GIÁO LÝ TRONG VIỄN TƯỢNG LOAN BÁO TIN MỪNG
Việc nghiên cứu về lịch sử giáo lý góp phần hữu hiệu vào việc định
nghĩa căn tính của giáo lý. Thật vậy, để hiểu giáo lý là gì, chúng ta phải lưu
tâm đến hoạt động của Giáo Hội trong nhiều thế kỷ qua, dưới tác động của Chúa
Thánh Thần.
Trong bài này, trước hết chúng ta nhìn lại hành trình dạy giáo lý
của Giáo Hội trong suốt hai mươi thế kỷ, để thấy những nét đặc thù của từng
thời kỳ, từ đó chúng ta sẽ tìm ra bản chất và ý nghĩa của việc dạy giáo lý khi
đặt nó trong viễn tượng loan báo Tin Mừng.
I. HÀNH TRÌNH TÌM LẠI CĂN TÍNH
Giáo lý là một hoạt động lâu đời cũng như sự hiện diện của Giáo
Hộitrên thế giới này. Nhưng xuyên suốt lịch sử hoạt động của Giáo Hội, giáo lý
đã có nhiềuhình thức và phương thếrất khác nhau, vì thế người ta thường đặt vấn
đề đâu là bản chất đích thực và nét đặc thù của giáo lý. Vấn đề này trở nên cấp
thiết khi công đồng Vatican II thực hiện một bước ngoặt quyết định làm thay đổi
những truyền thống lâu đời trong việc dạy giáo lý của Giáo Hội. Để tìm được lời
giải đáp, thiết tưởng chúng ta phải nhìn lại một cách hệ thống chiều dài lịch
sử của việc dạy giáo lý.
1. Trong những thế kỷ
đầu tiên
Từ môi trường dân ngoại, muốn trở thành Kitô hữu, người ta được mời
gọi “thay đổi cuộc sống” tận căn, “hoán cải”, từ bỏ đời sống cũ để Chúa Giêsu
Kitô hướng dẫn đi vào đời sống mới. Thời kỳ này, người ngoại giáo gia nhập Giáo
Hội & trở thành phần tử của cộng đoàn Giáo Hội không được luật pháp công
nhận trái lại còn bị hành hạ tù đày (x. Cv 5,17. 40; 6,8-15; 7,55-60;
9,20-25).
Vì những lẽ đó mà cộng đoàn Kitô giáo yêu cầu người xin lãnh bí
tích Rửa tội cần phải chuẩn bị với tinh thần trách nhiệm cao cho một hành trình,
một thời gian đầy đủ của việc khai tâm đó là việc học giáo lý dự tòng trong
khoảng một vài tháng về Lời Chúa, về kiến thức đức tin, thi hành việc thanh tẩy
cá nhân và thực hiện một số cử hành. Đỉnh cao của thời kỳ dự tòng là đêm canh
thức Vọng Phục sinh với việc cử hành các bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh
Thể.
2. Thời hoàng kim Kitô
giáo (tk VI-XV)
Trong thế kỷ IV, Giáo Hội chuyển tiếp từ thời kỳ bách hại sang thời
kỳ được Nhà nước nhìn nhận. Trong thời kỳ này Giáo Hội và chính quyền làm việc
rất hòa hợp và ăn ý. Đây là một thời vàng son của “Kitô giáo” vì tầm ảnh hưởng
sâu rộng trên toàn xã hội. Thời kỳ này không còn dự tòng
nữa vì bí tích rửa tội được ban cho trẻ sơ sinh và các Kitô hữu từ lớn đến bé
đều được nuôi dưỡng và lớn lên trong niềm tin nhờ sự nâng đỡ của môi trường với
lòng đạo đức bình dân, với những cử hành phụng vụ, những nền nghệ thuật, những
cuộc hành hương, sự gia tăng tâm thức về sự thánh thiêng cũng như sự trực thuộc
vào Giáo hội địa phương…
Việc dạy giáo lý trong những thế kỷ này xảy ra đồng thời với việc
thực hành đời sống Kitô hữu.
3. Thời thủ bản giáo lý
(sách giáo lý) (tk XVI-XIX)
Cuộc cải cách của Tin Lành và Công giáo thời Công đồng Trentô dẫn
đến một sự dấn thân mạnh mẽ trong lãnh vực giáo lý. “Sách giáo lý” đã ra đời để
đáp ứng nhu cầu cấp bách của việc giáo dục tôn giáo trong thời kỳ này.
