 32,6; Ml 2,10) và biết rằng Thiên Chúa cũng là Mẹ (Is 66,13). Theo kinh nghiệm loài người, cha mẹ được coi như nguồn gốc và quyền bính để con cái được nương tựa và nâng đỡ. Chúa Giêsu Kitô biết Thiên Chúa là Cha thật như thế nào: Ai thấy Ta là thấy Cha (Ga 14,9). Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, Chúa Giêsu thể hiện những khát vọng sâu xa nhất của con người đối với Cha hay thương xót. à 511-527

«      Việc nhớ đến người cha soi sáng căn tính sâu xa nhất của con người: ta bởi đâu mà ra, ta là ai và phẩm giá cao quư của ta. Chắc chắn ta bởi cha mẹ mà có và ta là con của các ngài, nhưng ta cũng bởi Chúa mà có, Chúa đă tạo dựng ta theo h́nh ảnh của Người và cũng đă kêu gọi ta là con của Chúa. V́ thế, nguồn gốc của mọi con người không do bất ngờ hoặc t́nh cờ, mà do dự định của t́nh yêu Thiên Chúa. Đó là một điều mà Chúa Giêsu Kitô Đấng là Thiên Chúa và là người hoàn hảo đă mặc khải cho ta. Người biết Người bởi ai mà có và bởi ai mà tất cả chúng ta có: bởi t́nh yêu của Cha Người và Cha của chúng ta. Đức Bênêđictô XVI, 09-07-2006

38.        Chúa Thánh Thần là Ai ?

-  Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba trong Ba Ngôi. Người là Thiên Chúa và chia sẻ cùng một uy quyền như Ngôi Cha và Ngôi Con. [243-248, 263-264]

     Khi ta khám phá ra thực tại về Thiên Chúa trong ta, là ta nhờ ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa đă sai Thần khí của con ḿnh đến trong ḷng ta (Gl 4, 6) để nghe lời ta đầy đủ. Trong Chúa Thánh Thần, một Kitô hữu được một niềm vui sâu xa, một sự b́nh an bên trong và tự do. Thần khí mà anh em đă lănh nhận được đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng là Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên “Abba! Cha ơi!” (Rm 8, 15). Trong Chúa Thánh Thần mà ta lănh nhận khi được rửa tội và thêm sức, ta có thể nói với Thiên Chúa: “Cha ơi”.

à 113-120, 203-207, 310-311.

«      Xin Chúa Thánh Thần Đấng sáng tạo đến thăm chúng con. Xin soi sáng tâm hồn con cái của Người. Xin đổ tràn đầy ḷng chúng con ân sủng và ánh sáng. Người là Đấng tạo dựng mọi sự bằng t́nh yêu. Thánh Raban Mawr, Ca vịnh Veni Greator, thế kỷ IX

39.        Chúa Giêsu có phải là Thiên Chúa không ? Người có thuộc về Ba Ngôi không ?

-  Đức Giêsu Nazaret là Ngôi Con, Ngôi thứ Hai trong Ba Ngôi mà chúng ta kể tới khi làm dấu Thánh giá: "Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). [243-260]

     Hoặc Chúa Giêsu là kẻ lừa bịp khi Người tự giới thiệu là Chủ ngày Sabbat và cho phép người ta gọi Người là Chúa; hoặc Người là Thiên Chúa thật. Giả sử Chúa Giêsu không phải là Thiên Chúa, th́ Người đă mắc tội phạm thánh khi Người tha thứ tội lỗi. Tội này là tội đáng phải chết, trước mắt những người đương thời. Nhờ các phép lạ và các dấu hiệu, đặc biệt là Người đă sống lại, mà các môn đệ khám phá ra ai thật sự là Chúa Giê su và họ tôn thờ Người như Chúa. Đó là Đức tin của Hội Thánh.

Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm v́ quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Ga 13,13

V́ dưới gầm trời này không có một danh nào khác đă được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ. Cv 4,12

40.        Thiên Chúa có thể làm bất cứ việc ǵ không? Người có Toàn năng không ?

Đối với Thiên Chúa, không có ǵ Người không làm được (Lc 1,37). Người là Đấng toàn năng. [268-278]

     Ta tin là Thiên Chúa Toàn năng nên mới kêu cầu Người khi cần thiết. Người đă từ không mà tạo dựng vũ trụ. Người là chủ lịch sử, điều khiển mọi loài. Nhưng cách Người tự do sử dụng quyền toàn năng của Người là một mầu nhiệm. Người ta thường đặt câu hỏi: “Vậy Thiên Chúa ở đâu”? Người dùng tiên tri Isaia để trả lời: Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng các ngươi, và đường lối của Ta không phải đường lối các ngươi (Is 55,8). Có khi Người chỉ tỏ quyền toàn năng khi nào con người đă hết hy vọng. Người bất lực vào thứ Sáu Tuần Thánh là để Người sống lại vinh hiển.  à 51, 478, 506-507

Tôi biết Chúa của chúng ta Người thật lớn lao, vượt trên mọi thần. Hễ muốn ǵ Người làm nấy, trên trời dưới đất, trong biển và tất cả các vực thẳm. Tv 135, 5-6

Abba, Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Mc 24,36

Quả thế, những ǵ có trong vạn vật, Người đều yêu mến, Người không nhờm tởm sự ǵ Người đă làm ra, v́ Người nắn nên ǵ, Người không ghét bỏ. St 11, 24

41.        Khoa học có làm cho Đấng Tạo thành ra dư thừa không ?

- Không. Nói rằng "Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ" không phải là một câu nói dựa vào một thứ khoa học đă lỗi thời. Đó là câu nói theo thần học, nghĩa là câu nói xác định địa vị của vũ trụ trước Thiên Chúa và xác định vũ trụ có nguồn gốc do Thiên Chúa. [282-289]

     Tường thuật về cuộc sáng tạo không phải để giải nghĩa theo khoa học về khởi đầu của thế giới. “Thiên Chúa đă sáng tạo thế giới” đó là một quả quyết thần học trong đó nói đến vấn đề tương quan giữa thế giới và Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn có thế giới, người theo dơi thế giới và muốn đưa thế giới đến chỗ hoàn thành. Được sáng tạo đó là một đặc tính gắn liền với mọi vật và là một chân lư sơ đẳng về mọi vật.

42.        Có thể vừa chấp nhận thuyết tiến hóa, vừa tin vào Đấng Tạo thành không ?

-  Được. Dù nó khác nhau trong nhận thức. Đức tin mở rộng cho khoa học đưa ra những t́m kiếm và những giả thuyết. [282-289]

     Thần học không có thẩm quyền về khoa học, cũng như khoa học không có thẩm quyền về thần học. Khoa học không thể dứt khoát từ chối về chủ đích có trong quá tŕnh tiến hóa của vạn vật. Ngược lại, đức tin không thể xác định về phương pháp mà quá tŕnh tiến hóa của thiên nhiên được thực hiện cụ thể. Một Kitô hữu có thể tán thành lư thuyết khoa học về tiến hóa xét như là lư thuyết giải nghĩa hữu ích, nhưng trong giới hạn lư thuyết đó không rơi vào sai lầm của chủ nghĩa tiến hóa cho rằng con người là sản phẩm ngẫu nhiên do quá tŕnh sinh học tạo ra. Lư thuyết tiến hóa chỉ đưa ra trước “một cái ǵ đó” đang tiến hóa, nhưng không nói chút nào về cái ǵ đó “do đâu mà có”. Không thể dùng cách khéo léo của khoa học để trả lời những vấn đề liên quan đến ư nghĩa về nguồn gốc của vũ trụ, của con người. Cũng như người theo thuyết “duy tiến hóa lư tưởng”, người theo lư thuyết duy sáng tạo cũng vượt ra khỏi giới hạn có thể được chấp nhận. Người theo thuyết duy sáng tạo hiểu các con số và các niên hiệu mà Kinh thánh nói đến theo nghĩa đen một cách ngây ngô (chẳng hạn tuổi của trái đất hoặc việc sáng tạo trong sáu ngày).

Thuyết duy sáng tạo: Thuyết này cho rằng Thiên Chúa đă can thiệp vào một lúc rơ rệt để sáng tạo thế giới một cách trực tiếp và chỉ cần một lần, theo nghĩa đen của bài tường thuật về sáng tạo của sách Sáng thế.

Tiến hóa là sự tăng trưởng của các cơ nâng tiến đến h́nh thức nhất định của chúng trong thời gian hàng triệu năm. Theo quan điểm của Kitô giáo, ta có thể coi tiến hóa như sự sáng tạo liên tục của Thiên Chúa có mặt trong tiến tŕnh của thiên nhiên.

«      Không nhà bác học nào có được dù chỉ là một lư lẽ để có thể phản biện lại các quan niệm về một Đấng sáng tạo như thế. Hoimar von Ditfurth (1921-1989, chuyên viên Đức về khoa học).

43.         Thế giới này có phải là sản phẩm của “ngẫu nhiên” không ?

-  Không. Chính Thiên Chúa chứ không phải ngẫu nhiên, là nguồn gốc của thế giới. Dù trong nguồn gốc, dù trong trật tự nội tại, dù trong cùng đích, thế giới không phải là kết quả của những lực tác động “không có định hướng”.

[295-301, 317-318, 320]

     Các Kitô hữu tin rằng có thể đọc được ở cuộc sáng tạo như đọc ở sách viết tay của Thiên Chúa. Với các nhà khoa học tŕnh bày toàn bộ vũ trụ như phát sinh do ngẫu nhiên chứ không có ư nghĩa, không có mục đích ǵ, Đức Gioan Phaolô II đă trả lời vào năm 1985 rằng: “Nói là do t́nh cờ đă phát sinh ra một vũ trụ có tổ chức bao gồm nhiều yếu tố rất phức tạp và có một chủ đích tuyệt vời trong sinh hoạt của nó, nói như thế có nghĩa là từ chối đi t́m một giải nghĩa về vũ trụ như vũ trụ xuất hiện trước chúng ta. Thực sự nói như vậy không khác ǵ là chấp nhận rằng có hiệu quả mà không có nguyên nhân. Nó chứng tỏ trí tuệ loài người đă đầu hàng khi từ chối suy tư để t́m ra giải đáp cho các vấn đề của ḿnh.” à 49

«      Sự chính xác phi thường của tiến tŕnh “big bang” có thật là kết quả của ngẫu nhiên không ? Ư tưởng thật vô lư ! Walter Thirring (1927-, nhà vật lư học Áo).

«      Chúng ta không phải là sản phẩm của t́nh cờ ngẫu nhiên và không được định hướng đến tiến hóa. Mỗi người chúng ta là kết quả của tư tưởng thần linh. Mỗi người được muốn, được yêu, mỗi người đều có ích. Đức Bênêđictô XVI, 28-04-2005

44.        Ai sáng tạo thế giới ?

- Một ḿnh Thiên Chúa, Đấng không lệ thuộc thời gian và không gian, đă sáng tạo thế giới từ "không", và đă cho mọi sự được hiện hữu. Mọi vật hiện hữu đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, chúng chỉ tiếp tục được hiện hữu v́ Thiên Chúa muốn chúng như vậy. [290-292, 316]

     Việc sáng tạo thế giới có thể gọi là “công tŕnh chung” của Ba Ngôi. Chúa Cha là Đấng Sáng Tạo, Đấng Toàn Năng. Chúa con cho thế giới có một ư nghĩa, Người là trái tim của thế giới. Mọi sự được dựng nên bởi Người và cho Người (Cl 1, 16). Chỉ học biết Chúa Kitô ta mới hiểu tại sao thế giới là tốt lành. Ta hiểu rằng thế giới tiến tới một mục đích: là sự thật, sự tốt, sự đẹp của Chúa. Chúa Thánh Thần đảm bảo cho tất cả được gắn bó với nhau; Người là Thần khí làm cho sống (Ga 6, 63).

Chính Chúa dựng nên vũ trụ; và do ư Người muốn mọi loài liền có và được dựng nên. Kn 4,11

«      Nhờ quan sát và suy nghĩ về sự sắp đặt hoàn hảo của vũ trụ do khôn ngoan của Chúa tổ chức, có ai mà không ca ngợi Đấng toàn năng làm chủ công tŕnh đó. Nhà khoa học Nicolas Copernic (1473-1543)

«      Các cây cối và các v́ sao dạy cho bạn điều mà không thầy dạy nào có thể dạy cho bạn. Thánh Bernard de Clairveaux (1090-1153, sáng lập viên thứ hai của ḍng Cisterciens)

45.        Luật tự nhiên và hệ thống tự nhiên của mọi vật cũng do bởi Thiên Chúa sao ?         

-  Đúng. Luật tự nhiên và hệ thống tự nhiên của mọi vật cũng do Thiên Chúa sáng tạo. [339-346, 354]

     Con người không phải là hoàn toàn muốn làm sao cũng được. Con người được dựng nên theo trật tự và theo các luật tự nhiên mà Chúa đă ghi khắc trong tạo vật. Một Kitô hữu không chỉ làm “cái ǵ ḿnh muốn” mà thôi. Họ biết rằng họ sẽ làm hại chính ḿnh và mọi người chung quanh khi họ không tuân giữ các luật tự nhiên, khi họ sử dụng mọi sự trái với những ǵ đă dự liệu trước và khi họ muốn tự coi ḿnh khôn ngoan hơn Thiên Chúa đă tạo dựng tất cả. Muốn tự ḿnh cho rằng mọi sự khởi đi từ số không, đó là vượt quá sức lực của con người.

46.        Tại sao sách Sáng thế mô tả sự sáng tạo như là "công tŕnh 6 ngày"?

-  Đây là cách nói nhằm đề cao ngày nghỉ cuối tuần sau 6 ngày làm việc (St 1-2,3). Nó c̣n diễn tả rằng sự sáng tạo thật là tốt lành, đẹp đẽ, và được sắp xếp thật khôn ngoan.

[337-342]

     Từ cách nói tượng trưng là Chúa tạo dựng trong 6 ngày, ta có thể rút ra những yếu tố căn bản sau đây:

1/       Mọi vật đang hiện hữu là do Đấng Tạo Hóa ban cho hiện hữu.

2/       Mỗi thụ tạo có cái tốt lành của nó.

3/       Cả những ǵ đă trở nên xấu cũng đều có một cái nhân tốt lành.

4/       Tất cả mọi thụ tạo đều tùy thuộc vào nhau, và hiện hữu cho nhau.

5/       Trật tự và ḥa hợp nơi vạn vật là phản ánh sự tốt đẹp của Chúa.

6/       Có một cấp bậc nơi vạn vật: con người vượt trên con vật, con vật vượt trên cây cối, cây cối vượt trên các vật vô sinh.

7/       Tạo vật đang tiến bước tới ngày đại lễ, khi Chúa Kitô sẽ đến chinh phục vũ trụ, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.     à 362

*      Sáng thế là sách đầu tiên của Kinh thánh diễn tả việc sáng tạo thế giới và sáng tạo loài người.

«      Đừng tưởng rằng Thiên Chúa muốn cấm ta yêu thế giới. Không, ta phải yêu thế giới v́ tất cả những ǵ trong thế giới đều đáng ta yêu mến. Thánh Catarina Sienna (1347-1380, nhà thần bí và tiến sĩ Hội Thánh

47.        Tại sao Thiên Chúa lại nghỉ việc vào ngày thứ Bảy ?

-  Thiên Chúa nghỉ việc vào ngày thứ Bảy để ta chú ư rằng việc sáng tạo đă hoàn thành, nó vượt xa mọi cố gắng của loài người. [349]

     Dù con người là đối tác trưởng thành hơn của Đấng Sáng Tạo (St 2,15) con người không thể nào cứu văn thế giới nhờ sự khéo léo của sức lực riêng ḿnh. Mục tiêu của tạo vật là tiến tới một trời mới đất mới (Is 65,17) nhờ công cuộc cứu chuộc đă ban cho chúng ta. Việc nghỉ ngày Chúa nhật cho ta được nếm trước cuộc nghỉ ngơi trên trời, nó vượt thắng thời kỳ phải lao động là thời kỳ chuẩn bị cho cuộc nghỉ đó. à 362

48.        Thiên Chúa có ư định ǵ khi sáng tạo thế giới ?

-  Thiên Chúa dựng nên thế giới v́ vinh danh Người (Công đồng Vatican I). [293-294, 319]

     Lư do của sáng tạo không phải là ǵ khác ngoài t́nh yêu. Từ việc sáng tạo này phản chiếu lên vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Ca tụng Thiên Chúa không cốt tại vỗ tay hoan hô Chúa. Dù sao con người không phải là khán giả xem công tŕnh sáng tạo. Ca tụng Thiên Chúa đối với họ là hiệp cùng với tất cả vạn vật để chấp nhận sự có mặt của ḿnh với ḷng biết ơn. à 489

«      Đấng đă làm nên bạn cũng biết rằng Người làm nên bạn để làm ǵ. Thánh Augustinô

«      Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, mà con người được sống là để có thể nh́n thấy Thiên Chúa. Thánh Irênê thành Lyon

 

Thiên Chúa quan pḥng

 

49.        Thiên Chúa có điều khiển thế giới và đời sống tôi không ?

-  Có, nhưng cách mầu nhiệm; Thiên Chúa điều khiển mọi sự trong trời đất cho đến khi chúng hoàn thành theo đường lối của Người mà chỉ ḿnh Người biết. Không lúc nào, Người để cho các tạo vật Người đă dựng nên lại vượt ra khỏi bàn tay Người. [302-305]

     Thiên Chúa tác động lên các biến cố lớn của lịch sử cũng như trên các biến cố nhỏ của cuộc đời riêng ta, mà không hạn chế tự do của ta hoặc coi ta như những con rối bù nh́n trong kế hoạch đời đời của Người. “Chính ở nơi Người mà ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17, 28). Thiên Chúa có mặt nơi tất cả mọi thăng trầm của đời ta, dầu trong biến cố đau khổ hay trong những số phận có vẻ điên rồ. Thiên Chúa cũng muốn viết thẳng trên những đường cong của đời ta. Có cái Người lấy mất và có cái Người ban cho ta, có cái Người dùng để tăng sức cho ta, có cái Người thử thách ta, tất cả đều là hậu quả của việc Chúa Quan Pḥng và là những dấu hiệu của ư Chúa muốn. à  43.

Đối với anh em, ngay tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Mt 10,30

«      Niềm trông cậy vào việc Chúa Quan Pḥng là niềm tin vững chắc và sống động mà Thiên Chúa có thể giúp ta và Người sẽ làm cho ta. Người có thể giúp ta, đó là chuyện hiển nhiên v́ Người là toàn năng. Người giúp ta chắc chắn đạt hiệu quả v́ Người đă hứa trong nhiều đoạn Kinh thánh và Người là Đấng giữ đúng mọi lời hứa. Mẹ Têrêsa

50.        Con người đóng vai tṛ nào trong chương tŕnh quan pḥng của Thiên Chúa ?

-  Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác vào sự hoàn thành việc sáng tạo. Con người có thể từ chối ư định tốt lành này của Thiên Chúa. Nhưng thật tốt đẹp biết bao khi ta trở thành khí cụ của t́nh yêu Thiên Chúa. [307-308]

     Con người có thể từ chối ư muốn của Chúa. Nhưng nếu họ trở thành dụng cụ của t́nh yêu Chúa th́ tốt hơn cho họ. Mẹ Têrêsa nói rằng: “Tôi chỉ là cái bút ch́ nhỏ trong tay Chúa. Mong ước Chúa luôn luôn có thể viết hoặc vẽ những ǵ Người muốn, và ở những chỗ Người muốn. Khi những ǵ Người viết hoặc vẽ là tốt đẹp, ta không coi đó là do công của cái bút ch́ hay do vật liệu được dùng, nhưng là do chính Đấng đă sử dụng nó”. Dù Chúa có hoạt động với ta hoặc nhờ ta, không bao giờ ta được lẫn lộn tư tưởng riêng của ta, chương tŕnh và hành động riêng của ta, với hoạt động của Chúa. Chúa không cần việc làm của ta, đến nỗi nếu ta không làm th́ Chúa phải chịu thất bại.

«      Có cái không đi vào chương tŕnh của tôi cũng vẫn có chỗ trong chương tŕnh của Thiên Chúa. Và tôi càng ư thức về điều đó, tôi thấy xác tín mạnh mẽ về đức tin càng lớn hơn: theo quan điểm của Thiên Chúa, không có ǵ là t́nh cờ cả. Thánh nữ Edith Stein (1891–1942, Kitô hữu Do Thái, triết gia và nữ tu ḍng kín, nạn nhân trại tập trung).

51.        Nếu Thiên Chúa biết mọi sự và có thể làm được mọi sự, tại sao Người không ngăn cản được sự dữ ?

-  Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt lành từ những sự dữ. Chẳng một đau khổ nào ta có thể giải mă được. Nhưng nó vẫn luôn đặt nền tảng trên sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa (Thánh Tôma Aquinô). [309-314, 324]

     Sự dữ trong thế gian là một mầu nhiệm vừa đen tối vừa khổ đau. Đấng chịu đóng đinh thập giá đă xin với Cha Người: Lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mt 27,36). Nhiều chuyện trong lănh vực này vẫn c̣n khó hiểu. Nhưng ta biết được một điều chắc chắn: Thiên Chúa luôn tốt lành một trăm phần trăm. Không khi nào Người có thể là tác giả của những cái xấu. Chúa đă dựng nên một thế giới tốt, nhưng chưa được hoàn thành. Thế giới đi tới chỗ hoàn thành phải trải qua những xáo trộn dữ dội và những quá tŕnh đau khổ. Ta cần phân biệt cho tốt hơn cái mà Hội Thánh gọi là sự dữ thể lư, chẳng hạn khuyết tật bẩm sinh, hoặc thiên tai lũ lụt, với cái goi là sự dữ luân lư phát xuất do con người sử dụng tự do sai lầm trong thế gian. “Hỏa ngục trần gian” – trẻ em làm lính, mưu sát – tự sát, trại tập trung – hầu hết đều là do con người. Vấn đề quyết định không phải là: “Làm sao có thể tin được là Thiên Chúa tốt lành đang khi có biết bao sự dữ như vậy?”, nhưng là: “Làm sao con người có trái tim và lư trí lại có thể đành chịu sống trong thế giới như vậy, nếu không có Thiên Chúa?”. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu chứng tỏ cho ta rằng sự dữ không có tiếng nói đầu tiên và nó sẽ không có tiếng nói cuối cùng (nghĩa là nó không phải tuyệt đối mà c̣n có cái khác nữa). Bởi v́ Thiên Chúa làm cho từ sự dữ xấu xa nhất nảy sinh ra sự tốt lành tuyệt đối. Kitô hữu tin rằng đến ngày phán xét chung Thiên Chúa sẽ chấm dứt mọi bất công. Trong đời sống mai sau, sự dữ không c̣n nữa và đau khổ sẽ chấm dứt. à 40, 286-287

Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. Rm 8,18

Thiên Chúa thấy mọi sự Người sáng tạo: mọi sự đều rất tốt đẹp. St 1,31

«      Không đau khổ nào mà không mang một ư nghĩa. Đau khổ luôn luôn có nền móng nơi sự khôn ngoan của Chúa. Thánh Tôma Aquinô

«      Thiên Chúa th́ thầm trong những lúc ta vui, Người th́ thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn và mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới mê ngủ. Clive Staples Lewis (1898–1963, văn sĩ Anh, tác giả cuốn Kư sự Namia)

 

Thiên Chúa tạo dựng Trời đất và những vật vô h́nh

 

52.        Trời là ǵ ?

-  Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là chỗ ở của các Thiên thần và các thánh, là đích điểm của việc sáng tạo. Thuật ngữ "trời đất" nói đến toàn thể những thực tại được Thiên Chúa dựng nên.

