Những thách đố mới của giáo lý hôm
nay
Công Đồng đã
Vậy chúng ta hãy tự hỏi xem mình đang ở
đâu trong việc canh tân Giáo lý, sau những thúc bách đổi mới mà trước tiên là
từ những trào lưu giáo lý khác nhau, rồi chính Công Đồng và sau cùng là những
cố gắng suy tư đi theo nó?
1.
Công Đồng
Công Đồng đã không trực tiếp đề cập đến chủ đề giáo lý và những tài
liệu của Công Đồng quy chiếu về giáo lý thì rất ít. Tuy nhiên, Công Đồng đã có
một tác động sâu xa và mấu chốt trên giáo lý. Sự đóng góp cốt yếu của Công Đồng
hệ tại việc làm sáng tỏ những yếu tố nền tảng của giáo lý về mục tiêu và nội
dung của nó. Đối với Lời Chúa, thì giáo lý là sự loan báo Lời và kêu gọi phục
vụ Lời. Còn với đối tượng là tín hữu, thì giáo lý được coi là sự giáo dục đức
tin và trong chiều kích thể chế thì chính Giáo Hội hành động và diễn tả trong
giáo lý. Những tài liệu của Công Đồng nói rất đầy đủ về ba thực tại này là:
Lời, đức tin và Giáo Hội (Hiến Chế Mạc Khải, Sắc Lệnh Truyền Giáo, Hiến Chế
Giáo Hội, Hiến Chế về Mục Vụ).
Thật
ra, Công Đồng đã công bố một sự hiểu biết mới về giáo lý cũng như thách thức
mới để xem xét nó. Đồng thời, Công Đồng cũng mời gọi tất cả hãy nhìn giáo lý
trong viễn cảnh nguồn gốc đầu tiên của nó, là Lời Chúa được khám phá một cách
đặc biệt trong Kinh Thánh và có liên quan trực tiếp với việc giáo dục đức tin
mà nó nhấn mạnh vào thái độ hiện hữu và toàn thể của cá nhân, đồng thời làm nổi
bật một Giáo Hội đang hướng nhiều hơn đến sự hiệp thông và phục vụ. Những điểm
nhấn này, cũng như một vài điều khác, đã được phát triển trong suốt thời kỳ hậu
Công Đồng.
Thời
kỳ hậu Công Đồng này, ít ra cũng kéo dài cho đến năm 1980, có thể được xem là
một thời kỳ nghiên cứu sâu xa và gặt hái dồi dào về lĩnh vực giáo lý. Bối cảnh
của Công Đồng đã cho nhiều đề xuất mới và những sự xem xét lại trong đó có cả
những khủng hoảng. Thật khó để mà đánh giá đầy đủ về thời kỳ này vì tính phức tạp
và sự phong phú của nó. Tuy nhiên, người ta có thể phác thảo gương mặt mới của
giáo lý sau Công Đồng nhờ vào những đặc điểm sau đây: Ưu tiên cho việc Loan báo
Tin Mừng, sự nổi bật của Kinh Thánh, chiều kích nhân loại học, tính nhạy cảm về
xã hội chính trị, ưu tiên cho những người trưởng thành, chỗ đứng trung tâm của
cộng đoàn, ý nghĩa của các phương tiện truyền thông và ngôn ngữ không lời, vv.
Hơn nữa, một số lớn những hoạt động, những tài liệu, những hội nghị, những công
bố đã biểu lộ công khai mong muốn canh tân của Giáo Hội để đáp trả cho một thế
giới đang đi tìm những câu trả lời thích hợp trước những thách thức mới hơn
trong một xã hội đang chịu một sự thay đổi tận căn.
Nếu
như thế, thì hôm nay, đối với giáo lý, chúng ta đang ở đâu? Tất cả những cố gắng
này có đem lại hoa trái không? Một cái nhìn toàn cảnh, bao quát, mau lẹ sẽ giúp
cho chúng ta đánh giá được sự phong phú và phức tạp của việc thực hành giáo lý
hôm nay và phân biệt những điểm tối cũng như những mảng sáng, những yếu tố tích
cực cũng như là những yếu tố tiêu cực.
2. Tình trạng giáo lý hiện nay như thế nào?
Nhìn
chung, người ta có thể thấy nhiều dấu hiệu tích cực, báo trước một tương lai
tốt đẹp, ví dụ như: sự bùng phát các giáo lý giáo dân, sự nở rộ các hình thức
cộng đoàn mới, sự tái xuất hiện các thừa tác viên giáo lý viên giáo dân, sự đòi
hỏi gia tăng của việc đào tạo tôn giáo, những hình thức mới để tái khám phá
Kinh Thánh và các bản văn truyền thống, sự lớn mạnh lạ lùng của những con đường
dự tòng mang nhiều vẻ đẹp, sự hiểu biết và chấp nhận vai trò cũng như chỗ đứng
của người phụ nữ, những kinh nghiệm đáng khích lệ của giáo lý gia đình, những
khởi xướng mới trong lãnh sự đối thoại liên tôn và văn hóa. Điều này thoáng cho
thấy một Giáo Hội mới đang lớn lên một cách âm thầm từ những gốc rễ riêng của
nó.