Sách giáo lý được hiểu như việc học về tôn giáo một cách có hệ
thống, rõ ràng, cơ bản, thường là hình thức hỏi-thưa, nhằm làm cho mọi người
hiểu rằng điều cần thiết cho đời sống đức tin chính là điều bảo đảm cho ơn cứu
độ đời đời.
Sách giáo lý chính là một bản tóm lược đức tin Kitô giáo.
Trong số những sách giáo lý nổi tiếng và phổ biến, ta thấy có sách
giáo lý của Lutero và sách giáo lý của Đức Hồng y Roberto Bellarmino.
Năm 1912, Sách Giáo lý của Đức Piô X được xuất bản
(tại Ý). Cấu trúc sách giáo lý này gồm 3 phần: Đức Tin (Kinh Tin Kính), Luân lý (Giới luật), Ân sủng (Bí tích). Ngôn từ dùng trong
sách này thật đơn giản và rõ ràng, đó là một kiểu đối thoại, hỏi và thưa (433
công thức). Tính đến Công đồng Vatican II thì sách giáo lý này là bản văn cơ
bản duy nhất để dạy về đạo và chuẩn bị lãnh các bí tích Giải tội, Thánh Thể và
Thêm sức.
4. Thời kỳ hiện đại:
việc dạy giáo lý giản lược vào việc “dạy thủ bản giáo lý”
Toàn bộ thời hiện đại, từ thế kỷ XVI cho đến giữa thế kỷ XX, việc
dạy giáo lý chú tâm vào việc dạy thủ bản hay toát yếu giáo lý Kitô
giáo(compendium), thủ bản trở thành công cụ ưu việt của việc dạy giáo lý.
Suốt thời hiện đại, đã có những ghi nhận về việc sử dụng và tầm
quan trọng của những sách giáo lý truyền thống từ thời công đồng Trentô đến
sách giáo lý của ĐTC Piô X, trong số đó, có những sách rất phổ biến như
Canisio, Bellarmino, Astete, Ripalda, Deharbe, vv. Đã từ lâu việc dạy giáo lý
được hiểu như việc ghi nhớ, giải thích và áp dụng vào cuộc sống những bản tóm
tắt hay toát yếu giáo lý Kitô giáo này; chúng được biên soạn cách rõ ràng, cô
đọng, dưới hình thức hỏi thưa, bao gồm những chân lý đức tin
cần thiết cho ơn cứu độ, những giới luật hoặc nguyên tắc thực hành và những
phương tiện hay công cụ siêu việt như ân sủng và bí tích.
Suy tư về giáo lý nghiêng về phương tiện ưu việt này và về mô hình
sư phạm nghịch lại mô hình mục vụ. Bên cạnh những ưu điểm và lợi ích không thể
phủ nhận, có thể đưa ra không ít những giới hạn của nó: chú trọng đến thần học
nhiều hơn sư phạm của sứ điệp, sử dụng ngôn ngữ trừu tượng, sự nghèo nàn về
Kinh Thánh và phụng vụ, quy trình diễn giải, sư phạm kiểu “lên lớp” và “hộ
giáo”, vv. Không chỉ như thế, việc dạy giáo lý bị đồng hóa với việc “dạy thủ
bản” cũng xuất hiện trong dòng lịch sử gắn với thời mà phần lớn “Kitô giáo” vẫn
còn duy nhất và thuần nhất. Có thể nói rằng, trên nhiều bình diện, giáo dục tôn
giáo tìm được trong môi trường gia đình và xã hội nhiều kênh truyền thông và
ảnh hưởng bổ khuyết phần nào cho những thiếu sót của phương pháp dạy giáo lý
này.
Thời gian trôi qua, việc bỏ đạo gia tăng, sự bất mãn và bận tâm
cũng tăng lên; người ta thấy cần phải suy nghĩ lại thành phần của những hoạt
động giáo lý khác nhau. Phong trào giáo lý nảy sinh và phát triển từ đó.
5. Thời tiền công đồng: từ việc “dạy thủ bản giáo lý” đến việc “dạy giáo lý”
Vào khoảng cuối thế kỷ XIX, một sự xoay chuyển lớn về ý tưởng và
những sáng kiến được phát triển dẫn đến việc canh tân và khuếch trương giáo lý
trong Giáo Hội được gọi là “phong trào giáo lý”.