     Trời không phải là một nơi nhất định nào đó trong vũ trụ. Trời là một t́nh trạng trong cuộc sống mai sau. Trời là nơi Chúa thực thi ư muốn của Người mà không có ǵ chống đối. Trời là nơi có cuộc sống mănh liệt nhất, hạnh phúc nhất, một cuộc sống không thể có được ở trần gian. Khi nhờ on Chúa giúp ta được về trời, ta chờ đợi ở đó điều mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, ḷng chưa hề cảm biết, tất cả những ǵ Chúa đă dọn sẵn cho những ai mến yêu Người (1Cr 2,9). à 158, 285

(Chú thích của người dịch: Cựu ước chỉ nói về vườn địa đàng (St 2,15); Tin Mừng chỉ nói về trời với nghĩa nơi có Thiên Chúa và các Thánh, và một lần nói về “người trộm lành được ở trên Thiên Đường” (Lc 23,42). Thiên Đường ở đây có nghĩa “Nước của Người, Nước Trời, hay Trời”).

«      Tất cả những ǵ không vĩnh cửu đều không có giá trị ǵ trong nơi vĩnh cửu cả. C.S. Lewis

«      Chúng ta luôn nhớ đến niềm vui trên trời, nơi Thiên Chúa ngự. Chúng ta có khả năng ngay từ bây giờ ở với Chúa trên trời, và ngay lúc này được hưởng hạnh phúc với Chúa. Tuy nhiên hưởng hạnh phúc với Chúa ngay lúc này có nghĩa là: giúp đỡ như Người giúp đỡ, cho đi như Người cho đi, phục vụ như Người phục vụ, cứu vớt như Người cứu vớt, yêu thương như Người yêu thương, ở với Người suốt 24/24 tiếng đồng hồ và gặp gỡ Người dưới tấm áo kinh khủng nhất. V́ Người đă nói với ta: Điều mà bạn đă làm cho người bé nhỏ nhất của Ta, đó là đă làm cho chính ta vậy. Mẹ Têrêsa

«      Chúa Giêsu đă đến để cho ta biết rằng Người muốn mọi người được ở thiên đường, và hỏa ngục mà ngày nay người ta ít nói đến là có thật, và hỏa ngục là vô tận cho những ai đóng của ḷng ḿnh với t́nh yêu của Người. Đức Bênêđictô XVI, 8-5-2007

53.        Hỏa ngục là ǵ ?

-  "Hỏa ngục", theo đức tin của chúng ta, là t́nh trạng con người phải dứt khoát chia cách với Thiên Chúa. Khi ai thấy rơ t́nh yêu nhờ đối mặt với Thiên Chúa, nhưng họ lại từ chối, không muốn được ở trong T́nh yêu ấy, đó là họ đă chọn hỏa ngục. [1033-1036]

     Chúa Giêsu biết hỏa ngục và nói về nó như những nơi tối tăm bên ngoài (Mt 8,12). Theo quan niệm thời nay người ta nói đến một hỏa ngục lạnh hơn là nóng. Dựa vào sự rùng ḿnh v́ rét lạnh người ta gợi đến một t́nh trạng hoàn toàn tê cóng đờ đẫn và hoàn toàn tuyệt vọng không c̣n mong được ai giúp đỡ, làm giảm nhẹ, đem niềm vui và an ủi trong suốt đời. à 161-162

«      Cuối cùng sẽ chỉ c̣n hai nhóm người đứng trước mặt Thiên Chúa, những người thưa với Chúa rằng: “Vâng ư Cha”; và những người mà Chúa bảo rằng: “Ư con được vâng theo”. Tất cả những ai ở hỏa ngục là do họ tự ư chọn lựa chỉ theo ư ḿnh. C.S. Lewis

54.        Thiên thần là ai vậy ?

-  Thiên thần là các thụ tạo linh thiêng thuần túy của Thiên Chúa, các ngài có trí khôn và ḷng muốn như ta, nhưng không có xác như ta, các ngài không thể chết, và thường không ai thấy được. Các Thiên thần hằng sống trước mặt Thiên Chúa, thông truyền cho loài người ư muốn và sự che chở của Thiên Chúa. [328-333, 350-351]

     Đức Hồng y Ratzinger viết rằng “Thiên thần là như tư tưởng riêng của Thiên Chúa đối với tôi”. Các Thiên thần đồng thời hoàn toàn hướng về Đấng Sáng tạo của các ngài. Các ngài cháy lửa yêu mến và phụng sự Chúa ngày đêm. Lời ca hát ngợi khen của các ngài không bao giờ ngừng. Trong Kinh Thánh, các Thiên thần đă sa ngă được gọi là thần dữ hay ma quỷ.

V́ ngươi Người ra lệnh cho các Thiên thần để ǵn giữ ngươi trên mọi lối ngươi đi, các ngài sẽ nâng ngươi lên kẻo chân ngươi vấp nhầm phải đá. Tv 91, 11-12

«      Mỗi tín hữu có một Thiên thần ở bên cạnh để che chở và dẫn dắt trên đường dẫn tới sự sống đời đời. Thánh Basiliô cả (330-379, tiến sĩ Hội thánh)

55.        Ta có thể giao tiếp với các thiên thần không ?

-  Có. Chúng ta có thể kêu xin các Thiên thần giúp đỡ và xin các ngài chuyển cầu cho ta trước mặt Thiên Chúa.  [334-336, 352]

     Chúa c̣n ban cho mỗi người một thiên thần bản mệnh hay hộ thủ nữa. Cầu nguyện các thiên thần bản mệnh cho ḿnh và cho người khác là việc tốt lành và hợp lư. Các thiên thần cũng có thể tự làm cho ta nhận ra sự có mặt của ngài trong đời ta là một Kitô hữu bằng cách theo giúp đỡ ta, hoặc báo tin cho ta. Các thứ tà thần bí hiểm th́ không liên can ǵ tới đức tin cả.

 

Thiên Chúa dựng nên con người

 

56.        Con người có một chỗ đặc biệt trong việc sáng tạo của Thiên Chúa không ?

-  Có. Con người là chóp đỉnh của việc sáng tạo, v́ Thiên Chúa đă tạo dựng nên con người theo h́nh ảnh Thiên Chúa (St 1,27).

[343-344, 353]

     Việc tạo dựng con người khác biệt rơ ràng với việc tạo dựng các sinh vật khác. Con người là một ngôi vị, nghĩa là có ư muốn và trí khôn có thể quyết định yêu hay không yêu.

Khi tôi trông lên trời, ngón tay Người đă làm ra, trăng sao vằng vặc Người đă định chỗ. Th́ phàm nhân là ǵ để Người nhớ đến, hay con người là ǵ để Người phải bận tâm. So với Thần linh Người không để thua mấy tí, vinh dự huy hoàng là triều thiên Người ban tặng. Tv 8, 4-6

«      Mọi tạo vật trên trái đất đều cảm giác như ta. Mọi vật đều khát khao hạnh phúc như ta. Mọi vật cũng yêu, đau khổ và chết như ta, tất cả đều là công tŕnh của Đấng sáng tạo toàn năng, cũng giống như ta, tất cả là chị em của ta. Thánh Phanxicô Atxidi

57.        Con người phải đối xử với loài vật và các vật khác thế nào ?

-  Con người cần tôn vinh Thiên Chúa nơi các thụ tạo của Người, và cư xử với chúng cách ân cần và có trách nhiệm. Con người, con vật, và cây cỏ, có cùng một Đấng Tạo hóa, Người đă dựng nên mọi loài bởi T́nh yêu Người. V́ vậy, yêu thương các loài vật là t́nh cảm rất thâm sâu của con người. [344-354]

     Con người được phép dùng cây cỏ và loài vật để nuôi sống ḿnh. Tuy nhiên không được phép hành hạ và ngược đăi chúng. Khai thác trái đất một cách mù quáng là đối nghịch với phẩm giá của thụ tạo.

58.        Con người được dựng nên theo "h́nh ảnh Thiên Chúa" nghĩa là ǵ ?

-  Nghĩa là, con người  không như các loài vô hồn, đất đá, cây cỏ, con vật. Con người có phần linh thiêng. Nhờ đặc tính linh thiêng, con người được gần gũi với Thiên Chúa hơn các thụ tạo hữu h́nh khác, và chỉ riêng con người có thể nhận biết Đấng Tạo dựng nên họ và có thể yêu mến Người.
[355-357, 380]

     Con người không phải một sự vật, mà là một người. Cũng như ta nói Thiên Chúa là một ngôi vị th́ Ta cũng nói con người là ngôi vị. Một người có thể suy tư vượt ra khỏi phạm vi sát kề ḿnh, và đo kích thước bao la của mọi vật hiện hữu. Họ cũng có thể lùi lại để đánh giá nghiêm chỉnh và tác động trên chính họ. Họ có thể coi người khác như những ngôi vị, khám phá phẩm giá của họ và yêu thương họ. Trong các thụ tạo hữu h́nh, chỉ một ḿnh con người là có thể nhận biết và yêu mến Đấng tạo dựng nên ḿnh (Vatican II, Gaudium et Spes 12,3). V́ thế, con người được dựng nên để sống t́nh nghĩa với Thiên Chúa (Ga 15,15).

Anh em thân mến, chúng ta hăy yêu thương nhau, v́ t́nh yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương th́ đă được Thiên Chúa sinh ra và họ biết Thiên Chúa. 1Ga 4,7

«      Hăy nh́n nhận rằng bạn là h́nh ảnh của Thiên Chúa và hăy xấu hổ v́ đă bao bọc nó bằng một h́nh ảnh xa lạ. Thánh Bernard de Clairvaux

59.        Tại sao Thiên Chúa dựng nên con người ?

-  Thiên Chúa dựng nên tất cả là v́ con người, con người là “tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ” (Gaudium et Spes 24,3), Người dựng nên họ để họ được hạnh phúc nếu họ nhận biết, yêu mến, phục vụ Thiên Chúa, sống trong niềm biết ơn Đấng dựng nên ḿnh. [358]

           Ḷng biết ơn là ghi nhớ về t́nh yêu của Thiên Chúa. Người biết ơn th́ tự nguyện quay về với người ban ơn và đi vào trong hiệp thông mới và sâu sắc hơn với người ban ơn. Thiên Chúa muốn ta ghi nhớ t́nh yêu của Người, và ngay bây giờ ta sống đời ta trong hiệp thông với Thiên Chúa, măi măi.

«      Bạn hăy canh chừng tất cả những niềm vui nào không đồng thời là ḷng biết ơn. Theodor Haecker (1879–1945, văn sĩ Đức)

«      Nếu lời kinh duy nhất của đời bạn cốt tại thưa rằng: “Con xin cám ơn Chúa” chắc như thế là đủ rồi. Maître Eckhart (1260–1328, ḍng Đaminh, nhà thần bí)

«      Việc cám ơn được nâng đỡ bởi đức tin có thể đi sâu vào cả những ǵ là nặng nhọc đau buồn và chừng nào được như vậy th́ mọi sự có thể biến đổi. Romano Guardini (1885–1968, công giáo Đức, gốc Ư, triết gia về tôn giáo)

60.        Tại sao Chúa Giêsu lại là mẫu gương tuyệt vời nhất thế giới ?

 V́ Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất không những đă tỏ cho chúng ta biết bản tính thật của Thiên Chúa, mà c̣n tỏ ra lư tưởng đích thật của con người. [358-359, 381]

     Chúa Giêsu c̣n hơn là một con người lư tưởng rất nhiều. Ngay cả những người khác thường th́ bề ngoài cũng là tội nhân. Do đó, không ai có thể là gương mẫu tuyệt đối cho con người. C̣n Chúa Giêsu không có tội lỗi. Thân phận loài người là ǵ và cái làm cho con người vô cùng đáng yêu theo đúng nghĩa của nó, ta chỉ thấy nơi Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Người đă gặp mọi thử thách trừ tội lỗi (Dt 4,15), Chúa Giêsu con Thiên Chúa, là một người chính hiệu và có thật. Nơi Người, ta khám phá được Thiên Chúa đă muốn con người thế nào.

Chúa Giêsu là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh, Con đầu ḷng của mọi tạo vật v́ nhờ Người mà mọi vật được tạo thành… tất cả đều được tạo dựng bởi Người và cho Người. Cl 1,15-16

“Ecce Homo”, Đây là người (Ga 19,5). Philatô dùng những lời đó để giới thiệu Chúa Giêsu đă bị tra tấn hành hạ và đội mũ gai, cho dân chúng.

«      Chúa đă trở nên người như ta để có thể làm cho ta giống như Người. Thánh Atanasiô cả (295-393, giáo phụ)

61.        Do đâu mọi người b́nh đẳng với nhau ?

-  Mọi người đều b́nh đẳng với nhau, v́ họ có cùng một nguồn gốc, trong T́nh yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Mọi người đều có cùng một Đấng Cứu chuộc là Chúa Giêsu Kitô. Mọi người đều có thể t́m kiếm và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Chúa. [360-361]

     Mọi người đều là anh chị em với nhau. Kitô hữu không được chỉ liên đới với các Kitô hữu khác nhưng với tất cả mọi người để chiến đấu mạnh mẽ chống các thứ chia rẽ v́ kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giới tính, kỳ thị kinh tế trong gia đ́nh nhân loại. à  280, 517

Hăy mở miệng bênh vực người câm, v́ quyền lợi của mọi kẻ bị bỏ rơi. Cn 31,8

62.        Linh hồn là ǵ vậy ?

-  Linh hồn là cái làm cho ta thành một con người. Nó là nguyên lư linh thiêng của sự sống, và là cái sâu thẳm nhất trong con người. Linh hồn làm cho thể xác vật chất trở nên thân xác sống động của con người. Nhờ linh hồn, con người có thể xác nhận cái "Tôi" của ḿnh, và đứng trước Thiên Chúa như một cá thể không ai thay thế được. [362-365, 382]

     Con người là một hữu thể có xác và hồn. Hồn con người có phận vụ khác hơn phận vụ xác và không thể cắt nghĩa được dựa theo cấu tạo sinh lư của họ. Trí khôn nói cho ta rằng: “phải có một nguyên lư linh thiêng nối kết với xác, mà không v́ thế cũng giống y như xác. Ta gọi là «hồn». Mặc dù không thể dùng khoa học để chứng minh là có linh hồn, tuy nhiên nếu không đếm xỉa tới cái yếu tố linh thiêng làm chủ vật chất này, ta không thể hiểu được rằng con người là một hữu thể linh thiêng. à 153-154,163

«      Hăy làm điều ǵ tốt cho xác bạn, để hồn bạn được vui vẻ ở trong xác. Thánh Têrêsa Avila (1515-1582, nhà thần bí Tây Ban Nha, tiến sĩ Hội thánh)

«      Con người trở nên thực sự là con người khi hồn và xác hiệp nhất sâu xa với nhau… Nếu con người chỉ muốn là tinh thần và muốn từ bỏ thể xác v́ là di sản của sinh vật, th́ cả tinh thần lẫn thể xác đều mất hết phẩm giá. Đàng khác, nếu họ muốn từ bỏ tinh thần và coi vật chất, coi thân xác như thực tại duy nhất của ḿnh thôi, th́ họ cũng mất giá trị cao cả của ḿnh. Đức Bênêđictô XVI, Deus Caritas est

«      Con người không phải con vật cũng không phải thiên thần, và con người muốn làm thiên thần th́ rủi thay con người sẽ là con vật (trèo cao té đau). Blaise Pascal

63.        Do đâu con người có linh hồn ?

-  Linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp dựng nên, chứ không phải là "sản phẩm" bởi cha mẹ. [366-368, 382]

     Hồn của con người không thể là sản phẩm do tiến tŕnh biến hóa của vật chất, cũng không phải là kết quả của cha mẹ sinh ra. Mỗi con người sinh ra là một ngôi vị độc nhất và linh thiêng, Hội Thánh giải nghĩa mầu nhiệm này như sau: Thiên Chúa ban cho ta một linh hồn không thể chết được, dù khi ta chết ta phải ĺa khỏi xác để chờ khi sống lại xác được nhập lại với ta. Nói “Tôi có linh hồn” có nghĩa là: “Thiên Chúa không tạo dựng tôi như một sự vật, nhưng như một ngôi vị và mời gọi tôi có quan hệ không ngừng với Người”.

«      Nhờ có nguồn gốc từ trái đất, con người được liên kết với mọi sinh vật, nhưng chỉ nhờ có linh hồn do Thiên Chúa “thổi vào” họ mới là người. Điều đó ban cho họ một phẩm giá độc nhất, nhưng đồng thời cũng trao một trách nhiệm độc nhất. Hồng y Christoph Schönborn (1945, Tổng giám mục Áo)

64.        Tại sao Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ ?

-  Thiên Chúa là T́nh yêu và là khuôn mẫu lư tưởng của đời sống hiệp thông, Người đă dựng nên con người có nam có nữ, để cả hai cùng là h́nh ảnh của bản tính Người.  [369-373, 383]

     Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ để mỗi người ước ao hoàn thành chính ḿnh và đạt tới sung măn trong việc gặp gỡ với một người khác giới với ḿnh. Người nam và người nữ b́nh đẳng tuyệt đối với nhau trong phẩm giá, nhưng Đấng Sáng Tạo đă có ư dựng nên có nam có nữ để mỗi bên biểu lộ ra những phương diện khác nhau của sự hoàn hảo của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là nam, không phải là nữ nhưng Người đă tỏ ḿnh ra với những phương diện là Cha (Lc 6,36) và những phương diện là Mẹ (Is 66,13) của Người. Trong t́nh yêu của người nam và người nữ, nhất là trong hôn nhân đă làm cho cả hai nên một thân xác (Kn 2,24), ta có thể tưởng tượng ra đôi chút về hạnh phúc của sự hiệp nhất với Thiên Chúa, trong đó mỗi người trong chúng ta sẽ thấy trạng thái đầy đủ trọn vẹn cuối cùng của ḿnh. Cũng như t́nh yêu Thiên Chúa luôn trung thành th́ t́nh yêu con người luôn phải chung thủy, theo h́nh ảnh t́nh yêu của Chúa, t́nh yêu đó cũng sáng tạo, v́ từ hôn nhân sẽ phát sinh những con người mới.
à 260, 400-401, 416-417

Thiên Chúa tạo dựng con người theo h́nh ảnh Người, theo h́nh ảnh Thiên Chúa, Người tạo dựng họ có nam và nữ. St 1,27

Thiên Chúa phán: “Nếu người chỉ có một ḿnh th́ không tốt, Ta sẽ làm cho nó có người trợ giúp xứng đôi với nó”. St 2,18

«      Ta cũng đọc thấy rằng con người không thể ở “một ḿnh” (St 2,18) nó chỉ có thể sống như “một của hai”, nghĩa là có quan hệ với một ngôi vị nữa. Đây là quan hệ hỗ tương, đàn ông đối với đàn bà, và đàn bà đối với đàn ông. Là một ngôi vị giống h́nh ảnh Thiên Chúa cũng đ̣i hỏi phải sống có quan  hệ, sống tương quan với một “cái tôi khác”. Đây là báo trước về mặc khải sau này đó là Một Chúa Ba Ngôi, là sự hiệp nhất sống động trong hiệp thông giữa Chúa Cha Chúa con và Chúa Thánh Thần. Chân phước Gioan Phaolô II (1920-2005, Giáo hoàng sáng lập ngày giới trẻ thế giới, Tông thư  Mulieris Dignitalem)

65.        Người có khuynh hướng đồng tính luyến ái th́ sao ?

-  Hội Thánh tin rằng, trong trật tự tạo dựng, Thiên Chúa đặt để cho người nam và người nữ cần đến nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau để sinh sản con cái. V́ vậy, Hội Thánh không thể chuẩn nhận những thực hành đồng tính luyến ái. Tuy nhiên các Kitô hữu phải tôn trọng và yêu thương mọi người, không xét đến khuynh hướng tính dục của họ, v́ tất cả mọi người đều được Thiên Chúa tôn trọng và yêu thương. [2358-2359]

     Không một người nào trên trần gian không phải là kết quả của mối quan hệ giữa một người mẹ với một người cha. Thật là kinh nghiệm đau khổ cho một số  người có khuynh hướng đồng tính luyến ái, họ không cảm thấy được lôi cuốn bởi người khác giới, và phải từ chối việc thụ thai theo thể lư bằng quan hệ t́nh dục phù hợp với bản tính con người và trật tự do Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng những đường lối của Chúa th́ không biết trước được: một sự thiếu sót, một mất mát hay một vết thương được chấp nhận và đảm nhận có thể trở thành một bàn đạp để gieo ḿnh vào tay Chúa, Đấng luôn làm cho mọi sự tốt hơn và Người c̣n tự mặc khải như Đấng cứu độ lớn hơn là Đấng tạo hóa.  à 415

66.         Trong kế hoạch, Thiên Chúa có định cho con người phải đau khổ và phải chết không ?

-  Thiên Chúa không muốn cho con người phải đau khổ và phải chết. Từ khởi thủy Thiên Chúa đă muốn cho con người sống nơi địa đàng, được sống măi măi, b́nh an giữa Thiên Chúa, mọi người, và vạn vật chung quanh. B́nh an giữa nam và nữ. [374-379, 384, 400]

     Đôi khi ta cảm thấy làm thế nào cuộc đời được như thế và làm thế nào ta được như thế. Nhưng thực ra, ta sống trong xung đột với chính ta, ta bị thống trị bởi sợ hăi và các đam mê ta không kiểm soát nổi, và ta đă mất sự ḥa hợp nguyên thủy với thế giới và cuối cùng với Thiên Chúa. Trong Kinh thánh, kinh nghiệm về sự “tha hóa” này được diễn tả trong câu truyện “sa ngă”. Bởi v́ tội lỗi đă lọt vào địa đàng nơi Adam và Eva đang sinh sống ḥa hợp với nhau và với Thiên Chúa, nên họ phải ra khỏi địa đàng. Phải vất vả lao động, phải khổ, phải chết và bị cám dỗ bởi tội lỗi, đó là dấu chỉ họ đă mất địa đàng.

«      Người ta mất địa đàng, nhưng đă được Thiên đàng, v́ vậy được nhiều hơn mất. Thánh Gioan Kim Khẩu

«      Lạy Chúa, quay đi khỏi Chúa sẽ ngă, quay lại với Chúa sẽ đứng vững, ở lại trong Chúa sẽ chắc chắn được an toàn. Thánh Augustinô

 

Con người sa ngă

 

67.        Tội là ǵ ?

-  Tội là hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa, từ chối không đón nhận T́nh yêu Thiên Chúa, khinh thường không giữ giới răn của Thiên Chúa.