Nhưng
cũng phải biết rằng dưới hình thức toàn vẹn và truyến thống, giáo lý của Giáo
Hội hiện nay cũng biểu lộ những dấu hiệu hiển nhiên về một cuộc khủng hoảng
trầm trọng. Người ta không thể phủ nhận là hiện nay có nhiều triệu chứng bất ổn
và không thỏa đáng, đặc trưng của một tình trạng khủng hoảng chung. Phải nói
rằng "hệ thống" cổ truyền của giáo lý không hoạt động và không mang
lại những hoa trái như người ta mong đợi, đến nỗi một số những nhân tố, những
vấn đề và những tình trạng vẫn còn tồn tại. Hệ thống này tiếp tục xuất hiện cho
đến một lúc nào đó thì trở thành một hệ thống gây bận tâm quá đáng.
3.
Đâu là những khủng hoảng liên quan đến lãnh vực giáo lý?
3.1.
Cuộc khủng hoảng trong một Giáo Hội nhiều thế hệ
Người
ta bắt đầu thấy xuất hiện những suy tư nghiêm túc về bản chất thần học và mục
vụ của những thế hệ khác nhau. Những suy tư này cho thấy mỗi thế hệ đã nhận
thức, đã hiểu và đã sống đức tin phù hợp với bối cảnh triết lý của thế hệ ấy.
Đàng khác, mỗi thế hệ có những đòi hỏi tiên thiên, những phong thái và ngôn ngữ
của nó. Những sự khác nhau này được nối với các thế hệ thường dẫn tới hệ quả là
có những cách nhìn khác nhau trong tiến trình truyền đạt và truyền thống của
đức tin Kitô, kể cả những khái niệm truyền bá Tin Mừng và giáo lý.
Cuộc
khủng hoảng này cũng có thể nhận thức được về phương diện thể chế mà một số
người gọi là "schizophrenie ecclesiologique" (chứng tâm thần phân
liệt của Giáo Hội) và "partenariat inegalitaire" (sự cộng tác không
đồng đều). Chứng "tâm thần phân liệt của Giáo Hội" được thấy rõ qua
sự kiện là các Giáo Hội địa phương hoạt động theo Giáo Hội học trước Công Đồng
Vatican II trong khi phong trào giáo lý tìm cách quảng bá tinh thần Vat II
trong giáo lý và trong giáo dục đức tin. Còn vấn đề "cộng tác không đồng
đều" được thấy rõ hơn qua sự kiện là các giáo lý viên phải cố gắng thực
hiện sứ mệnh phục vụ cộng đoàn trong khi họ đạo và gia đình thì không góp phần
tham gia của mình.
3.2. Cuộc khủng hoảng và thất bại của tiến trình truyền thống khai
tâm Kitô giáo
Đây
là một lý do làm nhiều người lo lắng. Rất cụ thể và rất thường, giáo lý khai
tâm, xa "khai tâm" và kết thúc ngược đời. Sự kiện này tỏ cho thấy là
tiến trình khai tâm Kitô giáo truyền thống là một thất bại. Rõ ràng bí tích
thêm sức mà một số người gọi là "bí tích giã từ" (sacrement de
l'adieu) hoặc là "bí tích cuối cùng" (dernier des sacrements) biểu lộ
nơi nhiều người trẻ sự kết thúc thực hành tôn giáo và cả đối với một số người
là sự kết thúc chính đức tin Kitô giáo. Sự ngược đời và thất bại này phát xuất
từ tiến trình khai tâm Kitô giáo mà trong thực tế đã trở thành tiến trình
"kết thúc" đời sống Kitô giáo.
3.3.
Khủng hoảng ngôn ngữ giáo lý và sứ điệp của nó
Ngôn ngữ giáo lý và ý nghĩa phong phú của nó tiếp tục tạo ra vấn
đề. Khả năng trình bày sứ điệp Kitô giáo cho người đương thời bằng một cách dễ
hiểu và đầy ý nghĩa tiếp tục đáng ngờ. Một tài liệu của Châu Mỹ Latinh diễn tả
nó bằng một cách khác thường khi nói rằng Giáo Hội bị tước đi hết vì cách loan
truyền Tin Mừng thì nghèo nàn và phẩm chất tồi tệ tiếp tục đáng ngờ, đến nỗi
người ta có cảm tưởng rằng nói một ngôn ngữ mà không ai hiểu nổi, gửi đến quảng
đại quần chúng mà không có thực, mang đến những câu trả lời cho những vấn đề mà
không ai đặt ra và đề nghị những giải pháp mà không ai thực hành.