Một chuỗi gợi ý và chỉ dẫn mang tính chính thức của phong trào được
ghi nhận bắt nguồn từ Rôma, sau đó ảnh hưởng tới những quốc gia và các Giáo Hội
địa phương khác. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến công trình tiên khởi của
ĐTC Piô X, với thông điệp “Acerbo Nimis”
(1905) và những sách giáo lý mang tên ngài (1905 và 1912), bản tuyên ngôn “Provido Sane” năm 1935 và Hội nghị Giáo
lý Quốc tế ở Rôma năm 1950. Trong các quốc gia, chúng ta thấy có những hội nghị
giáo lý khác nhau, nỗ lực soạn thảo sách giáo lý cấp quốc gia, những công trình
không biết mỏi mệt của những nhà khai sáng khác nhau trong việc canh tân giáo
lý.
Phong trào giáo lý cũng tìm được một số quốc gia làm nơi thuận tiện
để xem xét lại hoạt động giáo lý dưới ảnh hưởng của nền thần học và sư phạm
đương thời cũng như việc sử dụng những phương thế phân tích và giải thích mới.
Trong ý hướng này, phải tuyên dương đặc biệt các nước Đức, Áo và Pháp. Nhìn
chung về phong trào giáo lý ở châu Âu, người ta có thể phân biệt ba ảnh hưởng
mang tính quyết định đó là sư phạm, phụng vụ và thần học - mục vụ.
a) Ảnh hưởng sư phạm
Ảnh hưởng đầu tiên (từ cuối thế kỷ XVIII đến thế chiến thứ hai)
phát xuất từ mối bận tâm về phương phápdạy môn tôn giáo và từ ảnh hưởng của
những ý tưởng lớn về sư phạm và tâm lý (O. Willmann, J.F. Herbart, J. Dewey, G.
Kerschenstainer, A. Ferrière, vv.). Bận tâm chính là tìm ra cách dạy giáo lý
tốt hơn, đặc biệt là điều kiện và cách học của trẻ em. Điều này nhắc ta nhớ đến
ảnh hưởng của “phương pháp đan sĩ (Monaco)” và công trình không mỏi mệt của
những người tiên phong trong việc canh tân giáo lý như H. Stieglitz, A. Weber,
W. Pichler, M. Pfliegler, C. Quinet, M. Fargues, F. Derkenne, M. Montessori,
J.M. Dingeon, vv…
b) Ảnh hưởng phụng vụ
Ảnh hưởng phụng vụ phát xuất từ việc canh tân phụng vụ, đặc biệt từ
cách giải thích mục vụ (B. Beaudin, Hội nghị Malines 1908 và Monserrat 1915).
Nỗ lực canh tân này đưa những yêu cầu và phương thức phụng vụ như bài hát, cử
hành, biểu tượng, cử chỉ, vv…vào trong giáo lý.
c) Ảnh hưởng thần học -
mục vụ
Ảnh hưởng thần học - mục vụ xảy ra giữa thế chiến thứ hai và CĐ
Vatican II, phát xuất từ vấn đề nội dung hoặc sứ điệp của giáo lý là “kerygma”.
Người ta phản đối cấu trúc trừu tượng và giáo điều của sách giáo lý truyền
thống và tán thành việc trở lại với “kerygma” của các tông đồ cũng như với
truyền thống giáo lý chân thực của Giáo Hội. Người ta khám phá lại tính quy
Kitô của giáo lý, trọng tâm của lịch sử cứu độ, chiều kích Kinh Thánh và phụng
vụ của sứ điệp Kitô giáo, khái niệm giáo lý như là việc giáo dục đức tin. Một
vài khuôn mặt đáng nhớ về ảnh hưởng này: J.A. Jungmann, F.X. Arnold, G.
Delcuve, J. Colomb, F. Schreibmayr, K. Tilmann, J. Hofinger.
6. Bước ngoặt công đồng Vatican II: duyệt xét lại
toàn bộ việc dạy giáo lý
Công đồng Vatican II có ảnh hưởng sâu rộng và quyết liệt trên việc
dạy giáo lý. Có thể nói Công Đồng đã khép lại “thời đại dạy thủ bản giáo lý” và
mở ra công cuộc rà soát lại nền tảng của việc dạy giáo lý. Mặc dù Công Đồng
không đề cập trực tiếp đến giáo lý, nhưng toàn bộ công trình của Công Đồng buộc
ta phải thay đổi cách hiểu về nhiệm vụ của việc dạy giáo lý, qua việc xem xét
lại một số điểm căn bản về việc dạy giáo lý như Lời Chúa, Đức tin và Giáo Hội.
Thời hậu Công đồng là một thời kỳ đầy chấn động về giáo lý cũng như
về các vấn đề khác trong đời sống Giáo Hội, một thời kỳ thật phong phú nhưng
cũng rất phức tạp. Phong phú vì có nhiều công trình nghiên cứu những đường lối
mới, đầy nhiệt thành và sáng tạo. Người ta soạn thảo nhiều sách giáo lý mới với
những bản văn và tài liệu hỗ trợ, lập ra những Học viện và Trung tâm Huấn giáo.