     Tội c̣n hơn là một thái độ lầm lỡ, và cũng không phải chỉ là một yếu đuối tâm lư. Thực ra mọi từ bỏ hoặc phá hủy điều ǵ là tốt, xét cho cùng đều là bỏ tốt để chọn xấu, loại bỏ Thiên Chúa vậy. Trong kích thước sâu xa và kinh khủng nhất, tội là xa ĺa Thiên Chúa, xa ĺa nguồn sống. V́ thế, chết là hậu quả tất nhiên do tội lỗi. Chỉ nhờ Chúa Giêsu ta mới hiểu được kích thước không thể đo được của tội, v́ muốn liên đới với loài người đă phạm tội bỏ Chúa, Chúa Giêsu đă chịu đau khổ v́ các hậu quả của tội nơi chính thân xác Người. Người đă phải gánh lấy sức mạnh gây chết của tội, để nó không làm hại ta. Đó là tất cả ư nghĩa của cứu chuộc”. à 224-237, 315-318, 348-468

Ở đâu tội lỗi đă lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Rm 5,20

«      Điều xấu hơn không phải là phạm tội ác mà là đă không làm những điều tốt mà ḿnh có thể làm. Chính tội bỏ xót không làm chẳng qua là tội không yêu mến, và thường không ai xưng thú tội đó. Léon Bloy (1846-1917, văn sĩ Pháp)

68.        Tội Tổ tông truyền là ǵ ? Tội Tổ tông Ađam Evà có liên hệ ǵ với chúng ta ?

-  Theo nghĩa hẹp, tội là một lỗi liên can đến trách nhiệm cá nhân mỗi người. Khi nói “Tội Tổ tông truyền” không có ư nói đến tội của cá nhân nhưng muốn đề cập đến t́nh trạng thê thảm mà mỗi người khi vừa được sinh ra th́ đă vướng mắc rồi, dù họ chưa hề tự ư phạm một tội nào, nhưng do tổ tông truyền lại. Việc truyền lại này vẫn c̣n là một mầu nhiệm không thể hiểu trọn vẹn. [388-389, 402-404]

Con rắn đối đáp lại với bà “ngày nào bà ăn trái đó mắt bà sẽ mở ra và bà sẽ nên như những Thiên Chúa.” St 3, 4-5

«      Trong sa ngă của Adam và Eva ta phải hiểu rằng mọi người chúng ta đều mang trong ḿnh cái giọt nọc độc của lối suy nghĩ được minh họa bằng các h́nh ảnh trong sách Sáng thế….Con người không tin ở Thiên Chúa. Bị lời lẽ của ma quỷ cám dỗ, họ nuôi nghi ngờ…Thiên Chúa là người cạnh tranh muốn hạn chế tự do của ta và ta sẽ chỉ là con người đầy đủ khi loại bỏ Chúa ra. Con người không muốn đón nhận sự hiện hữu của ḿnh và đời sống sung măn của ḿnh từ Thiên Chúa…Hành động như vậy họ tin vào sự dối trá hơn là sự thật, và như thế họ nhận ch́m đời sống ḿnh vào hư không và vào cái chết. Đức Bênêđictô XVI, 8-12-2005

«      Một thái độ luân lư trong thế giới chỉ có thể có và đáng khuyến khích khi mà người ta đảm nhận những bẩn thỉu của cuộc đời, đảm nhận trách nhiệm tập thể trong cái chết và tội lỗi. Tóm lại, là đảm nhận toán bộ tội tổ tông truyền và dứt khoát từ bỏ việc chỉ thấy lỗi nơi những người khác. Herman Hesse (1877-1962, văn sĩ Đức)

69.        V́ mắc tội Tổ tông, chúng ta có bị bó buộc phải phạm tội không ?

-  Không. Con người dù bị tổn thương nặng bởi tội Tổ tông, và có khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi, nhưng với ơn Chúa giúp, con người có thể làm điều tốt. [405]

     Không khi nào bị bó buộc phải phạm tội. Nhưng thực ra, ta không ngừng phạm tội được là v́ ta yếu đuối, không hiểu biết, nên dễ sa chước cám dỗ. Bị bó buộc phải phạm tội th́ không có tội, v́ chỉ có tội khi ta tự ư phạm.

70.        Thiên Chúa kéo chúng ta ra khỏi ṿng xoáy của sự dữ thế nào ?

-  Thiên Chúa không đành nh́n con người dần dần hủy hoại ḿnh và những ǵ chung quanh ḿnh, do hiệu ứng dây chuyền của tội lỗi. Người gửi đến cho ta Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu rỗi và Đấng Chuộc tội, Người cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi. [410-412, 420-421]

     “Không ai có thể giúp tôi.” Câu này xuất phát từ kinh nghiệm loài người nhưng không đúng nữa. Bất cứ nơi đâu mà con người v́ tội lỗi của ḿnh đă phiêu lưu vào, Thiên Chúa Cha đă sai Con của Người đến. Hậu quả của tội lỗi là cái chết (Rm 6,23). Nhưng hậu quả của tội lỗi cũng là sự liên đới kỳ diệu của Thiên Chúa với ta, Người sai Chúa Giêsu đến với ta như người bạn và Đấng cứu độ. V́ thế, có thể nói tội tổ tông là “tội hồng phúc”: “Ôi tội hồng phúc, tội đă đem lại Đấng cứu độ như thế.” (Phụng vụ đêm Phục sinh)

«      Một trong những lư do khiến tôi trở thành Kitô giáo: đó là một tôn giáo không do con người sáng chế ra. C.S Lewis

«      Khi bàn tay Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, Người đă đóng đinh cả tội lỗi ta vào thập giá nữa. Bernard de Clairvaux

 

 

Chương 2. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa

 

71.        Tại sao những sách viết về Chúa Giêsu lại gọi là Phúc âm hoặc Tin Mừng ?

Không có Phúc âm, ta không biết được rằng Thiên Chúa, v́ yêu thương ta vô cùng dù ta tội lỗi, nên đă sai Con một xuống trần, để dẫn ta trở về sống trong t́nh hiệp thông vĩnh cửu với Người. [422-429]

     Những sách viết về Chúa Giêsu đă sống, đă chết và đă sống lại là những tin vui nhất trên thế giới. Ta quen gọi là Tin Mừng hay Phúc Âm. Các sách đó chứng tỏ rằng Chúa Giêsu Nadarét, người Do Thái sinh ở Belem là Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16,16) đă làm người. Người được Chúa Cha sai đi để mọi người được cứu độ và được hiểu biết sự thật (1Tm 2,4).

Ngôi Lời đă trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tội đă nh́n thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. Ga 1,14

«      Nếu đời sống và cái chết của Socrate là của một người khôn ngoan, th́ đời sống và cái chết của Chúa Giêsu là đời sống và cái chết của một Thiên Chúa. Jean Jacques Rousseau (1712-1778, văn sĩ Pháp)

72.        Tên Giêsu nghĩa là ǵ ?

-  Giêsu, theo tiếng Do thái nghĩa là Chúa cứu chuộc.  [430-435, 452]

     Trong Sách Công vụ tông đồ, Thánh Phêrô nói: “V́ dưới gầm trời này không có một danh nào khác đă được ban cho nhân loại để chúng ta phải nhờ vào danh nào đó mà được cứu độ” (Cv 4,12). Đó là trung tâm của sứ điệp mà các vị truyền giáo loan báo Tin mừng cho thế giới.

Trong các hang toại đạo ở Rôma, có một dấu hiệu cổ của Kitô giáo được mă hóa để chỉ Chúa Kitô: chữ ICHTHYS (con cá) nếu đọc theo vần Hy lạp th́ thành: I: Jesus, CH : Christos, TH: Theou (Thiên Chúa), Y: Yios (Con), S: Soter (cứu thế).

73.        Tại sao gọi Đức Giêsu là Kitô ?

-  Thuật ngữ “Đức Giêsu là Kitô”, nhằm nói lên tâm điểm của đức tin Kitô giáo. Đức Giêsu, con bác thợ mộc thành Nazaret, là Đấng Mêsia, Đấng Cứu thế được mong đợi từ lâu. [436-440, 453]

     Chữ Kitô là tiếng Hy Lạp, chữ Mêssia là tiếng Do Thái đều có nghĩa là “được xức dầu”. Ở Do Thái, vua, các tư tế, và các tiên tri đều được xức dầu. Theo các Tông đồ, Chúa Giêsu đă được Chúa Thánh Thần xức dầu (Cv 10, 38). Khi theo Chúa Kitô, ta được gọi là Kitô hữu để diễn tả ơn gọi cao quư của ta.

74.        Khi nói Đức Giêsu là "Con một Thiên Chúa" có nghĩa là ǵ ?

Khi Đức Giêsu tự giới thiệu ḿnh là "Con một của Thiên Chúa" (Ga 3,16), khi thánh Phêrô và các tông đồ cũng gọi Người như vậy, th́ điều này có nghĩa là chỉ một ḿnh Đức Giêsu đích thực là Con trên hết mọi người con. [441-445, 454]

     Trong nhiều đoạn Tân ước (Ga 1,14.18; 1Ga 4,9; Dt 11,7…) Chúa Giêsu được gọi là “Con”. Khi chịu phép rửa và biến h́nh, tiếng nói từ trời xác nhận Chúa Giêsu là “Con yêu dấu”. Chúa Giêsu mở màn cho các môn đệ biết Người có quan hệ độc nhất với Cha Người trên trời: “Mọi sự Cha Tôi đă giao phó cho Tôi, và không ai biết rơ Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết rơ Chúa Con trừ Người Cha và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11,27). Khi sống lại, th́ thật rơ ràng Chúa Giêsu Kitô thực sự là Con Thiên Chúa.

«      Chỉ nói về Chúa Kitô nếu có người đ̣i hỏi bạn. Nhưng bạn hăy sống thế nào khiến cho người ta đ̣i hỏi bạn nói về Người. Paul Claudel (1868–1955, thi sĩ và nhà viết kịch Pháp).

«      Người ta không chỉ trích Chúa Kitô. Người ta chỉ trích các Kitô hữu v́ họ không giống như Chúa Kitô. Francois Mauriac (1914-1996, tiểu thuyết gia Pháp).

75.         Tại sao Kitô hữu gọi Đức Giêsu là Chúa ?

-  V́ chính Đức Giêsu nói: Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa th́ thật đúng, v́ Ta là như vậy (Ga 13,13). [446-451, 455]

     Đối với các Kitô hữu thời đầu tiên, nói Đức Giêsu là Chúa đó là chuyện hiển nhiên v́ biết rằng danh hiệu này trong Cựu ước dùng để chỉ Thiên Chúa. Bằng nhiều dấu hiệu Chúa Giêsu đă tỏ cho họ biết Chúa có một sức mạnh thần linh trên thiên nhiên, trên ma quỉ, tội lỗi và sự chết. Nguồn gốc thần linh của sứ vụ Chúa Giêsu được bày tỏ khi Người sống lại từ cơi chết. Thánh Tôma tuyên bố: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Nếu Chúa Giêsu “là Chúa”, th́ Kitô hữu không được qú gối trước một sức mạnh nào khác!

«      Ở đâu Thiên Chúa không chiếm chỗ nhất… .ở đó nhân phẩm con người bị đe dọa. Như vậy rất cần hướng dẫn con người thời nay khám phá lại bộ mặt đích thực của Thiên Chúa, được mặc khải cho ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Đức Bênêđictô XVI, 28-8-2005

76.        Tại sao Thiên Chúa lại nhập thể nơi Đức Giêsu ?

-  Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đă dạy: "V́ loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đă từ trời xuống thế ". [456-460]

     Thiên Chúa đă giao ḥa thế giới với Người và giải thoát con người khỏi tội trong Chúa Giêsu Kitô. “Thiên Chúa đă yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một của Người” (Ga 3,16). Thiên Chúa đă nhận lấy xác phàm phải chết của ta nơi Chúa Giêsu (nhập thể), đă chia sẻ thân phận trần thế, những đau khổ và cái chết của ta và trở nên một người như ta trong hết mọi sự, trừ tội.

«      Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người. Đức Bênêđictô XVI, 24-12-2005

77.        Khi nói Chúa Giêsu Kitô "vừa là Thiên Chúa thật lại vừa là người thật" nghĩa là ǵ ?

-  Nghĩa là nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở nên một con người như chúng ta và cũng là anh em của chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn đồng thời là Thiên Chúa và là Chúa chúng ta. Công đồng Calcêđôn (năm 451) dạy rằng: Thiên tính và Nhân tính đă nên một trong Chúa Giêsu Kitô “không chia ĺa hoặc lẫn lộn”. [464-467, 469]

     Hội thánh đă vất vả lâu năm để diễn tả cho đúng mối quan hệ giữa thiên tính và nhân tính nơi Chúa Giêsu Kitô. Thiên tính và nhân tính không cạnh tranh với nhau dường như có lúc Chúa Giêsu là người có lúc là Thiên Chúa. Ta cũng không thể nói là thiên tính và nhân tính ḥa trộn với nhau trong Chúa Giêsu, cũng không thể nói rằng Thiên Chúa chỉ giả vờ mặc lấy thân xác con người nơi Chúa Giêsu (thuyết docétisme): Thiên Chúa làm người thật sự. Không phải là nơi Chúa Giêsu có hai ngôi vị liên hợp với nhau (thuyết Nestorianisme). Sau hết quả quyết rằng nhân tính hoàn toàn biến mất trong thiên tính cũng là lạc giáo (thuyết monophysisme). Chống lại các thứ lạc giáo kể trên, Hội thánh duy tŕ chắc chắn đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người nơi một ngôi vị duy nhất. Công thức nổi tiếng của Công đồng Chalcedoine là “không chia rẽ không lẫn lộn”, công thức này không cố gắng để giải nghĩa điều vượt trên hiểu biết của con người, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến hai điểm then chốt của đức tin. Công thức cho biết “cái hướng ta phải theo để t́m hiểu mầu nhiệm của ngôi vị Chúa Giêsu.

«      Chúa Giêsu vẫn là như từ trước Người là, và Chúa đảm nhận vào Ḿnh cái trước đây Người không là. Phụng vụ Rôma ngày 1 tháng giêng

«      Sự thực là mầu nhiệm con người chỉ sáng tỏ thật sự trong mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể. Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes

«      Hiểu biết về Thiên Chúa mà không hiểu biết về khốn khổ của ḿnh làm cho kiêu ngạo. Hiểu biết về khốn khổ của ḿnh mà không hiểu biết Thiên Chúa làm cho thất vọng. Hiểu biết về Chúa Giêsu Kitô làm cho ta ở giữa, bởi v́ ta thấy ở đó có cả Thiên Chúa cả khốn khổ của ta nữa. Blaise Pascal

78.        Tại sao chúng ta chỉ hiểu được Chúa Giêsu như là một mầu nhiệm ?

-  V́ Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người thật, nên ta không thể hiểu Chúa Giêsu nếu ta loại bỏ thực tại vô h́nh của Thần tính Người. [525-530, 536]

Mầu nhiệm. Mầu nhiệm là một thực tại( hoặc là một mặt của thực tại) mà sự hiểu biết do lư trí không thể đạt tới được.

«      Khía cạnh hữu h́nh của Chúa Giêsu chuyển dẫn ta đến khía cạnh vô h́nh của Người. Có những yếu tố rất quan trọng trong cuộc đời Người mà ta chỉ hiểu được như là các Mầu nhiệm, chẳng hạn thân phận làm Con Thiên Chúa, việc nhập thể, cuộc khổ nạn và sự sống lại của Người. Jeremy Taylor (1613-1667, văn sĩ tôn giáo Anh)

79.        Chúa Giêsu có linh hồn, tâm trí và thân xác như chúng ta không ?

-  Có. V́ Chúa Giêsu là người thật, nên Người "làm việc với đôi tay con người, nghĩ tưởng với tâm trí con người, hành động với ư muốn con người, và yêu thương với trái tim con người" (CĐ Vatican II, Hiến chế Mục vụ 22, 2). [470-476]

     V́ Chúa có đầy đủ bản tính con người, nên Người có một linh hồn và Người tự phát triển cách thiêng liêng. Chính trong linh hồn này chứa đựng căn tính con người và Người có ư thức về chính ḿnh. Chúa Giêsu có ư thức được hiệp nhất với Chúa Cha trên trời trong Chúa Thánh Thần. Người để Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh của đời Người.

«      C̣n Chúa Giêsu là một hiển nhiên (quá rơ ràng không c̣n ǵ có thể nghi ngờ). Hans Urs Von Balthasar (1905-1988, thần học gia công giáo Thụy Sĩ)

80.        Tại sao Đức Maria Đồng trinh ?

-  V́ Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu Kitô có một người Mẹ thực sự là loài người, c̣n về Cha th́ chỉ ḿnh Thiên Chúa là Cha Người. Như thế Ngài muốn khai mở một sự khởi đầu mới nơi Chúa Giêsu, khởi đầu này được mọi người nhận biết là do chính Thiên Chúa là Cha, chứ không do bất cứ một quyền lực trần thế nào khác. [484-504, 508-510]

     Việc Đức Maria đồng trinh không phải là một ư niệm thần thoại lỗi thời, nhưng là điều căn bản cho cuộc đời Chúa Giêsu. Người được sinh ra bởi một phụ nữ nhưng Người không có Cha là loài người. Chúa Giêsu là một khởi đầu mới trong trần gian, do Thiên Chúa tạo nên. Trong Tin Mừng Thánh Luca, Đức Maria hỏi Sứ Thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Sứ Thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc 1,34-35). Dù từ những thế kỷ đầu tiên Hội Thánh đă gặp nhiều chế nhạo về việc Đức Maria đồng trinh, Hội Thánh vẫn luôn tin rằng Đức Maria đồng trinh thực sự chứ không phải tượng trưng. à 117

«      Điều mà đức tin Công giáo tin về Đức Maria đặt nền móng trên điều Hội Thánh tin về Chúa Kitô. Sách Giáo lư Hội Thánh Công Giáo 487

«      Bởi v́ một người Cha như Chúa Giêsu phải có, th́ không thể nào có được nơi các người cha loài người được. Wilhelm Willms, Ave Eva (1930-2002, linh mục văn sĩ)

«      Nếu ai không tuyên xưng rằng: Đức Emmanuel là Thiên Chúa thật và Đức Maria là trinh nữ Mẹ Thiên Chúa…th́ bị mắc vạ tuyệt thông. Công đồng Ephêsô 431

81.        Ngoài Chúa Giêsu ra, Đức Maria c̣n có những người con khác nữa không ?

-  Không. Chúa Giêsu là người con trai duy nhất của Đức Maria xét theo nghĩa huyết tộc. [500-510]

     Hội thánh sơ khởi đă quả quyết là Đức Mẹ đồng trinh trọn đời, điều này loại trừ việc có những anh chị em ruột thịt của Chúa Giêsu. Trong tiếng Araméen là tiếng mẹ đẻ của Chúa Giêsu, chỉ có một từ để chỉ anh em và chị em ruột cũng như anh em và chị em họ. Nên trong các Tin Mừng, khi nói đến “anh chị em” Chúa Giêsu (Mc 3,31-35 chẳng hạn) là nói đến anh chị em họ của Người.

82.        Gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa có chướng tai không ?

-  Không. Ai gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa cũng là tuyên xưng Con của Mẹ là Thiên Chúa. [495, 509]

     Trong Kitô giáo sơ khởi, khi tranh luân để định nghĩa Chúa Giêsu là ai, danh hiệu “Mẹ Thiên Chúa” (Theotokos) được dùng để giải thích Kinh thánh cho đúng: Đức Maria c̣n mang trong ḷng một người con là Con thật của Thiên Chúa. Cuộc tranh luận không nhắm tới Đức Maria trước hết, nhưng nhắm về Chúa Giêsu: Người có thể vừa là người vừa là Thiên Chúa không? à 117

«      Ở đâu đức tin về Mẹ Thiên Chúa lu mờ th́ đức tin về Con Thiên Chúa và về Thiên Chúa cũng bị lu mờ. Ludwig Feuerbach (1804–1872, triết gia Đức, vô thần, trong sách Tinh hoa Kitô giáo)

83.        Gọi Đức Maria "Vô nhiễm Nguyên tội" nghĩa là ǵ ?

-  Hội Thánh Công giáo tin rằng "Thánh Nữ Đồng trinh Maria, từ lúc bắt đầu đậu thai, bởi ơn huệ và ḷng quư mến đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, và bởi công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu chuộc, Đức Mẹ được ǵn giữ khỏi lây nhiễm mọi vết nhơ của tội Tổ Tông, v́ thế chúng ta xưng tụng Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội (Tín điều 1854; à Tín điều). [487-492, 508]

     Trong lịch sử Hội Thánh, Kitô hữu rất mau đă tuyên xưng Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội. Kiểu nói này ngày nay bị hiểu lầm. Nó có nghĩa là ngay từ lúc đầu, Thiên Chúa đă ǵn giữ Đức trinh nữ Maria khỏi mắc tội tổ tông truyền. Kiểu nói đó không áp dụng cho việc thụ thai Chúa Giêsu trong ḷng Đức Maria. Kiểu nói đó không phải là làm mất giá trị của tính dục Kitô giáo, coi như một người nam và một người nữ “phạm tội với nhau” để sinh con.

à 68-69

«      Năm 1858, khi hiện ra với cô Bernadette Soubirous ở Lộ đức Đức Maria giới thiệu ḿnh là “Đấng vô nhiễm nguyên tội”. Câu này đă có hậu quả quan trọng trong lịch sử. Reinold Schneider (1903–1958, văn sĩ Đức)

84.        Có phải Đức Maria chỉ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa không ?

-  Đức Maria c̣n hơn là một dụng cụ thụ động trong tay Thiên Chúa v́ Mẹ đă chủ động chấp nhận qua lời "Xin vâng", để việc Chúa nhập thể được hoàn thành.

[493-494, 508-511]

     Đức Maria trả lời cho sứ thần đă báo tin Mẹ sẽ sinh ra Con Thiên Chúa tối cao rằng: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Việc cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô đă bắt đầu bởi lời mời gọi của Thiên Chúa, bởi lời chấp nhận tự do của một người, và Đức Mẹ thụ thai trước khi lễ cưới với Thánh Giuse. Cũng theo những con đường không b́nh thường, Đức Maria đă trở nên “cửa cứu rỗi” chúng ta. à  479

85.        Tại sao Đức Maria cũng là Mẹ chúng ta nữa ?

-  Đức Maria là Mẹ chúng ta, v́ Chúa Giêsu từ trên thập giá đă trao ban Mẹ Người làm Mẹ chúng ta. [963-966, 973]

     Thưa Bà, đây là con của Bà…Đây là Mẹ của anh” (Ga 19, 26.29). Hội thánh luôn coi những lời mà từ trên thập giá Chúa Giêsu nói với Đức Maria và môn đệ Người yêu mến, là việc trao phó toàn thể Hội Thánh cho Đức Maria. V́ thế Đức Maria cũng là Mẹ chúng ta. Chúng ta có thể kêu cầu Mẹ và xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta trước mặt Chúa.  à 147 - 149

«      Đối với tất cả nhân loại, đức Maria là Mẹ rất nhân từ, là nơi ẩn náu của mọi tội nhân. Thánh Anphongsô Liguori (1696-1787, sáng lập ḍng Chúa Cứu Thế, nhà thần bí và tiến sĩ Hội thánh).