Một số những vấn đề ngôn ngữ và ý nghĩa tiếp tục ám ảnh giáo lý
chúng ta. Một phần lớn vì tính không hiệu quả của giáo lý là nó không truyền
đạt một sứ điệp mà những người của thời đại chúng ta có thể hiểu được và đem
lại ý nghĩa cho họ. Người ta có thể dễ dàng thẩm tra nó trong phần lớn những
dụng cụ giáo lý đang sử dụng và đôi khi cả trong những tài liệu chính thức. Tất
nhiên là người ta không thể từ chối nó vẫn có khả năng được trình bày tốt,
thông minh mà nhiều người đánh giá cao. Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu thì
thiếu tính giáo lý, mặc dù nó có những phẩm chất lớn những dụng cụ giáo lý đang
sử dụng và đôi khi cả trong những tài liệu chính thức về phương diện thánh kinh
và thần học.
3.4. Tính bấp bênh về giáo lý cho những người trưởng thành
Cả
đến hôm nay, nhiều Kitô hữu trong các cộng đoàn của chúng ta còn tin rằng giáo
lý được dành ưu tiên cho các trẻ em và mặc dù điều này người ta đã nhấn mạnh
không ngừng từ bao nhiêu năm về tính khẩn cấp của giáo lý dành cho người trưởng
thành và sự cần thiết bảo vệ một giáo lý thúc đẩy tăng trưởng đức tin nơi người
trưởng thành trong một Giáo Hội trưởng thành. Nhưng thực tế dường như vẫn còn
rất xa những tuyên bố chính thức về vấn đề này. Giáo lý dành cho người trưởng
thành vẫn còn đang ở điểm khởi đầu, trong khi ấy người ta tập trung hầu hết tất
cả năng lực cho giáo lý trẻ em và thiếu niên.
3.5. Những nhược điểm trong việc đào tạo giáo lý viên, các tác nhân
mục vụ và các linh mục
Nếu
phải nhìn nhận rằng đã có nhiều kinh nghiệm tích cực và cố gắng đáng để ý về
lãnh vực đào tạo, thì cách chung cũng phải công nhận rằng việc đào tạo mục vụ
là không đủ và không thích nghi. Tình trạng lo lắng đặc biệt là trong trường
hợp các linh mục và các chủng sinh chuẩn bị tác vụ mục vụ cách chung và cho
giáo lý cách riêng giống như một thói quen kéo dài rất không thích đáng. Hơn
nữa, mặc dù có một số cố gắng đáng khen, thì việc đào tạo các giáo lý viên vẫn
còn nhiều điều chưa tốt và thường bộc lộ sự thiếu khả năng trả lời cho những
đòi hỏi hiện nay.
(Chuyển
dịch từ Emilio ALBERICH avec la collaboration de Henri Derroitte et Jerôme
Vallabaraj, trong "Les Fondamentaux de la Catechese", Lumen Vitae,
Bruxelles, 2006, pp.21-26).
Đây là tác phẩm mới nhất được Cha Emilio ALBERICH, dòng DON BOSCO
soạn thảo ( Ngài là một giáo sư giàu kinh nghiệm về giáo lý của phân khoa khoa
học giáo dục thuộc đại học giáo hoàng Salesienne ở Roma. Ngài cũng từng là giám
đốc học viện giáo lý của đại học trong nhiều năm).
Cùng
cộng tách với Ngài là Cha Henri DERROITTE, người Bỉ (Giáo sư về môn giáo lý, sư
phạm tôn giáo và truyền giáo của học việc thần học thuộc đại học công giáo
Louvain và Trung tâm Lumen Vitae ở Bruxelles) và Cha Jerome VALLABARAJ, người
Ấn Độ (Giáo sư về giáo lý tại Học Viện khoa học giáo dục thuộc đại học Giáo
Hoàng Salesienne ở Roma, sáng lập trung tâm giáo lý Don Bosco ở Chennai
(India).
Những phân tích và nhận định của các Ngài dựa trên những tài liệu
chính thức của Giáo Hội như Vatican II, Tông Huấn Kitô hữu giáo dân, Tông Huấn
về giáo lý, Thông Điệp Loan Báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay của Đức Phaolô
VI và những tài liệu của các Giáo Hội địa phương, đặc biệt tại Châu Á, FABC từ
năm 1970 đến năm 2001. Nó phản ánh rất rõ tình hình giáo lý hiện nay nói chung
và đặc biệt tại Việt
Người dịch Lm Vinh Sơn Nguyễn Văn
Thanh (Gp Long Xuyên)