Nỗ lực suy tư về giáo lý dẫn đến nhiều bình diện hay chiều kích mới trên bình
diện thực hành như đòi hỏi về nhân học, trọng tâm Kinh Thánh, chiều kích chính
trị và xã hội, ưu tiên cho người lớn, ảnh hưởng của truyền thông và cách riêng
của truyền thanh và truyền hình, tầm quan trọng của cộng đoàn, vv… Những thúc
đẩy và tác động lớn lao này có khả năng phác họa một khuôn mặt thực sự mới mẻ
về hoạt động giáo lý.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng có một thời kỳ thực sự bất ổn và
phức tạp không thể kiểm soát được do những biến đổi và những sự mới mẻ gây ra.
Thông thường một hoàn cảnh bất ổn và phức tạpnhư thế sẽ làm cho toàn bộ hoạt
động giáo lý bị khủng hoảng về nội dung, phương pháp, môi trường, đối tượng,
nhân sự, vv... đồng thời tạo ra xung đột và rối loạn, tranh cãi và căng thẳng,
khủng hoảng về nhân sự và tổ chức, những cố gắng không chuyên môn và những kinh
nghiệm chín muồi tỏa sáng. Chúng ta không được quên rằng tận sâu thẳm của mọi
biến đổi đều có những nguy cơ và những khó khăn; đây là cái giá phải trả cho
mọi nỗ lực canh tân nghiêm túc.
7. Sự đóng góp của Huấn
quyền về việc dạy giáo lý (sau Công Đồng
Trong thời hậu Công đồng, cũng có rất nhiều chỉ dẫn giúp canh tân
giáo lý một cách đúng đắn và có trật tự. Chúng ta nhớ đến những văn kiện và tài
liệu của Giáo Hội phổ quát như:
1) Hướng dẫn giáo lý tổng quát 1971: Trình bày những nguyên lý, quy
tắc, tiêu chuẩn và những nội dung cơ bản cho việc canh tân giáo lý trong toàn
Giáo Hội Công giáo và cho việc chuẩn bị các sách giáo lý của các nước.
2) Nghi thức gia nhập Kitô giáo của người lớn 1972: Trình bày các nghi thức dự tòng theo
từng giai đoạn; nghi thức đơn giản nhập đạo của người lớn; nghi thức đơn giản
nhập đạo của người lớn trong lúc nguy tử; nghi thức nhập đạo của trẻ nhỏ đã đến
tuổi học giáo lý…
3) Evangelii Nuntiandi
1975: Loan báo Tin Mừng và Giáo lý. Loan báo Tin Mừng vàThăng tiến
nhân bản.
4) Ad Populum Dei
nuntius Cum jam exitum de catechesi hoc nostro tempore tradenda praesertim
pueris atque iuvenibus 1977: Giáo lý trong thời đại chúng ta. Sứ điệp của Thượng Hội Đồng Giám
Mục về giáo lý.
5) Catechesi Tradendae
1979:Giáo lý không chỉ là việc giảng dạy
nhưng còn là việc giáo dục.
6) Bộ giáo luật 1983: (điều 773-780): Dạy giáo lý đồng hóa với việc dạy giáo huấn; kinh
nghiệm đời sống kitô hữu, cho một đức tin sống động, minh nhiên, tích
cực.
7) Tông thư Sứ vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio -
1990)
8) Hướng dẫn tổng quát
việc dạy giáo lý 1997:
- “Công cụ của phương pháp luận” để áp dụng cụ thể Sách
Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
- Có một sự tái lượng giá đáng kể tổng quát về
Sách Giáo lý.
- Cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Việc
Dạy Giáo Lý 1997 vẫn
duy trì cấu trúc cơ bản của bản văn 1971, được sắp xếp như sau:
Lời mở đầu đưa ra những chỉ dẫn giúp cho việc giải
thích và hiểu biết các hoàn cảnh của con người và của Hội Thánh, theo ánh sáng
đức tin và sự tin cậy ở sức sống của hạt giống Tin Mừng. Đó là những định hướng
ngắn gọn nhằm vào sứ mệnh truyền giáo.
Phần thứ nhất [1] gồm ba chương và chú trọng đến việc dạy giáo lý theo Hiến Chế Dei Verbum(Mạc
Khải), đặt việc dạy giáo lý vào trong khung cảnh Phúc Âm hóa đã được giới thiệu
bởi các Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan Báo Tin Mừng) và Catechesi Tradendae (Dạy Giáo Lý). Phần này cũng đã
làm sáng tỏ bản chất của việc dạy giáo lý.