«      Hội thánh càng sống theo h́nh ảnh Đức Maria càng trở thành Mẹ, càng giúp người ta có thể sinh lại trong ḷng ḿnh để làm con Chúa, để được ḥa giải với Chúa. Roger Schutz (1915-2005, sáng lập và bề trên cộng đồng đại kết Taizé)

«      Trong gia đ́nh, con cái học biết yêu thương bằng cách yêu thương không vụ lợi; chúng học biết tôn kính mọi người khác bằng cách tôn trọng họ; chúng học biết Thiên Chúa bằng cách chúng nhận thấy được ngay từ lúc đầu t́nh cha và t́nh mẹ chăm sóc chúng. Hội nghị về đức tin, 31-5-2004

86.        Tại sao Chúa Giêsu đă chờ đến 30 tuổi mới đi giảng đạo công khai ?

-  V́ Chúa Giêsu đă muốn chia sẻ đời sống b́nh thường với chúng ta và như thế, Người thánh hóa những công việc thông thường hàng ngày của chúng ta. [531-534, 564]

     Chúa Giêsu đă là một em bé được cha mẹ yêu thương và nuôi nấng. Người ngày càng khôn lớn và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến (Lc 2,52). Người là dân trong một làng Do Thái, tham dự các nghi lễ tôn giáo. Người học một nghề chân tay để chứng minh khả năng của Người. Thiên Chúa đă muốn Chúa Giêsu sống và lớn lên trong gia đ́nh nhân loại, v́ gia đ́nh là nơi có Thiên Chúa ngự, gia đ́nh là một cộng đoàn gương mẫu trong đó ta gặp được sự trợ giúp và nâng đỡ.

87.        Tại sao Chúa Giêsu để ông Gioan Tiền hô làm phép rửa cho ḿnh, dù Người chẳng có tội ǵ ?

-  Chúa Giêsu chịu phép rửa là chịu ǵm trong lịch sử tội lỗi của cả nhân loại. Nhờ đó Người dạy ta rằng để cứu độ chúng ta khỏi tội lỗi, một ngày kia Người sẽ bị ǵm trong cái chết, để được sống lại nhờ quyền năng của Cha Người. [535-537, 565]

     Những tội nhân, lính tráng, gái hư hỏng, người thu thuế đến với tiên tri Gioan Tẩy giả, v́ họ đi t́m một phép rửa sám hối để được tha tội (Lc 3,3). Thực ra Chúa Giêsu không cần phải chịu phép rửa v́ Người vô tội, nhưng Người muốn chịu phép rửa để chỉ cho ta thấy hai việc: Chúa Giêsu nhận lấy tội lỗi của ta nơi ḿnh, và việc Người chịu phép rửa báo trước cuộc khổ nạn và sống lại của Người. Đang khi Người tỏ dấu hiệu sẵn sàng chết cho ta th́ trời mở ra: Con là Con yêu dấu của Ta (Lc 3,22).

«      Giữa những người công chính và tội nhân có một sự hiệp thông, bởi v́ cuối cùng chẳng có ai là công chính. Gertrud Von Le Fort (1876–1971, văn sĩ Đức)

88.        Tại sao Chúa Giêsu lại chịu cám dỗ ? Người có thể chịu cám dỗ thực sao ?

-  V́ Chúa Giêsu thực sự là một con người, nên Người phải chịu cám dỗ. Như Thánh Phaolô viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta là Đấng biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, v́ Người đă chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội (Dt 4,15). [538-540, 566]

«      Kitô hữu hàng ngày phải đương đầu với cuộc chiến đấu mà Chúa Giêsu đă phải chịu đựng ở sa mạc Giuđêa suốt bốn mươi ngày do chính Satan gây ra. Đây là cuộc chiến đấu thiêng liêng chống lại tội lỗi, mà cuối cùng là chống lại Satan. Đó là một cuộc chiến đấu buộc toàn diện con người phải tham gia và đ̣i hỏi luôn phải tỉnh thức và kiên tŕ.  Đức Bênêđíctô XVI, 01-3-2006

89.        Chúa Giêsu hứa "Nước Thiên Chúa" cho những ai ?

-  “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư” (1Tm 2,4). Nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu nơi những ai để cho T́nh yêu Chúa biến đổi ḿnh. Họ trước hết là những người nghèo khó và thấp hèn như Chúa Giêsu thường nói (xem Tám mối phúc). [541-546, 567]

     Cả những người xa Hội thánh cũng thấy quyến rũ khi Chúa Giêsu hướng về những người nam và nữ bị gạt ra lề xă hội với một t́nh yêu ưu tiên. Trong bài giảng trên núi, những nạn nhân của bách hại và bạo lực, tất cả những ai t́m Chúa với ḷng trong trắng, tất cả những ai t́m đến ḷng thương xót, sự công chính và sự b́nh an của Chúa, đều ưu tiên vào Nước Thiên Chúa. Ngay cả người tội lỗi cũng được nghe những lời mời gọi đặc biệt: không phải là những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người bệnh tật; tôi đến kêu gọi không phải người công chính, nhưng những người tội lỗi (Mc 2,17).

Chúa Giêsu nói về Cha Người: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, v́ Chúa đă xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đă sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức công bố một năm hồng ân của Chúa.” Lc 4,18-14

90.        Chúa Giêsu có thực đă làm các phép lạ hay đó chỉ là những huyền thoại đạo đức ?

- Chúa Giêsu thực sự đă làm những phép lạ. Các thánh sử Tân Ước đă thuật lại những sự kiện có thực này. [547-550]

     Những nguồn tài liệu cổ đă nói đến nhiều phép lạ xác nhận việc giảng dạy của Chúa Giêsu: “Nhưng nếu tôi dựa vào Thánh Thần của Thiên Chúa mà trừ quỉ, th́ quả là triều đại Thiên Chúa đă đến giữa các ông” (Mt 12,28). Các phép lạ đă được thực hiện công khai và người ta c̣n biết cả tên những người được hưởng phép lạ: chẳng hạn anh mù Bartimê (Mc 10,46-52), hoặc bà mẹ vợ thánh Phêrô (Mc 8,14-15). Ngoài ra c̣n có những phép lạ đă gây sốc và tức giận cho giới Do Thái (chữa lành người bất toại vào ngày sabbat hoặc chữa người cùi). Dầu vậy, các phép lạ không bị Do Thái giáo thời Chúa Giêsu tranh căi.

«      Một phép lạ không được thực hiện trái ngược với thiên nhiên nhưng trái ngược với hiểu biết của ta về thiên nhiên.  Thánh Augustinô

91.        Tại sao Chúa Giêsu làm các phép lạ ?

-  Người làm các phép lạ như những dấu chỉ Nước Thiên Chúa đă bắt đầu, để biểu lộ t́nh yêu của Người cho con người và xác quyết sứ mạng của Người. [547-550]

     Khi làm phép lạ Chúa Giêsu không cần phải dàn cảnh như thầy phù thủy. Người biểu lộ sức mạnh của t́nh yêu cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ các phép lạ Người chứng tỏ Người là Mêsia và Nước Thiên Chúa bắt đầu với Người. Người làm cho thấy được một thế giới mới: giải thoát khỏi đói khát (Ga 6,5-15), bất công (Lc 19,8), bệnh tật và cái chết (Mt 11,5). Khi trừ quỷ là Người đă bắt đầu cuộc chiến thắng của Người trên "thủ lănh của thế gian" (Ga 12,31 nghĩa là Satan. Tuy nhiên Chúa Giêsu đă không loại bỏ hết những ǵ là xấu là ác trong thế gian. Điều Người muốn cho biết trước hết là cần phải giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi. Ngay cả khi làm các phép lạ, điều mà Người hết sức quan tâm chính là đức tin. à 241 - 242

Họ hết sức kinh ngạc và nói: ông ấy làm việc ǵ cũng tốt đẹp cả, ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được. Mc 7,37

«      Không nơi nào trên trần gian đă có một phép lạ lớn như trong chuồng ḅ nhỏ ở Betlem: ở đây Thiên Chúa và con người trở thành một. Thomas a Kempis (1380-1471, nhà thần bí Đức, tác giả sách Gương Chúa Giêsu).

92.        Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ để làm ǵ ?

-  Chúa Giêsu có nhiều môn đệ cả nam lẫn nữ. Trong nhóm đó, Người chọn 12 ông làm Tông đồ (Lc 6,12-16). Chúa dạy dỗ họ kĩ càng và trao cho họ nhiệm vụ: “Người sai họ đi rao giảng Nước Chúa, và chữa bệnh cho dân” (Lc 9,2). Trong bữa Tiệc ly, Người chỉ dùng bữa với 12 ông, và truyền dạy họ: "Các con hăy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (Lc 22, 19). [551-553, 567]

     Các tông đồ là những chứng nhân về việc Chúa sống lại và là những bảo đảm cho sự thật về Người. Các ngài tiếp tục công việc sau khi Chúa chết và đă chọn nhiều người để kế vị các ngài: đó là các giám mục. Ngày nay những đấng kế vị các tông đồ c̣n thi hành đầy đủ quyền năng được Chúa Giêsu trao phó: các ngài điều khiển, giảng dạy và cử hành. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các tông đồ đă trở nên nền móng cho sự hiệp nhất trong Hội Thánh ( sự nối tiếp của các tông đồ). Thánh Phêrô nổi bật giữa nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu trao cho quyền năng đặc biệt: "Con là Đá và trên Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" (Mt 16,18). Từ hoàn cảnh đặc biệt của Thánh Phêrô giữa nhóm các tông đồ mà phát xuất nhiệm vụ của Giáo Hoàng. à 137

Như Chúa Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.  Ga 20,21

93.        Tại sao Chúa Giêsu biến h́nh trên núi ?

-  Ngay khi Chúa Giêsu c̣n ở trần gian, Chúa Cha đă muốn bày tỏ vinh quang thiên tính của Con ḿnh. Và Chúa Giêsu cũng muốn biến h́nh để giúp các môn đệ sau này hiểu được ư nghĩa về cái chết và sự sống lại của Người. [554-553, 567]

     Ba sách Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu đă tỏa sáng thế nào trước mắt các môn đệ (Người đă biến h́nh). Lời của Cha trên trời ban cho Chúa Giêsu danh hiệu "Con yêu dấu" và bảo phải nghe lời Người. Thánh Phêrô muốn "dựng ba lều" để kéo dài thời gian đó. Nhưng Chúa Giêsu đang trên đường dẫn tới cuộc tử nạn. Việc được thấy vinh quang của Chúa có mục đích giúp các môn đệ vững tin hơn.

«      Nếu có người nào được ơn mặc khải mạnh mẽ của Chúa, họ sẽ thấy như họ được sống giống như các môn đệ Chúa đă sống trong cuộc Chúa biến h́nh: trong một chốc lát được nếm trước hạnh phúc ở Thiên đường. B́nh thường đó là những mặc khải ngắn ngủi đôi khi Chúa ban cho trước để chuẩn bị họ cho những thử thách khắc nghiệt hơn. Đức Bênêđictô XVI, 12-3-2006

94.        Chúa Giêsu có biết Người sẽ chết khi vào thành Giêrusalem không ?

- Có. Chúa Giêsu đă ba lần báo trước về sự đau khổ và sự chết mà Người biết rơ và tự nguyện đi đến nơi chịu thương khó (Lc 9,51). [557-560, 569-570]

Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ về những điều sắp xảy đến cho ḿnh: Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đ̣n và giết chết Người. Ba ngày sau Người sẽ sống lại. Mc 10, 32-34

95.        Tại sao Chúa Giêsu chọn ngày lễ Vượt qua của người Do thái để chịu chết và sống lại ?

-  Chúa Giêsu đă chọn lễ Vượt qua của người Do thái như một biểu tượng cho công việc mà người sắp hoàn thành trong cái chết và sống lại của Người. Như xưa người Do thái được giải thoát khỏi kiếp nô lệ người Ai cập, nay Chúa Giêsu cũng giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. [571-573]

     Lễ Vượt qua là lễ mừng dân Israel được giải phóng khỏi nô lệ Ai Cập. Chúa Giêsu đi Giêrusalem để giải phóng ta c̣n sâu sắc hơn nhiều. Người đă ăn mừng lễ Vượt qua với các môn đệ, nhưng, thay v́ hiến tế chiên Vượt qua theo truyền thống Do Thái, Người hiến tế chính ḿnh Người như chiên của hy lễ. Chiên lễ Vượt qua của ta là Chúa Kitô đă được hiến tế (1Cr 5,7) để dứt khoát giao ḥa giữa Thiên Chúa và loài người một lần cho tất cả. à 171

Khi giờ đă đến, Chúa Giêsu vào bàn, và các tông đồ cùng vào với Người. Người nói với các ông: Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ h́nh. Bởi v́, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa cho đến khi lễ này được nên trọn. Lc 22,14-16

96.        Tại sao con người ḥa b́nh như Chúa Giêsu lại bị xử chết trên thập giá ?

-  Chúa Giêsu đă buộc những người đương thời của ḿnh phải có một quyết định dứt khoát đối với các hoạt động của Người, như : tha tội, không giữ ngày Sabat hoặc nh́n nhận uy quyền thần linh của Người, hoặc coi Người là kẻ lường gạt, tên phạm thượng, người phạm luật, cần phải lên án chết trên thập giá cho Người. [574-576]

     Về nhiều mặt, hành động của Chúa Giêsu quả là một thách đố lớn đối với Do Thái giáo truyền thống ở thời Người. Người đă tha tội, điều mà chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới làm được; Người đă làm cho luật ngày Sabbat không c̣n là tuyệt đối, Người đă chuốc lấy sự nghi ngờ mắc tội phạm thượng và chuốc lấy cả tố cáo là một tiên tri giả. Từng bấy nhiêu vi phạm khiến Lề Luật dự kiến cho Người bị tử h́nh.

97.        Người Do thái có trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu không ?

-  Không ai có thể kết tội cho dân tộc Do thái về cái chết của Chúa Giêsu. Trái lại Hội Thánh Công giáo tuyên bố chắc chắn rằng: mọi tội nhân đều là ṭng phạm trong cái chết của Chúa Giêsu. [597-598]

     Tiên tri Simêon đă biết trước là Chúa Giêsu làm "duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngă hay được chỗi dậy" (Lc 2,34). Đă có một cuộc chống đối Chúa Giêsu mạnh mẽ từ phía chính quyền Do Thái, nhưng Chúa Giêsu có những môn đệ bí mật thuộc phe Pharisiêu như ông Nicôđem và Joseph Arimathi. Trong vụ án Chúa Giêsu, nhiều nhân vật và nhà cầm quyền Rôma cũng như Do Thái có liên lụy (Caipha, Giuđa, Đại hội đồng, Hêrôđê, Ponce Pilate). Chỉ ḿnh Thiên Chúa mới có thể xét xử tội lỗi riêng của mỗi người. Luận án cho rằng mọi người Do Thái thời đó hoặc các người Do Thái thời nay phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu là điều vô lư và không thể bênh vực được xét theo Kinh Thánh. à 135

«      Không phải ma quỷ đă đóng đinh Chúa Giêsu mà là chính bạn cùng với ma quỷ đă đóng đinh Người và c̣n đóng đinh Người bằng cách ham thích thói xấu và tội lỗi. Thánh Phanxicô Atxidi

98.        Thiên Chúa có muốn cho Con của Người phải chết không ?

-  Cái chết dữ dằn của Chúa Giêsu không do những sắp đặt, những toan tính ác độc của con người. Chúa Giêsu đă “tự nguyện phó ḿnh theo chương tŕnh Thiên Chúa định trước” (Cv 2,23). Để chúng ta, là những con cái của tội lỗi và sự chết, được cứu sống, Cha trên trời của Đấng vô tội đă "làm cho Con của Ngài thành tội nhân, v́ chúng ta" (2 Cr 5, 21). Sự hi sinh lớn lao mà Chúa Cha mong đợi nơi Chúa Con đă được Chúa Con đáp lại bằng sự từ bỏ ḿnh cho đến chết: “Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính v́ giờ này mà con đă đến” (Ga 12, 27). Thế là từ cả hai phía, Cha và Con đă xuất hiện một t́nh yêu đến tột cùng là chết trên thập giá. [599-609, 620]

     Để cứu ta khỏi chết, Thiên Chúa đă thực hiện một sứ mệnh nguy hiểm: Người đă đem vào thế giới sự chết của ta "một thứ thuốc bất tử" (Thánh Inhaxiô Antiôkia). Chúa Cha và Chúa Con là hai đồng minh không thể tách rời trong sứ mệnh đó. Đầy ḷng ước ao nồng nhiệt và v́ yêu thương loài người, các Ngài đă nhận cho ḿnh cái ǵ là cực độ cực điểm. Thiên Chúa đă đề nghị một trao đổi để cứu độ ta măi măi: Người muốn ban sự sống đời đời của Người để ta có thể nếm được niềm vui của Người. Chúa Giêsu đă muốn chịu đựng cuộc hấp hối của ta, sự tuyệt vọng của ta, cảm xúc bị bỏ rơi của ta, cái chết của ta, để được hiệp thông hoàn toàn với ta mà Người vẫn hoàn toàn hiệp thông với Cha Người. Để yêu thương ta đến cùng và hơn thế nữa. Cái chết của Chúa Kitô là ư muốn của Chúa Cha, nhưng nó không phải tiếng nói cuối cùng. Bởi v́ Chúa Kitô chết cho ta, nếu ta hiệp thông với Người, ta có thể đổi sự chết của ta lấy sự sống của Người.

Chúa Giêsu biết giờ của Người đă đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về ḿnh c̣n ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Ga 13,1

«      Thánh giá là thang để ta về trời, bỏ thánh giá đi, ta không c̣n thang nào khác. Thánh nữ Rosa Lima (1586–1617, thánh nữ đầu tiên của Pérou)

99.        Khi Chúa Giêsu ăn Bữa Tiệc Ly với các tông đồ, đă xảy ra những chuyện ǵ ?

- Chúa Giêsu đă bày tỏ t́nh yêu của Người trong 3 việc: rửa chân cho các tông đồ; lập Bí tích Thánh Thể ; lập chức Linh mục của Giao ước mới. [610-611]

     Chúa Giêsu đă bày tỏ t́nh yêu Người đến cùng bằng cách: Người đă rửa chân cho các môn đệ, để tỏ ra rằng Người ở giữa ta như một người phục vụ (Lc 22,27). Người đă chịu trước đau khổ để cứu độ bằng cách đọc những lời trên lễ vật dâng lên là bánh rượu: Đây là Ḿnh Thầy hiến tế v́ anh em (Lc 22,19), như vậy Người thiết lập Bí tích Thánh Thể. Khi Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: Hăy làm như Thầy vừa làm để nhớ đến Thầy (1Cr 11,24). Người đă thiết lập họ thành các Linh mục của Giao ước mới.  à 208 – 223

«      Hiểu theo một nghĩa, có thể nói chính xác rằng Bữa Tiệc ly là hành vi thiết lập Hội Thánh, v́ Chúa Giêsu tự hiến chính ḿnh và thiết lập một cộng đồng mới, một cộng đồng hiệp nhất trong hiệp thông với chính Người. Đức Bênêđictô XVI, 15-3-2006

100.    Vào đêm trước khi chết, trên núi Cây dầu, có phải  Chúa Giêsu đă thực sự cảm thấy kinh hoàng trước cái chết không ?

-  V́ là người như ta, Chúa Giêsu thực sự cảm thấy kinh hoàng trước cái chết khi ở trong vườn Giệtsêmani (vườn cây dầu). [612]

     Với sức lực của loài người, cũng giống sức lực trong mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đă phải chiến đấu trong nội tâm để hoàn toàn tuân theo ư Chúa Cha muốn Người hiến sự sống cho thế gian được sống. Ở vào lúc khó khăn nhất, bị mọi người dù là bạn hữu nữa cũng bỏ rơi, Chúa Giêsu đă quyết định xin vâng. “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi Con; nhất định Con phải uống th́ xin cho ư Cha được thể hiện” (Mt 26,42). à 476

«      Thiên Chúa không đến để làm cho hết đau khổ. Người cũng không đến để giải nghĩa về đau khổ, Người đến để lấp đầy đau khổ bằng sự có mặt của Người. Paul Claudel (1868–1955, thi sĩ và văn sĩ Pháp).

101.    Tại sao Chúa Giêsu phải cứu chuộc chúng ta bằng cái chết trên thánh giá, mà không dùng cách khác ?

-  Dù vô tội, Chúa Giêsu cũng chọn cái chết dữ dằn để từ bỏ ḿnh và tận hiến hoàn toàn trên thánh giá. Người đă chọn thập giá để gánh tội thế gian và chịu những đau khổ của nhân loại. Như thế, v́ T́nh yêu trọn hảo của Người, Người đă đem nhân loại trở về cùng Thiên Chúa. Không ai c̣n có thể nói: Thiên Chúa không biết tôi phải đau khổ. [613-617, 622-623]

Khổ nạn từ dùng để chỉ những đau khổ của Chúa Kitô.

«      Thiên Chúa đă giang tay trên thập giá để ôm lấy hết giới hạn của thế giới. Thánh Cyrille ở Giêrusalem (313–387, giáo phụ của Hội thánh)

«      Ta là Kitô hữu, ta không ch́m đắm vào trong băo tố của thế gian chỉ v́ một lư do duy nhất là ta được đùm bọc bởi cây thập giá. Thánh Augustinô

102.    Tại sao chúng ta cũng phải chấp nhận đau khổ trong cuộc sống, phải "vác thập giá ḿnh mà theo Chúa Giêsu" ?

-  Kitô hữu không được t́m đau khổ, nhưng khi phải đối diện với đau khổ mà không tránh được, họ nên vui ḷng kết hợp đau khổ của họ với đau khổ của Chúa Giêsu, như "Người đă chịu đau khổ v́ ta và để nêu gương cho ta bước theo Người" (1 Pr 2,21). [618]

     Chúa Giêsu đă nói: nếu ai muốn theo Tôi, hăy từ bỏ ḿnh vác thập giá ḿnh mà theo Tôi (Mc 8,34). Kitô hữu phải tranh đấu để chống lại đau khổ trong thế giới. Dầu vậy, đau khổ sẽ tiếp tục tồn tại. Trong đức tin, ta có thể đón nhận đau khổ riêng của ta và chia sẻ với đau khổ của những người khác nữa. Bằng cách đó đau khổ loài người được hội nhập vào t́nh yêu cứu chuộc của Chúa Kitô và nhờ đó trở nên thành phần hấp dẫn của sức mạnh thần linh lôi kéo thế giới tới hạnh phúc.

«      Nếu bạn vác thập giá ḿnh cách vui vẻ, thập giá sẽ vác bạn. Thomas a Kempis

«      Ta phải vác thập giá chứ không kéo lê, và phải đón nhận thập giá như kho tàng chứ không phải như một gánh nặng. Chỉ nhờ thập giá mà ta có thể nên giống như Chúa Kitô. Francis Fénelon (1651–1715, giám mục Pháp)

«      Thực hiện cứu chuộc bằng đau khổ, Chúa Kitô đă đồng thời nâng đau khổ của loài người lên để cho nó có giá trị cứu chuộc. Tất cả mọi người đều có thể đem đau khổ của ḿnh tham dự vào đau khổ cứu rỗi của Chúa Kitô.  Đức Gioan Phaolô II, Salvifici Doloris

«      Khi ta nh́n ngắm thánh giá, ta hiểu được sự cao cả của t́nh yêu Chúa. Khi ta nh́n ngắm máng cỏ, ta hiểu được sự âu yếm của t́nh yêu Chúa, đối với bạn, đối với tôi, đối với gia đ́nh bạn và đối với tất cả mọi gia đ́nh. Mẹ Têrêsa

103.    Chúa Giêsu có chết thật không ? hay Người chỉ "làm bộ chết" để c̣n sống lại ?

- Chúa Giêsu thực sự đă chết trên Thánh giá. Xác Người đă được chôn táng. Tất cả các tài liệu gốc viết về Người đều chứng minh điều này. [627]

     Theo Gioan 19,33, quân lính nhận thấy rơ ràng Chúa Giêsu đă chết. Một lưỡi đ̣ng đâm thủng cạnh sườn Chúa và họ thấy nước cùng máu chảy ra. Cần phải nói thêm là người ta đă đánh dập ống chân của hai người khác bị đóng đinh, đây là biện pháp để làm cho họ chết mau hơn – nhưng điều này không cần thiết đối với Chúa Giêsu v́ Người đă chết.

«      Tấm khăn liệm xác Chúa, được giữ tại Turin là một tấm khăn vải lanh ở thế kỷ I. Năm 1898 tấm khăn được chụp h́nh lần đầu bởi một người ở Turin. Nh́n âm bản của phim, người ta thấy in trên vải sợi lanh một h́nh ảnh bí nhiệm của một người bị tử h́nh thời cổ.

104.    Bạn có thể là Kitô hữu mà không tin Chúa Giêsu đă sống lại không ?

-  Không. Thánh Phaolô viết: "Nếu Chúa Kitô đă không sống lại th́ lời chúng tôi rao giảng sẽ vô ích, và đức tin của bạn cũng vô ích" (1Cr 15,14). [631, 638, 651]

105.    Làm thế nào mà các môn đệ Chúa Giêsu đă đi đến chỗ tin Người sống lại ?

-  Đầu tiên, các ông mất hết hi vọng, nhưng dần dần, các ông đă đi đến chỗ tin Chúa sống lại, v́ sau khi Người chết, họ đă thấy Người trong nhiều dịp khác nhau, các ông đă nói chuyện với Người, đă có kinh nghiệm rơ ràng là Người đang sống. [640-644, 656]

     Những biến cố Phục Sinh diễn ra ở Giêrusalem khoảng năm 30 không phải là chuyện bày đặt ra. Bị sốc v́ cái chết của Chúa và v́ sự nghiệp chung thất bại, các môn đệ đă trốn mất. Chúng tôi hy vọng rằng Người là Đấng sẽ giải thoát Israel (Lc 24,21). Hoặc các ông ẩn núp sau những cửa đóng kín. Chỉ nhờ được gặp gỡ Chúa Kitô sống lại họ mới được giải thoát khỏi bị ức chế và được đầy niềm tin phấn khởi vào Chúa Giêsu, Chúa của sự sống và sự chết.

«      Biến cố Chúa Giêsu chết và sống lại trở thành tâm điểm của Kitô giáo. Đó là điểm tựa cho đức tin của ta, là đ̣n bảy mạnh mẽ cho tin tưởng vững chắc của ta, là luồng gió mạnh quét sạch mọi sợ hăi, và lưỡng lự, mọi hồ nghi và tính toán của loài người. Đức Bênêđictô XVI, 19-10-2006

«      Ai hiểu biết lễ Vượt Qua th́ không thể thất vọng nữa. Dietrich Bonhoeffer (1906–1945, thần học gia Tin lành và chống Hitler bị xử tử trong trại tập trung Flossenbürg)

106.    Có những bằng chứng về việc Chúa Giêsu đă sống lại không ? 

-  Không có bằng chứng theo khoa học về việc Chúa Giêsu sống lại. Nhưng có những chứng cớ rất mạnh của cá nhân cũng như tập thể của nhiều người đương thời tại Giêrusalem. (1Cr 15,3-6; Lc 24,2-3; Ga 20,8).

[639-644, 656-657]

     Bằng chứng cổ xưa nhất ghi chép Chúa Giêsu sống lại là thư của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, viết khoảng 20 năm sau cái chết của Chúa Giêsu: “Trước hết tôi đă truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đă lănh nhận, đó là Đức Kitô đă chết v́ tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đă được mai táng, và ngày thứ ba đă chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Sau đó Người đă hiện ra với năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay c̣n sống nhưng một số đă an nghỉ (1Cr 15,3-6). Ở đây thánh Phaolô nói về một truyền thống sống động ngài gặp trong cộng đồng Kitô giáo sơ khởi, khi chính ngài vừa mới trở thành Kitô hữu, hai ba năm sau cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu – theo sau cuộc gặp gỡ ngao ngán với Chúa đă phục sinh. Các môn đệ đă cho rằng ngôi mộ trống là chỉ dẫn đầu tiên về thực tại Chúa sống lại (Lc 24,5-6). Đây là việc các phụ nữ đă khám phá thấy – theo luật thời đó th́ bằng chứng của họ không được chấp nhận. Dù người ta nói rằng tông đồ Gioan đến mộ, đă thấy và đă tin (Ga 20,8), việc xác tín rằng Chúa Giêsu sống lại chỉ phát triển nhờ một loạt các lần hiện ra. Chỉ sau khi Chúa về trời, mới không c̣n những gặp gỡ với Đấng đă sống lại. Nhưng cho đến ngày nay, vẫn tiếp tục có những gặp gỡ với Chúa Giêsu, Người vẫn sống.

«      T́nh yêu Thiên Chúa đi tới chỗ sáng như chớp. Như một tia chớp Chúa Thánh Thần đi qua đêm của mỗi người. Đấng Phục Sinh bắt lấy bạn, đảm nhận mọi sự, mang trên Người tất cả những ǵ bạn không mang nổi. Chỉ như thế mà sau này, đôi khi rất lâu sau này điều đó mới rơ ràng: Chúa Kitô đă đi qua và đă phân phát những ǵ quá đầy của Người. Frère Roger Schutz

107.    Sau khi sống lại Chúa Giêsu có mang cùng một thân xác như trước khi Người qua đời không ?

-  Chúa Giêsu đă cho các môn đệ đụng chạm đến xác Người, Người ăn uống với họ, cho họ thấy vết đâm nơi cạnh sườn Người. Nhưng thân xác Người không c̣n hoàn toàn thuộc về trần gian, mà thuộc về Thiên đàng nơi Chúa Cha đang ngự trị. [645-646]

     Đức Kitô sống lại c̣n mang theo các vết thương khi chịu đóng đinh thập giá, nhưng không c̣n ở trong không gian hay thời gian nữa. Người có thể vào trong một pḥng đă đóng kín cửa, và có thể hiện ra với các môn đệ ở nhiều nơi khác nhau với vẻ bề ngoài mà các ông không thể nhận ra ngay lập tức được. Chúa sống lại không phải là lại sống như đời sống thường trước kia, nhưng đă đổi sang một đời sống khác: Chúa Kitô một khi đă sống lại từ cơi chết th́ không c̣n chết nữa, sự chết không c̣n quyền ǵ đối với Người nữa (Rm 6,9).

Chúa Giêsu hiện ra với bà Maria Magdala mà bà đă không nhận ra ngay được liền. Chúa Giêsu nói: “Maria”. Bà quay lại và nói với Chúa: “Rabbouni” có nghĩa là “Lạy Thầy”. Ga 20,16

108.    Thế giới đă có biến đổi ǵ nhờ việc Chúa Giêsu sống lại ?

-  V́ cái chết từ nay không c̣n là "chấm dứt" mọi sự nữa, nên niềm vui và hi vọng đă đến với thế giới. Cái chết không c̣n cai trị trên Chúa Giêsu (Rm 6,9). Chết cũng không c̣n quyền trên chúng ta, là những người thuộc về Chúa Giêsu nữa. [655-658]

«      Người nào đă nhận được sứ điệp Phục Sinh không thể nào c̣n bước đi với bộ mặt bi thảm và sống cuộc sống không có niềm vui của một người không có hy vọng. Friedrich Schiller (1759–1805, văn sĩ và kịch gia Đức)

109.    Khi nói Chúa Giêsu lên trời nghĩa là ǵ ?

-  Nghĩa là Chúa Giêsu, một người trong chúng ta đă về lại nhà với Thiên Chúa Cha và ở lại đó muôn đời. Nhờ Chúa Giêsu mà Thiên Chúa ở gần loài người chúng ta trong cách thức loài người. Và trong Phúc Âm Gioan, Chúa Giêsu đă nói: "Khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta" (Ga 12, 32). [659-667]

     Trong Tân ước, việc Chúa về trời chấm dứt giai đoạn bốn mươi ngày được đánh dấu bằng việc Đấng đă sống lại ở gần gũi với các môn đệ. Cuối giai đoạn này Chúa Giêsu đi vào trong oai nghi của Thiên Chúa với toàn bộ nhân tính của ḿnh. Kinh Thánh thuật lại bằng những h́nh ảnh tượng trưng có “mây”, có “trời”. Như Đức Bênêđictô XVI nói: “Con người có được chỗ trong Thiên Chúa”. Chúa Giêsu Kitô bây giờ ở với Chúa Cha, từ đó một ngày kia Người đến “phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Chúa Giêsu về trời có nghĩa là Chúa Giêsu không c̣n là hữu h́nh ở dưới đất, nhưng lại vẫn luôn có mặt dưới đất.

Hỡi những người Galilê, sao c̣n đứng nh́n lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa ĺa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đă thấy Người lên trời. Cv 1,11

110.    Tại sao Chúa Giêsu Kitô là Chúa của cả vũ trụ ?

-  Chúa Giêsu Kitô là Chúa của cả vũ trụ và Chúa của lịch sử, v́ nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Tất cả mọi người được Chúa cứu chuộc, và đều được Người dẫn dắt. [668-674, 680]

     Chúa ở bên trên ta” và Chúa là Đấng duy nhất mà ta quỳ gối thờ lạy; Người ở bên ta, và Chúa là đầu Hội Thánh của Người, trong Hội Thánh đó Nước Thiên Chúa đang bắt đầu ngay từ bây giờ, và Người ở trước mặt ta, làm chủ của lịch sử; làm cho lực lượng của tối tăm cuối cùng chịu thất bại và số phận của thế giới được hoàn thành theo chương tŕnh của Thiên Chúa; Người đến để gặp gỡ ta trong oai nghi, vào ngày mà ta không biết, để đem trái đất vào cuộc đổi mới và tới chỗ hoàn thành. Ta có thể khám phá Chúa gần gũi ta trước hết là trong Lời Chúa, khi lănh nhận các Bí tích, trong việc chăm sóc người nghèo và trong lúc hai hoặc ba người tập họp với nhau nhân danh Người (Mt 18,20)  à 157, 163

V́ trong Người muôn vật được tạo thành trên trời cũng như dưới đất hữu h́nh và vô h́nh. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới; tất cả đều do Thiên Chúa tạo dụng nhờ Người và cho Người. Cl 1,16

111.    Đến ngày tận thế sẽ ra như thế nào ?

-  Ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ lại đến, và mọi người sẽ thấy Chúa. [675-677]

     Những đảo lộn kinh hoàng mà Kinh Thánh loan báo (Mt 24,4-31) sự tàn ác tỏ lộ ra không c̣n phải che giấu, những thử thách và những cuộc bách hại làm cho đức tin lại bị thử thách, đó chỉ là mặt tối của một thực tại mới. Thực tại này là sự toàn thắng dứt khoát và hữu h́nh của Thiên Chúa trên sự dữ. Sự uy nghi, chân lư và công lư của Thiên Chúa sẽ biểu lộ chói lọi rực rỡ. Khi Chúa Kitô đến sẽ có một trời mới và một đất mới. Người lau sạch mọi nước mắt khỏi mắt họ, không c̣n chết nữa, không c̣n khóc lóc, kêu ca, đau khổ nữa, v́ vũ trụ cũ đă qua đi (Kh 21,1-4). à 164

Người ta sợ đến hồn phiêu phách lạc chờ những ǵ sắp giáng xuống địa cầu, v́ các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển… Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hăy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, v́ anh em sắp được cứu chuộc. Lc 21,26-28

Giáng lâm có nghĩa là việc Chúa Kitô đến để phán xét chung.

112.    Nói rằng Chúa Giêsu đến để xét xử chúng ta và xét xử toàn thế giới, nghĩa là thế nào ?

-  Nghĩa là chính Chúa Giêsu không thể giúp cho ai được, nếu chính họ không muốn biết đến bác ái yêu thương. Như thế, họ tự xét xử chính ḿnh. [678-679, 681-682]

     Bởi v́ Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Ga 14,6). Người sẽ mặc khải cho biết đối với Thiên Chúa điều ǵ là quan trọng, điều ǵ là không. Sự thật đầy đủ về mỗi người sẽ được Chúa đánh giá tùy theo thước đo những việc làm, những tư tưởng, những biến cố trong cuộc đời riêng tư của họ. à 157, 163

«      Thiên Chúa không loại bỏ một linh hồn nào, bởi v́ chính là linh hồn tự loại bỏ ḿnh: mỗi người là thẩm phán của ḿnh. Jacob Böhme (1575–1624, nhà thần bí Đức)

 

 

Chương 3. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần

 

113.    "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần" nghĩa là ǵ ?

-  “Tin kính Đức Chúa Thánh Thần” có nghĩa là thờ phượng Người là Thiên Chúa như thờ Chúa Cha và Chúa Con, v́ Ngài là một trong Ba ngôi, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con. Và cũng có nghĩa là tin rằng Chúa Thánh Thần đến trong ḷng ta, để đưa dẫn ta là con cái Thiên Chúa nhận biết Thiên Chúa là Cha trên trời. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, chúng ta có thể thay đổi bộ mặt thế giới. [683-686]

     Trước khi chết Chúa Giêsu đă hứa với các môn đệ sẽ sai Đấng Bảo trợ khác (Ga 14,16) khi Người không c̣n ở với các ông. Khi Chúa Thánh Thần được đổ tràn xuống trên các môn đệ của Hội thánh sơ khởi, họ hiểu Chúa Giêsu nói ám chỉ ai. Ḷng họ đầy cảm giác an toàn sâu xa và vui sướng, và họ lănh nhận các Đặc sủng, có nghĩa là họ có thể nói tiên tri, chữa lành và làm các phép lạ. Ngày nay, trong Hội thánh vẫn có những người được những đặc sủng và làm được các việc như vậy. à 35 – 38, 310 – 311

*      Đặc sủng được gọi là ân sủng của Chúa Thánh Thần được tả lại trong thư thứ nhất gửi Côrintô 12,6; chẳng hạn ngoài ơn có thể chữa lành là các ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn nói tiếng lạ và ơn chú giải, ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn đức tin. Thuộc thành phần các ơn kể trên là bảy ơn Chúa Thánh Thần (xem câu 310). Đó là các ơn đặc biệt để hướng dẫn hoặc quản trị một cộng đồng, ơn yêu thương người thân cận và loan truyền đức tin.

114.    Chúa Thánh Thần có vai tṛ nào trong đời sống Chúa Kitô ?

-  Tất cả công việc của Chúa Giêsu chỉ có thể hiểu được là do Chúa Thánh Thần tác động. Sự hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng ta gọi là Thánh Thần được biểu lộ cách hoàn toàn trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu.

[689-691, 702-731]

     Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu thành thai trong ḷng Đức Maria (Mt 1,18),xác nhận Người là Con yêu dấu khi Chúa chịu phép Rửa (Lc 4,16-19), dẫn Chúa vào hoang địa (Mc 1,12) tác động cho đến lúc Chúa tắt thở (Ga 19,30). Trên thập giá Chúa Giêsu trút linh hồn. Sau khi sống lại Chúa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ (Ga 20,22). Thánh Thần Chúa Giêsu được truyền sang cho Hội Thánh như vậy: Như Chúa Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai anh em (Ga 20,21).

115.    Chúa Thánh Thần được biết đến qua tên gọi và dưới những h́nh dạng nào ?

-  Chúa Thánh Thần đă ngự xuống trên Chúa Giêsu với h́nh chim câu. Các Kitô hữu ban đầu biết đến Chúa Thánh Thần như là dầu chữa bệnh, nước ban sự sống, cơn gió mạnh, những lưỡi lửa. Chính Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần như Đấng Cố vấn, Đấng An ủi, Thầy dạy, Thần Chân lư. Trong các Bí tích của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần được ban xuống qua việc đặt tay và xức dầu. [691-693]

     Ḥa b́nh mà Thiên Chúa kư kết với loài người được diễn nghĩa bằng việc chim bồ câu hiện đến với ông Nôê. Thời cổ ngoại giáo cũng coi chim bồ câu là tượng trưng t́nh yêu. Nên các Kitô hữu đầu tiên đều hiểu ngay rằng Chúa Thánh Thần là t́nh yêu Thiên Chúa hóa thành ngôi vị, đă xuống trên Chúa Giêsu như chim bồ câu khi Chúa chịu phép rửa ở sông Jorđanô. Ngày nay chim bồ câu là dấu chỉ ḥa b́nh, được thế giới công nhận, và là một trong những tượng trưng lớn về sự ḥa giải giữa Thiên Chúa và nhân loại (St 8,10-11).

«      Ai cầu nguyện “Xin Chúa Thánh Thần đến” cũng phải sẵn sàng cầu nguyện “Xin đến và thúc bách con bởi con cần được thúc bách. Wilheim Stahlin (1883–1975, thần học gia Tin lành Đức)

«      Thánh Thần thúc đẩy ta đến với người khác, đốt lên trong ta lửa bác ái, làm cho ta nên người được sai đi loan truyền t́nh yêu Chúa. Đức Bênêđictô XVI, về Chúa Thánh Thần, 20-7-2007

116.    Chúa Thánh Thần đă "nói qua các tiên tri" nghĩa là ǵ ?

-  Trong Kinh Thánh Cựu ước, Thiên Chúa đă ban Thánh Thần cho một số người nam và nữ để họ nhân Danh Chúa, nói ra lời Chúa dạy, và sửa soạn ḷng dân Chúa đón Đức Mêssia (Đấng Cứu thế). [683-688, 702-720]

     Trong Cựu Ước, Thiên Chúa chọn những người nam và nữ để họ an ủi, hướng dẫn và khuyên bảo dân chúng. Thánh Thần Thiên Chúa cũng nói qua miệng tiên tri Isaia, Jêrêmia, và Êdêkien và các tiên tri khác. Thánh Gioan Tẩy giả, tiên tri cuối cùng không những báo trước Chúa Giêsu đến, mà c̣n gặp gỡ và loan báo rằng Người là Đấng giải thoát ta khỏi quyền lực tội lỗi.

Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đă phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đă phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Dt 1,1-2

«      Thiên Chúa đă đích thân làm người nơi Chúa Giêsu Kitô và ban cho ta có thể nh́n thấy được nội tâm của chính Thiên Chúa. Và ta thấy một việc không ngờ: Thiên Chúa mầu nhiệm không cô đơn vô hạn. Người là một biến cố t́nh yêu. Người có Chúa Con nói năng với Người là Cha. Và cả hai chỉ là một trong Chúa Thánh Thần là một bầu khí hiến dâng và yêu thương làm cho tất cả ba chỉ là Một Thiên Chúa độc nhất. Đức Bênêđictô XVI, vọng lễ Hiện Xuống 2006

117.    Chúa Thánh Thần đă hành động trong, với, và qua Đức Mẹ Maria thế nào ?

-  Đức Mẹ Maria đă hoàn toàn đáp ứng và cởi mở tâm hồn cho Thiên Chúa (Lc 1, 38). Do đó, qua tác động của Chúa Thánh Thần, Người đă trở nên Mẹ Thiên Chúa, và v́ là Mẹ Chúa Kitô, Người cũng trở nên Mẹ các Kitô hữu, và là Mẹ của loài người nữa. [721-726]

     Đức Maria đă để cho Chúa Thánh Thần thực hiện một phép lạ tuyệt vời: Thiên Chúa làm người. Đức Maria thưa vâng với Chúa: “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Được Chúa Thánh Thần nâng đỡ, Đức Maria đă đi theo Chúa Giêsu trong những vui buồn của Chúa cho đến chân thập giá. Chính ở đó Chúa Giêsu đă ban Đức Maria làm Mẹ chúng ta (Ga 19, 25-27) à 80-85, 479

 

Thánh Thần Chúa sẽ đến trên Bà, và quyền phép Đấng Tối cao sẽ phủ bóng trên Bà. Lc 1,35

118.    Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đă xảy ra chuyện ǵ ?

-  50 ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu đă gởi Chúa Thánh Thần từ trời xuống trên các tông đồ. Từ đây là bắt đầu thời của Hội Thánh. [731-733]

     Chúa Thánh Thần biến đổi các tông đồ đang co cụm v́ sợ hăi trở thành chứng nhân can đảm cho Chúa Kitô. Chỉ ít lâu sau, hằng ngàn người xin chịu phép Rửa tội. Hội Thánh lớn mạnh từ đó. Phép lạ nói nhiều thứ tiếng chứng tỏ rằng ngay từ đầu Hội Thánh được thiết lập cho mọi người, Hội Thánh là phổ quát, là công giáo, là truyền giáo. Hội Thánh nói với mọi người vượt qua hàng rào chủng tộc và ngôn ngữ và mọi người có thể hiểu được. Cho đến ngày nay, Chúa Thánh Thần như là rượu ngon quí giá của Hội Thánh.

Ai nấy đều được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho… ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của ḿnh. Cv 2,4-6

*      Ngũ tuần. Lúc khởi đầu đây chỉ là lễ mà người Do Thái mừng việc kư kết Giao ước với Giavê ở núi Sinai. V́ có các biến cố xảy ra ở Giêrusalem vào lễ Ngũ Tuần, nên lễ này trở nên cho Kitô hữu lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

119.    Chúa Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh như thế nào ?

- Chúa Thánh Thần xây dựng Hội Thánh. Người thúc đẩy Hội Thánh và nhắc nhớ Hội Thánh về sứ mạng của Hội Thánh. Người kêu gọi nhiều người phục vụ Hội Thánh, và ban cho họ nhiều ơn cần thiết. Người hướng dẫn chúng ta đi sâu vào sự thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi. [733-741, 747]

     Cả những lúc trong suốt dọc lịch sử, Hội thánh nhiều khi tỏ ra “không biết rơ ḿnh phải làm ǵ”, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động dù biết bao lỗi lầm và thiếu sót của con người. Hơn hai ngàn năm Hội thánh vẫn đứng vững và vô số các thánh ở mọi thời, thuộc mọi nền văn hóa, chỉ ngần ấy thôi cũng là những bằng chứng cho biết Chúa Thánh Thần vẫn luôn hiện diện. Chính Người duy tŕ toàn thể Hội thánh trong sự thật, và dẫn dắt Hội thánh hiểu biết Thiên Chúa sâu sắc hơn. Chính Chúa Thánh Thần hoạt động trong các Bí tích và làm cho Kinh thánh trở nên sống động với ta. Ngày nay Người vẫn ban cho những ai mở rộng ḷng với Người những ân huệ của Người (à Đặc sủng). à 203-206

Thánh Thần Chân lư sẽ dẫn chúng con đến sự thật hoàn toàn. Ga 16,12-13

Thầy c̣n nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn.
Ga 16,12-13

120.    Chúa Thánh Thần hoạt động thế nào trong đời tôi ?

-  Chúa Thánh Thần mở ḷng tôi đón nhận Thiên Chúa. Người dạy tôi cầu nguyện, và giúp tôi thực hành bác ái với tha nhân. [738-741]

     Theo thánh Augustinô, Chúa Thánh Thần là vị khách thầm lặng của hồn tôi. Muốn cảm nghiệm được Người có mặt, cần phải thinh lặng. Vị khách này thường tỏ ḿnh ra một cách rất êm đềm trong ta và với ta, qua tiếng lương tâm hoặc qua tiếng thúc giục bên trong hay bên ngoài. Là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” có nghĩa là luôn có mặt sẵn sàng cả hồn xác để tiếp đón vị khách là Thiên Chúa trong ta. Xác ta là như nhà ở của Chúa. Ta càng mở rộng ḷng cho Chúa Thánh Thần, Người càng trở nên Thầy dạy ta sống và càng mau mắn ban các đặc sủng để xây dựng Hội Thánh. Nhờ đó thay cho các công việc của xác thịt, các hoa quả của Thần Khí sẽ tăng trưởng.

à 290-291, 293-297, 310-311

Các hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, b́nh an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền ḥa, tiết độ. Ga 5,22

*      Những việc do tính xác thịt gây ra th́ ai cũng rơ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đăng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất ḥa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, rượu chè, và những điều khác giống như vậy. Ga 5,19-21

 

 

Chương 4. "Tôi tin Hội Thánh Công giáo"

 

121.    Hội Thánh nghĩa là ǵ ?

- Từ “Hội Thánh”, theo tiếng Hy lạp “ekklesia”, có nghĩa  là “cuộc tập họp của tất cả những người được triệu tập”. Những người đă lănh nhận bí tích Rửa tội và tin vào Thiên Chúa đều được Thiên Chúa triệu tập, để cùng nhau chúng ta là Hội Thánh. Thánh Phao-lô đă nói, Chúa Kitô là Đầu của Hội Thánh, c̣n chúng ta là thân thể của Người.  [748-757]

     Khi ta lănh nhận các Bí tích và nghe lời Chúa, Chúa Kitô ở trong ta và ta ở trong Chúa, đó là Hội thánh. Kinh thánh không ngừng gợi lên cuộc sống cộng đồng thân mật giữa các người được rửa tội với Chúa Giêsu bằng rất nhiều h́nh ảnh: khi th́ Hội thánh là mẹ, khi th́ là gia đ́nh của Chúa, Hội thánh cũng được so sánh như những khách dự tiệc cuới… Nhưng không được hiểu Hội thánh như một thể chế thuần túy, “một Hội thánh chức năng” để ta có thể ĺa bỏ. Ta có thể bực ḿnh v́ những lỗi lầm và những vết nhơ, nhưng không được bao giờ ĺa bỏ Hội thánh. Bởi v́ Chúa yêu thương Hội thánh không thể nào bỏ được và không bao giờ xa cách Hội thánh mặc dầu có nhiều tội lỗi. Hội thánh là sự có mặt của Chúa giữa loài người. Đó là lư do ta phải yêu mến Hội thánh.

Chúa Kitô là Đầu của Thân Thể, nghĩa là Đầu của Hội Thánh. Cl 1,18

*      Hội Thánh có nghĩa là “triệu tập”. Cl 1,18

«      Hội Thánh là một bà già đầy những nhăn nheo. Nhưng Hội Thánh là mẹ tôi. Và người ta không bao giờ đánh mẹ. Thần học gia Karl Rahner, Sj, khi nghe những chỉ trích không thích hợp về Hội Thánh.

«      Khả năng hiểu biết của ta có hạn: v́ thế sứ mệnh của Thánh Thần là dẫn dưa Hội Thánh một cách luôn mới mẻ, từ thế hệ này qua thế hệ sau, vào tầm mức cao trọng của mầu nhiệm Chúa Kitô. Đức Bênêđictô XVI, 7-5-2005

122.    Tại sao Thiên Chúa muốn có Hội Thánh ?

-  Bởi v́ Thiên Chúa không muốn cứu rỗi chúng ta cách riêng rẽ nhưng là tập thể. Người muốn tập họp toàn thể nhân loại vào một dân duy nhất, đó là Hội Thánh.

[758-781, 802-804]

     Không ai có thể lên trời mà không cần người khác, Người chỉ nghĩ đến ḿnh, chỉ lo cứu rỗi riêng ḿnh sẽ sống không cần người khác. Điều này không thể có được cả ở trên trời cũng như dưới đất. Chính Thiên Chúa cũng cần người khác. Thiên Chúa không sống cô độc, tự coi là đủ cho ḿnh. Chính Thiên Chúa là Ba Ngôi, là một cộng đồng, nên theo gương mẫu của Thiên Chúa, con người cũng được mời gọi để sống tương quan, trao đổi, tham gia và yêu thương lẫn nhau. Chúng ta đều có trách nhiệm đối với nhau.

Thiên Chúa nói với Cain: Abel em ngươi ở đâu? Cain trả lời: Con không biết. Con có phải là người coi giữ em con đâu? St 4,9

«      Ta phải trở nên thánh chung với nhau. Ta phải đến với Thiên Chúa chung với nhau, tŕnh diện trước Thiên Chúa chung với nhau. Ta không được gặp Thiên Chúa tốt lành người này sau người kia. Thiên Chúa có thể nói tốt lành sao được nếu ta lại ra đi người này không có người kia ? Charles Péguy (1873–1914, thi sĩ Pháp)

123.    Nhiệm vụ của Hội Thánh là ǵ ?

-  Nhiệm vụ của Hội Thánh như Chúa Giêsu đă bắt đầu là mang hạt giống Nước Thiên Chúa gieo trồng và làm sao cho hạt giống ấy được lớn lên phát triển trong mọi dân tộc.  [763-769, 774-776, 780]

     Ở đâu Chúa Giêsu đi qua th́ trời chạm tới đất: Nước Thiên Chúa tràn vào, một nước ḥa b́nh và công chính. Hội Thánh phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Hội Thánh không có cùng đích là chính ḿnh, mà phải theo đuổi những ǵ Chúa Giêsu đă bắt đầu. Hội Thánh phải làm việc của ḿnh. Hội Thánh nối dài các dấu hiệu thánh của Chúa Giêsu (các bí tích). Hội Thánh thông truyền những Lời của Chúa Giêsu. V́ thế Hội Thánh với các yếu đuối của ḿnh là một mảnh trời ở trên trần gian.

Như Chúa Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Ga 20,21

Vậy anh em hăy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đă truyền dạy cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Mt 28,19-20

124.    Tại sao Hội Thánh c̣n hơn là một tổ chức ?

-  Hội Thánh c̣n hơn là một tổ chức bởi v́ Hội Thánh là một mầu nhiệm, vừa nhân loại hữu h́nh, vừa thần linh vô h́nh. [770-773, 779]

     T́nh yêu chân thật không làm ta mù quáng, nhưng sáng suốt. Cái nh́n của ta về Hội Thánh cũng như vậy. Nh́n bên ngoài Hội thánh chỉ là một xă hội trong lịch sử, có những hậu quả trong lịch sử như những lầm lạc, cả những tội ác nữa, một Hội thánh gồm các tội nhân. Nhưng mà nh́n sâu xa hơn, Chúa Kitô lại tín nhiệm chúng ta là những kẻ tội lỗi đến nỗi không bao giờ Chúa bỏ rơi Hội thánh, mặc dầu hàng ngày chúng ta có thể phản bội Chúa. Sự hiệp nhất không thể tách rời giữa thần linh và nhân loại, giữa tội lỗi và ân sủng, đó chính là bí nhiệm của Hội thánh. Theo con mắt đức tin, chính ở chỗ đó mà Hội thánh bất diệt. à 132

«      Hội Thánh không thể xử sự như một xí nghiệp, thay đổi “cung” khi “cầu” xuống thấp. Hồng y Karl Lehmann (1936, Giám mục Mayence)

125.    Dân Thiên Chúa có những đặc tính nào ?

-  Dân Thiên Chúa có Chúa Cha là Đấng sáng lập, Chúa Giêsu Kitô là Đấng lănh đạo và Chúa Thánh Thần là nguồn sức mạnh. Bí tích Rửa Tội là cửa dẫn vào Dân Chúa. Phẩm chất của Dân này là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Luật của Dân Chúa là t́nh yêu. Khi Dân Chúa trung thành với Người và ưu tiên t́m kiếm Nước Thiên Chúa, họ thay đổi được thế giới. [781-786]

     Trong các dân tộc trên trái đất, có một dân mà không có dân nào khác giống họ. Dân ấy không thần phục ai trừ một ḿnh Thiên Chúa. Dân ấy như muối làm cho có vị ngon; như men thấm nhuần vào tất cả; như ánh sáng xóa tan bóng tối. Ai thuộc về Dân Chúa phải biết rằng họ có thể phải công khai chống lại với những người từ chối là không có Chúa và khinh rẻ điều răn của Chúa. Nhưng trong tự do của con cái Chúa, họ không sợ ǵ hết, dù là chết đi nữa.

Anh em hăy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều ǵ, và sẽ  trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những v́ sao trên ṿm trời. Pl 2,14-15

«      Họ không thể làm ǵ hơn là giết tôi. Robert d’Arenberg (1898–1972, thành viên của nhóm mưu sát chống Hitler, 20-7-1944)

126.    Nói Hội Thánh là "Thân thể của Chúa Kitô" nghĩa là ǵ ?

-  Nghĩa là khi chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô nhờ các Bí tích rửa tội và Thánh Thể, chúng ta được liên kết với Người không thể chia ĺa. Sự liên kết này mạnh mẽ bền chặt như thể đầu nối liền với các chi thể trong một thân thể vậy.  [787-795] à 146, 175, 200, 208, 217

127.    Nói Hội Thánh là "Hiền thê Chúa Kitô" nghĩa là ǵ ?

-  Chúa Giêsu Kitô yêu Hội Thánh như chàng rể yêu cô dâu. Người liên kết với Hội Thánh bằng một giao ước vĩnh cửu, hiến ḿnh cho Hội Thánh và không ngừng chăm sóc Hội Thánh như chính Thân Thể ḿnh (x. Ep 5,29). [796]

     Ai có kinh nghiệm về yêu đương th́ hiểu yêu là ǵ. Chúa Giêsu biết và tự coi ḿnh như chàng rể yêu cô dâu bằng t́nh yêu cháy bỏng và ước muốn cử hành lễ hội t́nh yêu với Hội thánh là hiền thê của Người. Hiền thê của Người là chúng ta Hội Thánh. Ngay trong Cựu Ước t́nh yêu của Thiên Chúa đối với dân Người đă được so sánh như t́nh yêu nam nữ. Nếu Chúa Giêsu ước muốn t́nh yêu của chúng ta th́ nhiều khi Người lại phải sống trong một t́nh yêu khốn khổ, v́ có những người không muốn điếm xỉa ǵ tới t́nh yêu của Người và không muốn đáp lại nữa.

«      Yêu mến Chúa Kitô và yêu mến Hội Thánh chỉ là một. Frère Roger Schutz

«      Bạn nghĩ rằng những yếu đuối của Hội Thánh khiến Chúa Kitô từ bỏ Hội Thánh sao? Từ bỏ Hội Thánh sẽ là như từ bỏ chính thân thể ḿnh vậy. Dom Helder Camara (1909–1999, người Brazil, Giám mục của người nghèo)

128.    Nói Hội Thánh là "Đền thờ của Chúa Thánh Thần" nghĩa là ǵ ?

-  Trong ḷng thế giới, Hội Thánh là nơi Chúa Thánh Thần hiện diện. [797-801, 809]

     Dân Israel thờ Thiên Chúa trong Đền thờ Giêrusalem. Đền thờ này không c̣n nữa. Hội Thánh đă đến: Hội Thánh không bị trói buộc vào nơi nào rơ rệt. Quả thật, hễ hai hay ba người tập họp nhân danh Thầy th́ Thầy ở giữa họ (Mt 18,20). Hội Thánh có sự sống là do Thánh Thần của Chúa Kitô ban cho: Người sống trong Lời Chúa, và có mặt trong các dấu hiệu thánh là các Bí tích. Người sống trong ḷng những người tin và Người tự tỏ ḿnh bằng lời cầu nguyện của họ. Người hướng dẫn họ và đổ tràn đầy ân huệ của Người, ân huệ b́nh thường cũng như khác thường (Đặc sủng). Cả ngày nay nữa, ai tin cậy vào Chúa Thánh Thần có thể thực hiện được các phép lạ.

à 113-120, 203-205, 310-311

V́ chính chúng ta là Đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta. 2Cr 6,16

«      Có nhiều người không nghĩ về việc Thiên Chúa sẽ dùng đến ḿnh nếu ḿnh sẵn sàng để cho Người sử dụng. Thánh Inhaxiô Loyola (1491–1556, sáng lập ḍng Tên)

 

Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền.

 

129.    Tại sao Hội Thánh có đặc tính là Duy nhất ?

-  Cũng như chỉ có một Chúa Kitô, th́ chỉ có thể có một Thân Thể Chúa Kitô, có một Hiền Thê Chúa Kitô, và do đó, chỉ có một Hội Thánh Chúa Kitô. Chúa Kitô là Đầu, Hội Thánh là Thân Thể. Tất cả hiệp thành “Chúa Kitô toàn thể” (Thánh Augustinô). Giống như thân ḿnh có nhiều chi thể, nhưng chỉ là một. Cũng thế, Hội Thánh là duy nhất trong nhiều Hội Thánh địa phương khác nhau. Nhưng tất cả hợp thành Chúa Kitô toàn thể. [811-816, 866, 870]

     Chúa Giêsu đă thiết lập Hội Thánh Người trên các Tông đồ. Ngày nay cũng vậy, Hội Thánh cho đến bây giờ vẫn dựa trên nên móng này. Dưới sự hướng dẫn của sứ vụ Thánh Phêrô “làm chủ theo t́nh yêu” (Thánh Inhaxiô Antiôkia), đức tin của các Tông đồ được truyền lại trong Hội Thánh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cả các Bí tích mà Chúa Giêsu đă trao phó cho tập đoàn các tông đồ, các bí tích đó tiếp tục tác động với sức mạnh có từ ban đầu.

Chỉ có một Thân Thể, một Thần Khí, cũng như anh em đă được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người. Ep 4,4-6

«      Với Hội Thánh này [giáo đoàn ở Rôma] do có nguồn gốc tuyệt hảo hơn, nên toàn Hội Thánh nhất thiết phải ḥa hợp với nhau nghĩa là các tín hữu khắp nơi trong thế giới, v́ nơi Hội Thánh đó có duy tŕ truyền thống của các Tông đồ để lại. Thánh Irênê ở Lyon

130.    Các Kitô hữu "không Công giáo" có là anh chị em với chúng ta không ?

-  Tất cả những ai đă được Rửa tội đều thuộc về Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô. V́ thế, những người đă được rửa tội, dù không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công giáo, họ cũng được gọi cách chính đáng là Kitô hữu, và do đó họ là anh chị em với chúng ta. [817-819]

     Những đổ vỡ trong Hội Thánh duy nhất của Chúa Kitô đều xuất phát từ những bóp méo giáo huấn của Chúa Kitô, từ những lầm lỗi của con người và từ những thiếu sót trong ư muốn ḥa giải, nhất là nơi các vị hữu trách trong Hội Thánh. Ki tô hữu ngày nay không chịu trách nhiệm về những chia rẽ trong lịch sử Hội Thánh. Tuy nhiên v́ muốn cả nhân loại được cứu rỗi, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong các Hội thánh và các cộng đồng đă ly khai khỏi Hội Thánh công giáo. Tất cả những ân sủng sẵn có, như Kinh Thánh, các bí tích, đức tin, cậy, mến, và các đặc sủng khác đều do Chúa Kitô mà đến. Ở đâu có Thánh Thần Chúa Kitô, ở đó có một năng lực nội tại thúc đẩy phải “khôi phục lại sự hiệp nhất”, bởi v́ ai thuộc về Thánh Thần đều khao khát tập họp lại với nhau.

Các Hội Thánh và các cộng đồng Hội Thánh. Nhiều cộng đồng Kitô hữu khắp thế giới lấy tên là Hội Thánh. Đối với người Công giáo, chỉ là Hội Thánh khi trong cộng đồng đó các bí tích của Chúa Giêsu Kitô được duy tŕ nguyên vẹn. Điều này đúng với các cộng đồng Chính thống và các Hội Thánh Đông phương trước hết. Trong những cộng đồng Hội Thánh phát xuất từ cuộc cải cách của Tin lành, các bí tích không được duy tŕ nguyên vẹn.

131.    Chúng ta phải làm ǵ cho việc hợp nhất Kitô hữu ?

-  Trong lời nói và trong việc làm, chúng ta phải theo ước muốn của Chúa Kitô được thể hiện rơ qua lời cầu xin của Người: “Xin cho chúng nên một” (Ga 17, 21). [820-822]

     Dù trẻ hay già, sự hiệp nhất của các Kitô hữu là công việc thuộc phận sự của tất cả các Kitô hữu. Sự hiệp nhất là một trong những ước muốn nóng hổi nhất của Chúa Giêsu. Người đă cầu nguyện Chúa Cha: Ước chi tất cả nên một… để thế giới tin rằng Cha đă sai Con (Ga 17,21).Sự chia rẽ giống như những vết thương trong thân thể Chúa Kitô, dẫn đưa đến chỗ thù nghịch nhau, làm suy yếu đức tin và suy yếu ḷng tin cậy của Ki tô hữu. Muốn loại bỏ gương xấu chia rẽ này mỗi người phải sám hối, phải t́m hiểu sâu hơn đức tin của cộng đồng ḿnh và những khác biệt của cộng đồng khác. Và trên hết Ki tô hữu phải chung nhau cầu nguyện và cùng cộng tác với nhau để phục vụ nhân loại. C̣n các vị hữu trách của Hội thánh th́ không được ngừng nghỉ các cuộc đối thoại thần học.

Nói thế xong Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói rằng: Lạy Cha giờ đă đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… để tất cả nên một, như lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đă sai Con. (Ga 17,1.21)

Đại kết là những cố gắng tập họp tất cả các Hội Thánh Kitô giáo nên một.

132.    Tại sao Hội Thánh có đặc tính là Thánh Thiện ?

-  Hội Thánh là Thánh, không phải là tất cả các thành phần của Hội Thánh đều thánh, nhưng v́ Thiên Chúa chí thánh là nguồn gốc của Hội Thánh, và Người hành động trong Hội Thánh. Mọi phần tử của Hội Thánh được thánh hóa nhờ phép Rửa tội. [823-829]

     Mỗi khi ta để cho Thiên Chúa Ba Ngôi hành động trong ta, t́nh yêu ta lớn lên, ta được thánh hóa và chữa lành. Các thánh là những “người yêu”, không phải v́ họ biết yêu hơn những người khác, nhưng v́ Thiên Chúa đă cảm hóa các ngài. Các ngài truyền lại cho mọi người t́nh yêu các ngài  đă nhận từ Thiên Chúa; nhưng theo cách riêng của ḿnh mà thường là độc đáo. V́ được tiến tới gần Thiên Chúa, chính các ngài cũng thánh hóa Hội Thánh bởi v́ các ngài “sống trên trời” để nâng đỡ ta trên đường thánh thiện.

Thánh thiện . Đây là đặc tính cổ xưa nhất của Thiên Chúa, có nghĩa là thần thiêng, trong trắng, xa cách trần tục, xa cách chuyện thường ngày. Thiên Chúa là Đấng “khác tất cả”, là Đấng thánh của Israel (Is 30,15). Chúa Giêsu đến thế gian như “ Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69). Nhờ Người ta có thể thấy “thánh” nghĩa là : yêu bằng t́nh yêu vô bờ bến và đầy thương xót, vừa nâng đỡ vừa cứu giúp vừa t́m cách nên hoàn thiện trong thập giá và sống lại.

133.    Tại sao Hội Thánh có đặc tính là công giáo ?

-  Thuật ngữ “Công giáo” (tiếng Hi lạp là Katholon) có nghĩa là mở ra cho tất cả. Hội Thánh là Công giáo, v́ Chúa Kitô kêu gọi Hội Thánh tuyên xưng toàn bộ đức tin, ǵn giữ đầy đủ các Bí tích để ban phát, và loan báo Tin mừng cho mọi người. Chúa Ki-tô sai Hội Thánh đi đến với mọi dân tộc ở mọi thời đại và thuộc mọi nền văn hóa.

[830-831, 849-856]

134.    Ai thuộc về Hội Thánh Công giáo ?

- Người hoàn toàn thuộc về Hội Thánh Công giáo là người: hợp nhất với Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục; hợp nhất với Chúa Ki-tô qua việc tuyên xưng đức tin Công giáo và lănh nhận các Bí tích. [836-838]

     Thiên Chúa đă muốn chỉ có Một Hội Thánh cho mọi người. Rủi thay Kitô hữu chúng ta lại không trung thành tôn trọng ước mong đó của Chúa Kitô. Dẫu vậy, ta vẫn c̣n liên kết sâu xa với nhau bởi đức tin và phép rửa tội chung.

Thiên Chúa đă đặt tất cả dưới chân Chúa Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên măn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên măn. Ep 1,22-23

135.    Hội Thánh Công giáo có quan hệ nào với dân Do Thái ?

-  Dân Do Thái là dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn mà các ân huệ cũng như lời mời gọi của Thiên Chúa không thể bị hủy bỏ, Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái không thể qua đi. Do đó, người Do Thái là “anh cả” của Kitô hữu, v́ Thiên Chúa đă yêu thương họ trước, và ngỏ lời với họ trước. Chúa Giêsu, xét theo loài người, là người Do Thái, như thế Người gần gũi với chúng ta. Và Hội Thánh tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống, như thế Người phân biệt với chúng ta. Nhưng cả hai bên cùng chờ đợi lần đến cuối cùng của Đấng Mêssia, điều này làm cho ta với họ giống nhau. [839-840]

     Đức tin của ta được ghép vào đức tin của Do thái. Kinh thánh của Do thái mà ta gọi là Cựu Ước là phần thứ nhất của Kinh thánh của chúng ta. H́nh ảnh Do thái và Kitô giáo về con người mà luân lư được nặn đúc bởi mười điều răn là nền móng cho các thứ dân chủ của Tây phương. Thật đáng tiếc là trong nhiều thế kỉ Kitô hữu đă không muốn nhận là bà con gần với Do thái giáo, và với những biện bạch giả tạo, họ đă để ḷng thù ghét đôi khi dữ dội với Do thái giáo. V́ thế Đức Gioan Phaolô II đă công khai xin lỗi vào dịp Năm Thánh 2000. Công đồng Vatican II nói rơ ràng là dân tộc Do thái không phải chịu trách nhiệm tập thể về cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. à 96-97, 335

Anh em đừng tưởng Thầy đến để băi bỏ lề luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ: Thầy đến không phải là để băi bỏ nhưng là để kiện toàn. Mt 5,17

«      Đạo Do Thái đối với ta không phải cái ǵ ở ngoài, nhưng một cách nào đó thuộc về trung tâm của tôn giáo ta. Ta có với Do thái giáo những quan hệ mà ta không có chút nào với các tôn giáo khác. Các bạn Do thái là anh cả của chúng ta một cách nào đó. Đức Gioan Phaolô II thăm Hội đường Do Thái ở Rôma, 1986

136.    Hội Thánh nh́n thế nào về những tôn giáo khác ?

Hội Thánh tôn trọng tất cả những ǵ là tốt lành và chân thật trong các tôn giáo khác. Hội Thánh thừa nhận mọi giá trị và bênh vực cho quyền tự do tôn giáo được coi như quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, Hội Thánh biết rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của cả nhân loại. Chỉ ḿnh Người "là con đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14,6).  [841-845, 846-848]

     Người đang kiếm t́m Thiên Chúa là bạn gần gũi với Kitô hữu; Các người Hồi giáo c̣n đặc biệt hơn v́ là thành phần trong nhóm bà con họ hàng, giống như Do thái giáo và Kitô giáo, là một tôn giáo thờ một thần. Những người Hồi giáo thờ Thiên Chúa tạo hóa và coi ông Abraham là tổ phụ của họ trong đức tin. Theo sách Coran, Chúa Giêsu là một tiên tri lớn và đức Maria Mẹ Người là mẹ của tiên tri. Hội thánh dạy rằng mọi người, không do lỗi của họ, mà đă không biết Chúa Kitô và Hội thánh, nhưng thành thực t́m  Chúa và sống theo tiếng lương tâm, đều được cứu rỗi đời đời.Trái lại, ai đă biết Chúa Giêsu Kitô là con đường, là sự thật và là sự sống mà không đi theo Người, người đó sẽ không t́m được ơn cứu độ bởi các con đường nào khác. Câu nói “Ở ngoài Hội thánh không có ơn cứu độ” có nghĩa như vậy.

Tự do tôn giáo là quyền của mọi người được theo lương tâm ḿnh đă chọn hoặc thực hành tôn giáo của ḿnh, Thừa nhận tự do tôn giáo không có nghĩa là thừa nhận mọi tôn giáo đều giống như nhau cũng như đều chân thật như nhau.

137.    Tại sao Hội Thánh có đặc tính là tông truyền ?

-  Hội Thánh là tông truyền v́ Hội Thánh được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ. Hội Thánh nắm vững Truyền thống do các ngài truyền lại, và Hội Thánh được cai quản bởi các đấng kế vị các Tông Đồ. [857-860, 869, 877]

     Chúa Giêsu đă kêu gọi các Tông đồ để làm cộng tác viên thân cận nhất của Người; các ông trở thành những chứng nhân thấy tận mắt của Người. Sau khi Người sống lại, Người đă hiện ra rất nhiều lần với các ông. Người đă ban Chúa Thánh Thần và sai các ông đi như những người loan tin có đầy đủ quyền năng đến toàn thế giới. Trong Hội thánh thời trẻ trung các ông là những người bảo đảm cho sự hiệp nhất. Các ông dùng việc đặt tay để truyền lại sứ mệnh và quyền bính cho những người kế vị là các giám mục. Điều mà các giám mục ngày nay thực hiện theo như các tông đồ đă làm, được gọi là sự nối tiếp các Tông đồ.

Tông đồ có ư chỉ người được sai đi, người loan tin. Tên của 12 Tông đồ là: Simon cũng gọi là Phêrô người đứng đầu, Anrê anh của ông, Giuse con ông Dêbêđê và Gioan em của ông; Philiphê và Batôlômêô, ông Tôma và ông Mathêu người thu thuế, ông Giacôbê con ông Anphê và ông Tađêô; ông Simon thuộc nhóm quá khích và ông Giuđa Itcariốt, chính là kẻ nộp Người (Mt 10,2-4).

Sự nối tiếp các tông đồ. Đi từ các tông đồ có các giám mục nối tiếp không ngừng trong sứ vụ giám mục. Chúa Giêsu đă trao ban đầy đủ quyền năng cho các tông đồ. Việc này được tiếp tục từ giám mục này sang giám mục khác bằng việc đặt tay và cầu nguyện cho đến khi Chúa trở lại.

«      Hội thánh không bao giờ bằng ḷng với nhóm những người mà Hội thánh đă thành công đạt được vào một thời điểm, và nói rằng các nhóm khác rồi sẽ cũng như thế : Hồi giáo, Ấn giáo và cứ như thế. Hội thánh không thể nào rút lại cách dễ dàng vào trong giới hạn lănh vực riêng của ḿnh. Hội thánh có trách nhiệm quan tâm cách phổ quát, Hội thánh phải lo lắng cho mọi người và về mọi sự. Đức Bênêđictô XVI, 7-5-2006

138.    Hội Thánh tổ chức thế nào để có 4 đặc tính: duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền ?

-  Trong Hội Thánh có sự phân biệt giữa các giáo dân và giáo sĩ. Nhưng tất cả đều là con cái Thiên Chúa như nhau và có cùng một phẩm giá. Tuy giáo sĩ và giáo dân có khác nhau, nhưng nhiệm vụ của họ có giá trị như nhau. Nhiệm vụ của giáo dân là hướng dẫn cả thế giới tiến về Nước Thiên Chúa. Cộng tác với họ là các thừa tác viên lănh chức thánh, họ có nhiệm vụ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh. Trong hai bậc sống kể trên, c̣n có những Kitô hữu được thánh hiến cách đặc biệt cho Thiên Chúa qua việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm: độc thân, nghèo khó, vâng phục, như trong các ḍng tu. [871-876, 934, 935]

     Mọi Kitô hữu có bổn phận làm chứng cho Tin Mừng bằng đời sống riêng của ḿnh. Nhưng mỗi người bước đi với Chúa theo cách của ḿnh. Có người Chúa trao sứ vụ làm giáo dân để xây dựng Nước Thiên Chúa giữa thế giới bằng đời sống gia đ́nh và nghề nghiệp của ḿnh : Người ban cho họ qua bí tích rửa tội và thêm sức tất cả các ơn huệ của Chúa Thánh Thần mà họ cần đến. Có những người đă được thêm sức, Người trao cho nhiệm vụ làm chủ chăn: họ phải điều khiển dân Chúa, giảng dạy và thánh hóa dân Chúa. Không ai được mạnh dạn tự gán cho ḿnh nhiệm vụ đó: Chính Chúa sẽ ban cho họ nhờ bí tích truyền chức thánh, để thông truyền cho họ sức mạnh thần linh giúp họ hành động nhân danh Chúa Kitô và cử hành các Bí tích.

Giáo dân là t́nh trạng chung của Kitô hữu trong Hội thánh là thành phần của Dân Chúa do bí tích rửa tội, nhưng không chịu chức thánh.

Giáo sĩ là t́nh trạng trong Hội thánh của những người đă được chịu chức thánh.

139.    Ơn gọi của giáo dân là ǵ ?

-  Xuất phát từ bí tích Rửa Tội, người giáo dân có ơn gọi sống dấn thân trong đời sống xă hội để làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh nơi trần thế. [877-913, 940-943]

     Giáo dân không phải Kitô hữu hạng hai, v́ cùng được tham dự chức tư tế của Chúa Kitô (chức tư tế chung của người đă được rửa tội). Họ lo giúp những người chung quanh ḿnh (trường học, gia đ́nh, nghề nghiệp) học biết Tin Mừng và yêu mến Chúa Kitô. Họ làm cho xă hội, kinh tế, chính trị, được thấm nhuần đức tin. Họ tham gia đời sống Hội thánh bằng thi hành chức vụ “cầm nến” và đọc sách, bằng sinh hoạt nhóm, tham gia các ủy ban và tổ chức của Hội thánh, như Hội đồng giáo xứ, Hội đồng mục vụ… Đặc biệt người trẻ phải nghiêm chỉnh suy nghĩ đến địa vị mà Thiên Chúa muốn họ phải đảm nhiệm trong Hội thánh.

«      Tôi được định mệnh cho làm một người hoặc sự ǵ mà không ai khác được gọi để làm, tôi có một chỗ trong chương tŕnh của Thiên Chúa và trên trái đất của Người mà không ai khác có được. Chân phước John Henry Newman

140.    Tại sao Hội Thánh của Chúa Kitô không là một tổ chức dân chủ ?

-  Dân chủ được điều hành dựa trên nguyên tắc: "Mọi quyền lực từ người dân mà đến". Trái lại trong Hội Thánh quyền bính xuất phát từ Chúa Kitô. Do đó Hội Thánh có một cơ cấu phẩm trật hoạt động theo văn hóa tập đoàn. [874-879]

     Yếu tố phẩm trật trong Hội thánh có nghĩa là Chúa Giêsu là Đầu, Người hoạt động trong Hội thánh, khi các thừa tác viên có chức thánh cử hành các bí tích nhân danh Người và giáo huấn với quyền năng Người ban cho. C̣n yếu tố tập đoàn trong Hội thánh có nghĩa là Chúa Kitô đă trao phó toàn bộ đức tin cho cộng đồng các tông đồ và những Đấng kế vị các tông đồ quản trị, dưới quyền chủ tŕ của Đấng thi hành chức vụ Người đă trao cho Thánh Phêrô. Theo phương thức tập đoàn này, các công đồng chiếm địa vị hiển nhiên không bàn căi trong Hội thánh. Tuy nhiên, các ơn rất đa dạng của Thánh Thần và tính phổ quát của Hội thánh vẫn có thể sinh hoa kết quả trong những hội đồng của Hội thánh, hoặc hội nghị và các hội họp khác.

Phẩm trật là cơ cu h́nh kim tự tháp mà Chúa Kitô ban cho Hội Thánh, từ Chúa Kitô phát xuất ra mọi quyền năng và uy thế.

141.    Nhiệm vụ của Đức Giáo hoàng là ǵ ?

-  V́ là đấng kế vị thánh Phêrô và đứng đầu Giám mục đoàn, nên nhiệm vụ của Đức Giáo hoàng là bảo đảm cho sự hợp nhất của Hội thánh. Ngài có quyền tối cao trong các vấn đề mục vụ của Hội thánh, và đối với tất cả những quyết định liên quan đến tín lư và kỉ luật. [880-882, 936, 937]

     Chúa Giêsu ban cho thánh Phêrô quyền tối cao trên các Tông đồ, làm cho ngài cũng có quyền bên trên Hội thánh sơ khởi – Hội thánh địa phương này do Phêrô cai quản, là nơi mà ngài chịu tử đạo, và nơi mà sau khi ngài chết Hội thánh trẻ phải tham khảo: tất cả các công đoàn phải đồng thuận với Rôma. Đó là tiêu chuẩn đúng của một đức tin tông truyền, nguyên vẹn và đích thực. Đến ngày nay, tất cả giám mục ở Rôma đều là chủ chăn tối cao của Hội thánh như thánh Phêrô, có Chúa Kitô là đầu. Chỉ khi thi hành nhiệm vụ này mà Đức Giáo hoàng là “đại diện Chúa Kitô trên trần gian”. Dựa vào uy quyền tối cao trong nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn và giáo lư, ngài phải lo thông truyền cách chính xác đức tin. Nếu cần ngài phải rút lại những giáo huấn hoặc cất chức các thừa tác viên nào có lỗi nặng phạm đến đức tin và luân lư. Sức mạnh và sự tỏa sáng của Hội thánh công giáo tùy thuộc rất lớn vào sự hiệp nhất trong những vấn đề đức tin và luân lư, sự hiệp nhất được đảm bảo nhờ huấn quyền mà Đức Giáo hoàng là thủ lĩnh. (huấn quyền là quyền giáo huấn trong Hội thánh)

Đức Giáo hoàng là người kế vị tông đồ Phêrô, làm giám mục ở Rôma. V́ thánh Phêrô đă là người đầu tiên trong các tông đồ, mà Đức Giáo hoàng là người kế vị thánh Phêrô, nên có quyền chủ tọa tập đoàn các giám mục. V́ là thay mặt Chúa Kitô, Đức Giáo hoàng là chủ chăn tối cao của Hội thánh.

Rôma. Cộng đồng Hội thánh ở Rôma ngay từ thời đầu đă được coi là Hội thánh “rất lớn, rất cổ, được mọi người biết đến, được hai vị tông đồ rất vinh hiển là thánh Phêrô và Phaolô vừa thiết lập vừa cư ngụ ở Rôma ….. Rôma có nguồn gốc tuyệt hảo hơn, nên tất cả Hội thánh nghĩa là các tín hữu khắp nơi phải nhất thiết đồng thuận với Hội thánh Rôma, bởi v́ nơi Hội thánh này có ǵn giữ truyền thống từ đời các tông đồ” Thánh Irênê ở Lyon (135-202). Việc hai vị tông đồ c̣n chịu tử đạo ở Rôma càng tăng thêm tầm quan trọng của cộng đồng Rôma.

142.    Các Giám mục có thể hành động và dạy dỗ những điều ngược với Giáo hoàng, c̣n Giáo hoàng có thể làm như vậy với các Giám mục không ?

-  Các Giám mục chỉ có thể hành động và dạy dỗ trong sự hiệp nhất với Đức Giáo hoàng, chứ không trái ngược. Về phần Đức Giáo hoàng, trong một số trường hợp cụ thể, có thể đưa ra những quyết định không có sự đồng ư của các Giám mục. [880-890]

     Tuy nhiên Đức Giáo hoàng bị ràng buộc trong các quyết định về đức tin của Hội thánh “Những ǵ mà ở mọi thời, mọi nơi, và luôn được mọi người tin” (thánh Vincent Lérins) đều là cảm thức chung của Hội thánh bởi v́ trong phạm vi đức tin, sự xác tín của các Kitô hữu đều được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần.

Giám mục – người kế vị các tông đồ. Ngài điều khiển một giáo phận (Hội thánh địa phương). V́ là thành viên của Giám mục đoàn và ở dưới quyền trách nhiệm của Đức Giáo hoàng, ngài mang trách nhiệm với tất cả Hội thánh.

Linh mục cộng tác viên của Giám mục để loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích. Linh mục thi hành nhiệm vụ trong Hội thánh trong hiệp nhất với các linh mục khác, dưới sự điều khiển của Giám mục.

143.    Đức Giáo hoàng có ơn vô ngộ (không thể sai lầm) thực không ?

-  Có. Nhưng ngài chỉ bất khả ngộ khi ngài tuyên bố một điểm giáo thuyết về đức tin và luân lư một cách long trọng từ ngai ṭa (ex cathedra). Ơn bất khả ngộ của Đức Giáo hoàng c̣n được thể hiện trong những quyết định của Giám mục đoàn hợp nhất với Đức Giáo hoàng, nhất là khi các ngài họp Công Đồng Chung, công bố một điểm giáo lư có liên quan đến đức tin hoặc luân lư bằng một hành động dứt khoát. [888-892]

     Ơn bất khả ngộ của Đức Giáo hoàng không tùy thuộc vào luân lư toàn vẹn hoặc trí tuệ của ngài. Thực ra Hội thánh th́ không sai lầm: Chúa Giêsu đă hứa ban Thánh Thần Đấng ǵn giữ và hướng dẫn Hội thánh để Hội thánh càng ngày càng thấu hiểu sự thật. Khi một chân lư đức tin hiển nhiên bỗng dưng bị chối bỏ hoặc giải nghĩa không đúng, Hội thánh phải dùng phương sách cuối cùng là nhờ một tiếng nói quả quyết một cách dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Tiếng nói này là của Đức Giáo hoàng. V́ là đấng kế vị thánh Phêrô, và đứng đầu các Giám mục, chỉ ḿnh ngài có quyền xác quyết về chân lư bị tranh căi là có phù hợp với truyền thống đức tin của Hội thánh, để chân lư đó được tŕnh bày cho các tín hữu được “tin tưởng một cách chắc chắn” trong mọi lúc. Người ta gọi là “Đức Giáo hoàng công bố tín điều”. Nội dung một tín điều không bao giờ được tŕnh bày điều ǵ “mới lạ”. Rất ít khi có công bố tín điều: tín điều được công bố sau cùng là vào năm 1950, do Đức Giáo hoàng Piô XII về việc Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác.

Chúa Thánh Thần sẽ dẫn các con tới sự thật hoàn toàn. Ga 16,13

C̣n Thầy, Thầy bảo cho anh biết anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh ch́a khóa Nước Trời, dưới đất anh cầm buộc điều ǵ, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy, dưới đất anh tháo cởi điều ǵ, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Mt 16,18-19

Cộng đồng chung là cuộc họp của toàn thể các Giám mục công giáo trong Hội thánh toàn cầu. Không nên lẫn lộn với “phong trào đại kết” là về việc hiệp nhất các Kitô hữu.

Ex cathedra có ư chỉ việc tuyên bố giáo lư không thể sai lầm của Đức Giáo hoàng.

Tín điều một điều buộc phải tin, chứa trong Kinh thánh và Thánh truyền, được công bố ex cathedra như là mặc khải của Chúa.

«      Cầu nguyên cho tôi, để tôi học biết yêu mến luôn luôn đoàn chiên của Chúa là Hội thánh ngày càng tốt hơn, yêu mỗi người và yêu tất cả anh em. Cầu nguyện cho tôi để tôi không trốn chạy trước sói rừng. Xin hăy cầu nguyện cho nhau để Chúa mang vác chúng ta và để nh Người chúng ta mang vác cho nhau. Đức Bênêđictô XVI, 24-7-2005

144.    Nhiệm vụ của Giám mục là ǵ ?

-  Các Giám mục có trách nhiệm tại Hội thánh địa phương đă trao phó cho các ngài (địa phận), và cùng chia sẻ trách nhiệm chung với toàn Hội thánh Công giáo. Giám mục thi hành quyền bính của ḿnh trong sự hiệp thông với các Giám mục khác, và cho lợi ích của toàn Hội thánh, dưới sự lănh đạo của Đức Giáo hoàng. [886-887, 893-896, 938-939]

     Các Giám muc trước hết phải là các tông đồ, các chứng nhân trung tín mà Chúa Giêsu đă đích thân chọn để ở với Người và được Người sai đi. Như vậy các ngài đem Chúa Kitô cho mọi người và đem mọi người đến với Chúa Kitô. Các Ngài thực hiện bằng giảng dạy, cử hành các bí tích và quản trị Hội thánh. V́ là đấng kế vị các Tông đồ, Đức Giám mục thi hành phận sự dựa theo quyền tông truyền riêng của ngài; ngài không phải người được ủy quyền hay phụ tá của Đức Giáo hoàng. Dẫu vậy, ngài hành động trong hiệp thông với Đức Giáo hoàng và dưới quyền của Đức Giáo hoàng.

Người lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng với quyền trừ quỷ. Mc 3,14-15

Ai nghe anh em là nghe Thầy và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đă sai Thầy. Lc 10,16

145.    Tại sao Chúa Giêsu muốn có những Kitô hữu cam kết sống trọn đời trong bậc tu tŕ qua các lời khấn độc thân, nghèo khó, vâng phục ?

- Thiên Chúa là T́nh yêu. Người cũng muốn chúng ta yêu Người, bằng cách dâng hiến trọn vẹn đời sống và t́nh yêu cho Thiên Chúa như Chúa Giêsu, nghĩa là sống: độc thân, nghèo khó, vâng phục. Những ai chọn lối sống này phải có trí óc, trái tim và đôi tay tự do để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. [914-933, 944-945]

     Có những bạn nam và nữ đă để Chúa Kitô hoàn toàn chinh phục ḿnh, đến nỗi họ bỏ mọi sự v́ Chúa, và Nước Trời (Mt 19,12) – bỏ cả những quà tặng rất tốt đẹp như tài sản, như quyền tự chủ, và t́nh yêu hôn nhân. Cuộc sống theo các Lời khuyên Phúc Âm trong khó nghèo, trinh khiết và vâng phục chứng tỏ cho mọi Kitô hữu rằng thế giới không phải là tất cả. Chỉ có sự “mặt đối mặt” với Chúa là hôn phu mới làm con người hạnh phúc thật sự.

Chúa Giêsu đưa mắt nh́n người thanh niên và đem ḷng yêu mến. Người bảo anh ta, "Anh chỉ thiếu có một điều, hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hăy đến theo tôi." Mc 10, 21

Lời khuyên Phúc Âm: Sống khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục là những lời khuyên mà Tin Mừng nêu lên để theo Chúa Kitô.

«      Theo Chúa Kitô luôn đ̣i hỏi phải can đảm lội ngược ḍng. Đức Bênêđictô 17-5-2008

146.    Khi nói "Các thánh thông công" nghĩa là ǵ ?

Tất cả mọi người, dù nam hay nữ, đặt trọn vẹn niềm hy vọng vào Chúa Kitô, và thuộc về Người qua bí tích Rửa Tội, dù họ c̣n sống hay đă qua đời, đều được tham dự vào “các thánh thông công”. Bởi v́, chúng ta chỉ là một thân thể trong Chúa Kitô, chúng ta sống trong sự hiệp thông bao trùm cả trời và đất. [946-962]

     Các thánh thông công nghĩa là mọi thành phần trong Hội thánh đều được cùng chia sẻ những thực tại thánh như đức tin, các bí tích, các đặc sủng và ơn thiêng, kể cả những của cải vật chất (Cv 4, 32). Một ư nghĩa nữa đó là “sự hiệp thông giữa các người thánh: một số đang lữ hành trên trần gian; một số khác đă từ giă cơi đời này nhưng c̣n đang được thanh luyện và hưởng sự trợ giúp của những người khác; ư nghĩa sau cùng là một số đang hưởng vinh quang trên trời và đang chuyển cầu cho tất cả. Hội thánh c̣n lớn hơn và sống động hơn ta nghĩ tưởng. Thuộc về Hội thánh có những người đang sống hoặc đă chết – những người này hoặc đang chịu thanh luyện hoặc đă hưởng vinh quang với Chúa – những người mà ta biết hoặc ta không biết, những thánh lớn và những người b́nh thường. Vượt qua sự chết ta vẫn có thể giúp ích cho nhau. Ta có thể kêu cầu vị thánh mà ta mang tên ngài, hoặc vị thánh nào ta yêu thích hơn, nhưng cũng có thể người thân cận nào đă qua đời mà ta tin rằng các ngài đă được về với Chúa. Và ngược lại, ta có thể cứu giúp những người đă qua đời c̣n đang phải chịu thanh luyện bằng cách cầu nguyện cho họ. Như vậy những ǵ chúng ta làm hoặc phải chịu đựng v́ và trong Chúa Kitô đều đem lại lợi ích cho tất cả. Nhưng thông công c̣n có nghĩa khác là mỗi tội lỗi đều gây tổn thương cho tất cả cộng đồng, tiếc thay. à 126

Nếu một bộ phận nào đau, th́ mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, th́ mọi bộ phận cũng vui chung. 1Cr 12,26

«      Đừng khóc, tôi sẽ giúp ích cho anh em hơn sau khi tôi chết, tôi sẽ giúp đỡ anh em hiệu quả hơn là khi tôi c̣n sống. Thánh Đaminh

147.     Tại sao Đức Maria lại có một chỗ cao vượt trong mầu nhiệm "Các Thánh thông công" ?

-  Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đă kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu khi c̣n ở dưới thế và khi lên trời, sự liên kết mật thiết này vẫn không ngừng. Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng, và trong t́nh mẫu tử, Mẹ chắc chắn rất gần gũi với chúng ta. Mẹ đă được đón tiếp về Trời cả hồn lẫn xác. [972]

     Bởi v́ Đức Maria đă dấn thân cả xác hồn trong một cuộc phiêu lưu liều lĩnh và nguy hiểm, dù là có tính cách thần linh, Mẹ đă được đón nhận về trời cả xác lẫn hồn. Ai sống và tin giống như Đức Maria th́ được về trời.

«      Chúng ta có một Mẹ ở trên trời. Được sống trong Chúa và với Chúa, Mẹ gần gũi mỗi chúng ta, hiểu biết nỗi ḷng chúng ta, nghe lời cầu nguyện, giúp đỡ chúng ta như Mẹ nhân lành, và như lời Chúa Giêsu nói, Mẹ được trao ban là Mẹ thật của chúng ta mà chúng ta có thể nói với Mẹ mọi lúc. Đức Bênêđictô XVI 15-8-2005

«      Thiên Chúa không ban cho loài người một người tớ gái nhưng là một người mẹ. B.Adolf Kolfring (1813-1865, linh mục Đức tông đồ giới thợ và thủ công)

148.    Đức Mẹ có thực sự cứu giúp chúng ta không ?

-  Có. Từ thời sơ khai, Hội thánh đă có kinh nghiệm về sự trợ giúp của Đức Mẹ. Và trong suốt dọc lịch sử của Hội thánh, hàng triệu tín hữu đă làm chứng về sự cứu giúp của Mẹ Maria. [967-970]

     V́ là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria cũng là Mẹ chúng ta. Một người mẹ tốt lành luôn bảo vệ con ḿnh. Đức Maria, Mẹ chúng ta c̣n hơn thế nữa. Ngay ở trần gian, Mẹ đă can thiệp với Chúa Giêsu trong tiệc cưới Cana để đôi tân hôn khỏi mất mặt. Mẹ đă ở với các môn đệ Chúa trong Nhà Tiệc ly, dịp lễ Ngũ tuần, để cùng chung cầu nguyện với họ. V́ t́nh yêu của Mẹ bao la, ta có thể tin chắc Mẹ sẽ giúp ta trong hai lúc quan trọng nhất của cuộc đời ta; đó là “khi nay và trong giờ lâm tử”. à 85

Khi thấy thiếu rượu, Mẹ Chúa Giêsu nói với Người, "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can ǵ đến bà và con? Giờ của con chưa đến. Mẹ Người nói với gia nhân, "Người bảo ǵ, các anh cứ làm theo".  Ga 2,3-5

149.    Ta có được thờ kính Đức Maria không ?

-  Không. Chúng ta chỉ thờ một ḿnh Thiên Chúa. Nhưng chúng ta có thể tôn kính Đức Maria cách đặc biệt, v́ Người là Mẹ Đấng Cứu Thế. [971]

     Thờ kính có nghĩa là nh́n nhận cách khiêm tốn vô điều kiện quyền tối cao tuyệt đối của Thiên Chúa trên mọi thụ tạo. Đức Maria  là một thụ tạo như ta. Người là Mẹ ta theo đức tin. Và ta phải thảo kính cha mẹ, đó là Kinh thánh dạy. Và Đức Maria đă nói về ḿnh rằng: Vâng từ nay mọi thế hệ sẽ khen tôi có phước (Lc 1,48). Trong Hội thánh, việc tôn kính này được diễn ra một cách độc đáo trong các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ, trong các lễ phụng vụ kính Mẹ Thiên Chúa và trong các kinh nguyện tôn kính Đức Mẹ, như kinh Mân Côi, được xem là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng. à 353, 485

 

 

Chương 5. Tôi tin phép tha tội

 

150.    Hội Thánh Công giáo có thực sự tha tội được không ?

-  Có. Bởi v́ không chỉ một ḿnh Chúa Giêsu có quyền tha tội, mà Người c̣n trao cho Hội thánh nhiệm vụ và quyền giải thoát con người khỏi tội lỗi của họ. Chúa Giêsu đă cho linh mục tham gia vào quyền tha tội của Người, nên linh mục có thể tha tội. [981-983, 986-987]

     Qua tác vụ của linh mục, Thiên Chúa ban cho loài người ơn tha thứ và xóa bỏ mọi tội dường như tội lỗi không có bao giờ. Một linh mục chỉ có thể thực hiện được việc đó v́ Chúa Giêsu đă cho tham dự vào quyền thần linh riêng tư của Chúa để tha tội. à 252, 239

Anh em tha tội cho ai, th́ người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, th́ người ấy bị cầm giữ. Ga 20, 23

«      Linh mục đă nhận được nơi Thiên Chúa một quyền năng đầy đủ mà Thiên Chúa đă không ban cho các thiên thần hay các tổng lănh thiên thần. Thiên Chúa ở trên trời cao xác nhận điều linh mục làm ở dưới thế. Thánh Gioan Chrysostom

151.    Hội Thánh tha thứ tội lỗi như thế nào ?

Bí tích đầu tiên và chính yếu để tha tội là bí tích Rửa Tội. Sau khi lănh bí tích Rửa tội, đối với các tội nặng đă phạm, điều cần thiết để được tha thứ là phải chạy đến với bí tích Ḥa Giải (bí tích Thống Hối, Giải Tội). Đối với các tội nhẹ th́ chỉ khuyên xưng tội thôi. Việc đền tội phải tương xứng với tính chất trầm trọng của tội đă phạm. Có thể đền tội bằng cách đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, ăn chay, và làm các việc lành khác. [976-980, 984-987]  à 226-239

«      Tôi sẽ phải bối rối nếu không có phép giải tội trong kín đáo. Martin Luther (1483–1546, nhà cải cách Tin lành Đức)

 

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại

 

152.    Tại sao chúng ta tin người chết sẽ sống lại ?

Chúng ta tin kẻ chết sẽ sống lại v́ Chúa Giêsu đă phục sinh từ trong kẻ chết, Người sống luôn măi, và Người làm cho chúng ta tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Người.  988-991]

     Khi có ai qua đời, xác họ được chôn hoặc thiêu. Nhưng ta tin rằng họ có một đời sống sau khi chết. Chúa Giêsu phục sinh đă tỏ ḿnh ra như Chúa của sự sống. Lời của Người đáng tin cậy: Tôi là sự sống lại. Ai tin Tôi dù có chết vẫn sẽ sống (Ga 11,25b). à 103-108

Sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại th́ Đức Kitô đă không chỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đă không chỗi dậy th́ lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô v́ đời này mà thôi, th́ chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế ! Đức Kitô đă chỗi dậy từ cơi chết, mở đường cho những ai đă an giấc ngàn thu. 1 Cr 15,12-14.19-20

153.    Tại sao ta tin "xác sẽ sống lại" ?

-  Thánh Kinh khi nói về “thân xác” là muốn nhắm đến con người trong t́nh trạng mỏng gịn và phải chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng không coi “thân xác” con người là thấp hèn kém giá trị. Trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đă mặc lấy xác phàm, để cứu chuộc loài người. Thiên Chúa cũng không chỉ cứu linh hồn con người, nhưng Người cứu toàn bộ con người có hồn và xác. [988-991, 997-1001, 1015]

     Thiên Chúa đă dựng nên con người có xác và hồn. Đến Tận thế Người sẽ không để cho “xác” nghĩa là toàn thể thụ tạo vật chất rớt xuống như một đồ chơi cũ kỹ. Đến “ngày sau hết” Người sẽ làm cho ta chỗi dậy như những vật có xác thịt – nghĩa là ta sẽ được biến đổi, nhưng ta sẽ vẫn cảm thấy ḿnh ở trong yếu tố của ḿnh. Đối với Chúa Giêsu cũng vậy, việc ở trong điều kiện có xác không phải chỉ trong một giai đoạn. Khi Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, các môn đệ trông thấy các vết thương ở xác Người.

Và Ngôi Lời đă trở nên người phàm (có xác) và cư ngụ giữa chúng ta. Ga 1,14

154.    Khi ta chết, xảy ra điều ǵ ?

-   Khi ta chết, hồn ĺa xác, xác thối rữa, hồn đến gặp Thiên Chúa, và chờ hợp nhất lại với xác vào ngày tận thế. [992-1004, 1016-1018]

     Xác ta sẽ sống lại thế nào, đó là một mầu nhiệm. Một h́nh ảnh có thể giúp ta hiểu: khi ta xem thấy củ của cây hoa tulip, ta không biết nó sẽ phát triển thành hoa rực rỡ thế nào trong đất. Đối với ta cũng thế, ta cũng không biết ǵ về vẻ bề ngoài tương lai của thân xác mới của ta. Thánh Phaolô quả quyết chắc chắn rằng : người ta được gieo trong hèn hạ mà chỗi dậy th́ vinh quang (1 Cr 15,43a)

Nhưng có người sẽ nói, kẻ chết chỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi gieo cái ǵ, cái ấy phải chết rồi mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là h́nh thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một h́nh thể như ư ngài muốn: giống nào h́nh thể ấy. 1Cr 15,35

«      Ngay thân xác cũng có một chỗ nơi Thiên Chúa.  Đức Bênêđictô XVI, 15-8-2005

«      Tôi mun thy Thiên Chúa và đ thy Thiên Chúa, tôi phi chết. Thánh Têrêsa Avila

155.    Nếu ta trông cậy vào Chúa Kitô, Người sẽ giúp ta thế nào vào lúc ta chết ?

-  Chúa Kitô sẽ tới gặp ta và đưa ta vào cuộc sống đời đời. Thánh Têrêsa Hài đồng nói: "Không phải cái chết sẽ đến đón tôi mà là chính Thiên Chúa". [1005-1014, 1016, 1019]

     Khi chiêm ngắm những đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu, đoạn nói về cái chết của Chúa có thể dễ hiểu hơn. Trong hành vi tin cậy và yêu mến Chúa Cha, ta có thể “xin vâng” như Chúa Giêsu đă làm trong vườn cây dầu. Loại thái độ này được gọi là “hiến dâng linh thiêng”. Người đang chết kết hợp với cuộc hiến dâng của Chúa Kitô trên thập giá. Chết như vậy trong niềm tin cậy nơi Chúa và trong b́nh an với mọi người, th́ không có tội nặng, đó là lên đường đi tới cộng đồng của Chúa Kitô phục sinh. Cái chết của ta làm ta rớt xuống, nhưng ta rớt trong tay Chúa. Người chết không hành tŕnh tới hư vô, nhưng trở về nhà trong t́nh yêu của Đấng đă tạo dựng họ.

Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa. Rm 14,8

«      Tôi không chết, tôi đi vào sự sống. Thánh Têrêsa Hài đồng (1873-1897, nhà thần bí và tiến sĩ Hội thánh)

 

 

Chương 6. "Tôi tin hằng sống vậy"

 

156.    Sự sống vĩnh hằng là ǵ ?

Sự Sống vĩnh hằng đă khởi đầu khi ta lănh Bí tích Rửa tội. tiếp tục sau khi chết và nó sẽ vô cùng tận. [1020]

     Những người yêu nhau có kinh nghiệm rằng: họ muốn cho chuyện t́nh của họ không ngừng lại bao giờ. Thiên Chúa là t́nh yêu, thư thứ nhất của thánh Gioan nói thế (1Ga 4,16). Thư thứ nhất gửi Côrintô nói đức ái không bao giờ mất được (1Cr 13,8). Thiên Chúa th́ vĩnh hằng v́ Người là t́nh yêu và t́nh yêu th́ vĩnh hằng bởi v́ t́nh yêu là thần thiêng. Khi ta sống trong t́nh yêu, là ta đi vào hiện tại vĩnh viễn của Thiên Chúa.

Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên, đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. 2 Pr 3,8

«      Thời gian để t́m Chúa, đó là sống. Thời gian để t́m được Chúa, đó là chết. Thời gian để có được Chúa là đời đời. Thánh Phanxicô Salêdiô

157.    Chúng ta có phải chịu xét xử sau khi chết không ?

-  Có. Sau khi chết, mỗi người tức khắc sẽ chịu cuộc xét xử. Cuộc xét xử này được gọi là cuộc xét xử riêng. C̣n đến ngày sau hết, sẽ xảy ra một cuộc xét xử được gọi là cuộc xét xử chung, khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang của Người.

     Khi chết, mỗi người đi tới giờ của sự thật. Lúc đó không ǵ có thể bị gạt đi và che giấu nữa. Ta phải đối mặt với cuộc xét xử của Chúa, Đấng công nhận sự công chính của ta, v́ Thiên Chúa gần gũi ta, ta chỉ có thể hoặc là công chính như Chúa muốn khi Người tạo dựng ta. Hoặc có thể ta cần phải qua một tiến tŕnh thanh luyện chăng, hoặc có thể ta được đón ngay vào ṿng tay của Chúa chăng ? Nhưng cũng có thể ta đầy tội ác, hận thù, từ chối tất cả; ta sẽ từ chối vĩnh viễn bộ mặt của T́nh yêu, bộ mặt của Thiên Chúa.

Xét xử. Việc xét xử riêng hay cá nhân sẽ xảy ra lúc mỗi người chết. Việc xét xử chung tất cả cũng gọi là xét xử sau cùng sẽ xảy ra khi tận thế lúc Chúa trở lại.

«      Khi đời đă về chiều, ta sẽ chịu xét xử về t́nh yêu của ta. Thánh Gioan Thánh giá (1542-1591, nhà thần bí Tây ban nha, tiến sĩ Hội Thánh và thi sĩ)

158.    Trời là ǵ ?

-  Trời là thời gian vô tận của t́nh yêu không bao giờ c̣n xa cách nữa giữa Thiên Chúa và ĺnh hồn đă yêu mến và t́m kiếm Người suốt đời. Được hiệp nhất với tất cả các thiên thần và tất cả các thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần Chúa và với Chúa. Trời là Thiên đường (xem câu 52, 109). [1023-1026, 1053]

     Đôi bạn trẻ nh́n nhau với đôi mắt t́nh tứ, một em bé đang bú mẹ t́m đến cái nh́n của mẹ nó, như muốn giữ ǵn mỗi nụ cười đó măi măi….đó là những thí dụ có thể cho ta một ư niệm nhỏ về trời hay thiên đường. Được nh́n thấy Thiên Chúa mặt đối mặt là như thời gian độc nhất của t́nh yêu kéo dài đến vô tận. à 52

Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. 1 Cr 13,12

«      Một người có thể mất hết của cải đời này trái với ư muốn của ḿnh, nhưng không bao giờ họ mất của cải đời đời nếu không hoàn toàn do ư muốn của ḿnh.
Thánh Augustinô

159.    Luyện ngục là ǵ ?

Luyên ngục thường được coi là một nơi, nhưng đúng ra là một t́nh trạng của những người chết trong ơn nghĩa Chúa, đă được cứu độ, nhưng c̣n cần thanh luyện trước khi họ có thể được xem thấy Thiên Chúa mặt đối mặt. Đó chính là luyện ngục. [1030-1031]

     Khi thánh Phêrô chối Chúa Giêsu, Người quay lại và nh́n ông: “Và Phêrô đi ra khóc lóc một cách cay đắng”, việc thánh Phêrô bày tỏ một t́nh cảm ăn năn như thế có thể có ở luyện ngục. Một luyện ngục như thế chắc sẽ chờ đợi đa số chúng ta lúc chúng ta chết: Chúa nh́n ta với cái nh́n yêu thương, và ta cảm thấy một t́nh cảm hổ thẹn cháy bỏng và một hối hận đớn đau đối với việc ta đă làm điều ác hoặc đă có những hành động chỉ “ thiếu” có t́nh yêu thôi. Chỉ sau khi chịu đau khổ để thanh luyện như vậy ta mới có thể gặp được cái nh́n yêu thương trong niềm vui vĩnh hằng mà không ǵ làm xáo trộn được.

Những công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Thiên Chúa sẽ cho thấy công việc đó, v́ Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. 1Cr 3,13

V́ thế ông Giuđa Macabê đă làm việc đền tội cho người đă chết, để họ được tha thứ tội lỗi. 2 Mcb 12,45

160.    Ta có thể giúp được các linh hồn ở Luyện ngục không ?

Có, v́ tất cả những ai đă được rửa tội trong Chúa Kitô đều được tham dự vào việc “các thánh thông công” và họ liên đới với nhau. Những người c̣n sống có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục. [1032]

     Bởi v́ khi chết rồi con người không thể làm ǵ cho chính ḿnh nữa, thời gian thử luyện đă qua rồi. Nhưng khi ta c̣n sống, ta có thể làm được việc ǵ đó giúp họ, v́ t́nh yêu của ta vẫn hoạt động vươn tới cả đời sau, chẳng hạn ăn chay, cầu nguyện, làm các việc lành, nhất là dâng thánh lễ để xin ơn cho họ. à 146

«      Bạn đừng ngại ngùng cứu giúp những người đă ra đi và dâng lời cầu nguyện cho họ. Thánh Gioan kim khẩu

161.    Hỏa ngục là ǵ ?

Hỏa ngục là t́nh trạng xa ĺa đời đời với Thiên Chúa, thiếu vắng t́nh yêu cách tuyệt đối. [1033-1037]

     Ai chết trong t́nh trạng đă phạm tội nặng do biết rơ và cố t́nh mà không ăn năn hối cải, ai từ bỏ đến muôn đời t́nh yêu hay thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, người đó tự loại bỏ ḿnh ra khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và các Thánh. Có thể có ai lúc chết được nh́n ngắm t́nh yêu tuyệt đối ở trước mặt mà cứ nhất định bỏ không? Ta không biết. Nhưng v́ ta có tự do, nên có thể có. Chúa Giêsu luôn ngăn ngừa chúng ta đừng có dứt khoát chia ly với Chúa bằng cách không quan tâm ǵ đến những khốn khổ của anh chị em chúng ta. Chúa nói với mọi người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời… v́ xưa Ta đói các ngươi đă không cho ăn… Ta bảo thật mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đă không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 41.45). à 53

Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngă, th́ chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cơi sống, c̣n hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa  không hề tắt. Mc 9,43

Kẻ không yêu thương th́ ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em ḿnh th́ là kẻ sát nhân. Và anh em biết không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong ḿnh nó.  Ga 3,14-15

«      Tôi t hi: “Ha ngc là ǵ?”. Tôi qu quyết rng: là không th yêu thương đưc. Fedor Dostoievski, 1821–1881, văn sĩ Nga)

162.    Nếu Thiên Chúa là T́nh yêu th́ sao lại có Hỏa ngục ?

- Không phải Thiên Chúa kết án con người vào hỏa ngục mà chính con người là kẻ tự kết án ḿnh khi gạt bỏ t́nh yêu thương xót của Thiên Chúa. Họ tự tước mất cuộc sống vĩnh cửu khi chính họ tự ư loại ḿnh ra khỏi sự thông hiệp với Thiên Chúa. [1036-1037]

     Thiên Chúa ước ao sống hiệp thông ngay cả với tội nhân cuối cùng. Người muốn mọi người ăn năn trở lại và được cứu rỗi. Nhưng Thiên Chúa đă dựng nên con người được tự do, và Người tôn trọng quyết định của họ. Chính Thiên Chúa không thể ép buộc ai yêu mến. Thiên Chúa không kết án con người. Thiên Chúa là t́nh yêu phải chịu đầu hàng “những ai chọn hỏa ngục hơn là Thiên đàng”. à 51, 53

Thiên Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, v́ Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.  2 Pr 3,9

Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư. 1 Tm 2,4

«      Thiên Chúa nhân lành vô cùng sẽ không bao giờ loại bỏ những ai không muốn loại bỏ Người. Thánh Phanxicô Salêdiô

163.    Sự xét xử cuối cùng (phán xét chung) là ǵ ?

-  Phán xét cuối cùng sẽ diễn ra vào lúc tận thế, lúc Chúa Kitô đến lần thứ hai. "Mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Người và bước ra. Những kẻ đă làm việc lành, sẽ sống lại để hưởng Sự Sống đời đời.  Những kẻ đă làm ác, sẽ sống lại để chịu phán xét" (Ga 5, 29). [1038-1041, 1058-1059]

     Khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang, Người sẽ tỏa sáng trên ta; chân lư sẽ xuất hiện sáng trưng: Tư tưởng, hành động, mối quan hệ giữa ta với Thiên Chúa, với người khác, sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Lúc đó ta sẽ biết rơ ư nghĩa cuối cùng của cuộc sáng tạo trời đất muôn vật, và hiểu rơ những phương thế tuyệt vời Thiên Chúa đă dùng để cứu ta. Sau hết lúc đó ta sẽ trả lời được câu hỏi hằng được lập đi lập lại rằng: quả thực Thiên Chúa là toàn năng thế mà sao sự dữ lại có sức mạnh quá lẽ như vậy ? Phán xét chung thực sự là phán xét cuối cùng đối với ta. Chính lúc này sẽ định đoạt cho ta hoặc sẽ sống lại để sống vĩnh hằng hoặc phải ĺa xa Chúa muôn đời. Đối với những ai đă chọn sự sống, Thiên Chúa sẽ lại dẫn đưa họ như Đấng tạo hóa: trong “một thân xác mới” (2 Cr 5,1), họ sẽ sống muôn đời trong vinh quang của Chúa và ca tụng Người với cả xác hồn. à 110-112, 157

Khi con người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê… Thế là họ ra đi để chịu cực h́nh muôn kiếp, c̣n những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời. Mt 25,31-32,46

164.    Thế giới sẽ tận cùng thế nào ?

-  Khi tận thế, Thiên Chúa sẽ tạo dựng một trời mới đất mới. Sự dữ sẽ không c̣n quyền lực hay quyến rũ nữa. Những ai được cứu rỗi sẽ chiêm ngưỡng Thiên Chúa mặt đối mặt như bạn hữu của Người. Niềm ước mong ḥa b́nh và công lư của họ sẽ được thỏa măn. Hạnh phúc của họ là được chiêm ngắm Chúa. Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ ở giữa họ, sẽ lau khô mọi giọt lệ trên mắt họ: sự chết sẽ không c̣n nữa, và cũng không c̣n tang chế, khóc lóc, và đau khổ nữa. [1042-1050, 1060] à 110-112

Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không c̣n sự chết, cũng chẳng c̣n tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, v́ những điều cũ đă biến mất. Đấng ngự trên ngai phán: Này đây Ta đổi mới mọi sự. Rồi Người phán: Ngươi hăy viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật. Kh 21.4-5

165.    Tại sao chúng ta đọc "Amen" vào cuối kinh Tin kính ?

Chúng ta kết thúc kinh Tin Kính bằng từ Amen. Từ này theo tiếng Do Thái có nghĩa là “thưa vâng”, bởi v́ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở thành nhân chứng đức tin. Ai nói Amen là vui sướng và tự do tán thành công việc tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, Amen cũng là tin tưởng chắc chắn, trông cậy và trung thành. [1061-1065]

     Theo tiếng Hibá, từ Amen có ư nghĩa vừa là “tin” vừa là “tin chắc, tin cậy và trung thành”. “Ai nói Amen là kư tên xác nhận” (Thánh Augustinô). Ta chỉ có thể công bố Amen không chút nghi ngại chỉ v́ Chúa Giêsu đă chứng tỏ cho ta biết bằng cái chết và sự sống lại của Người rằng: Người là đấng trung thành, và đáng tin cậy. Người là “Amen” của loài người đối với tất cả những lời Thiên Chúa hứa, Người cũng là “Amen” dứt khoát của Thiên Chúa với mọi người chúng ta. à 527

Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người. V́ thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa. 2 Cr 1,20

Amen được dùng trong Cựu Ước với ư nghĩa chính là “mong được như vậy”, để làm cho mong ước hoạt động của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn, hoặc để liên kết với lời ca tụng Thiên Chúa. Trong Tân Ước, Amen được dùng để tăng cường cho kết luận của lời cầu nguyện. Thường Chúa Giêsu dùng Amen cách đặc biệt để dẫn vào một lời nói quan trọng. Amen ở đây làm nổi uy thế của lời nói.