Phần thứ hai [2] gồm hai chương: Chương thứ nhất, có tựa đề là “Những quy tắc và
những tiêu chuẩn cho việc trình bày sứ điệp Tin Mừng trong việc dạy giáo lý”:
với một kết cấu mới và trong một viễn tượng phong phú, đã thu thập toàn bộ nội
dung của chương này trong bản văn năm 1971. Chương thứ hai, làm mới hoàn toàn,
dành cho việc trình bày giáo lý của Hội Thánh Công Giáo như bản văn quy chiếu
cho việc truyền thông đức tin qua việc dạy giáo lý và cho việc soạn thảo các
sách giáo lý địa phương. Chương này cũng đã cung cấp những nguyên tắc cơ bản
nhằm soạn thảo những sách giáo lý cho các Giáo Hội địa phương và các Giáo Hội
cấp vùng.
Phần thứ ba [3] trình bày một vấn đề liên quan đến thần học và khoa học nhân văn,
dưới một hình thức khá mới mẻ, bằng cách đưa ra những đường nét chủ yếu về sư
phạm đức tin dựa trên sư phạm của Thiên Chúa.
Phần thứ bốn [4] có tựa đề: “Những người thừa hưởng việc dạy Giáo lý”. Trong năm
chương ngắn ngủi, phần này duyệt xét những hoàn cảnh rất khác nhau, về những
người mà việc dạy giáo lý nhắm tới, về những khía cạnh liên quan đến hoàn cảnh
xã hội, tôn giáo và đặc biệt là về vấn đề hội nhập văn hóa.
Phần thứ năm [5] xem Giáo Hội địa phương là trọng tâm của việc dạy giáo lý; bổn phận
chủ yếu của Giáo Hội là cổ vũ, tiên liệu, gìn giữ và bố trí các sinh hoạt giáo
lý. Ở đây, người ta đặc biệt chú ý đến việc miêu tả những vai trò riêng biệt
của những tác nhân khác nhau (những tác nhân đó luôn luôn quy chiếu vào vị chủ
chăn của Giáo Hội địa phương), cũng như những đòi hỏi phải huấn luyện theo từng
trường hợp.
Phần kết kêu mời chúng ta tăng cường hoạt động
giáo lý trong thời buổi hiện tại, kết thúc suy tư và những phương hướng trên
bằng việc mời gọi tín thác vào hoạt động của Chúa Thánh Thần và vào hiệu quả
của Lời Chúa được gieo vãi trong tình yêu.
8) Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (1992) gồm 4 phần chính:
- Phần thứ nhất: Tuyên xưng đức tin;
- Phần thứ hai: Cử hành mầu nhiệm Kitô giáo;
- Phần thứ ba: Đời sống trong Đức Kitô;
- Phần thứ tư: Kinh nguyện Kitô giáo.
9) Toát yếu sách Giáo
lý của Hội Thánh Công giáo (2005) theo dạng hỏi thưa, gồm 598 câu.
Bên cạnh những chỉ dẫn đại thể này, còn có những tài liệu hướng dẫn
không kém phần quan trọng và ý nghĩa của các Giáo Hội địa phương, chẳng hạn tài
liệu của các Giáo Hội châu Mỹ la tinh: MedellínDirectório general para la catequesis (1998), Brasil Directório Nacional de Catequese(2006),
Ecuador: Directório Nacional para
la Evangelización y Catequesis (1982);
Bắc Mỹ: Hoa Kỳ Sharing the Light of
Faith (1979), National Directory for Catechesis(2005);
châu Âu: PhápDirectoire
catéchétique national de l’Eglise en France,
(1964); Italia: Il Rinnovamento della
Catechesi (1970);
châu Á: Philippines The National Catechetical Directory for the Philippines(1983).
Cần có sự minh định
Dạy giáo lý là một trong những hình thức thực thi sứ vụ rao giảng
Lời Chúa hoặc thừa tác vụ Ngôn sứ của Giáo Hội, bên cạnh các hình thức khác như
Loan báo Tin Mừng đầu tiên, giảng dạy trong phụng vụ, suy tư thần học, vv… Vì
thế, việc dạy giáo lý chỉ có thể tìm lại căn tính của mình trong viễn tượng
Loan báo Tin Mừng (LBTM). Việc đề cao tính ưu việt của LBTM trong sứ mạng của
Giáo Hội có vẻ làm mờ nhiều chức năng truyền thống của việc dạy giáo lý, chí ít
buộc chúng phải được xem xét lại. Cặp từ “LBTM và Giáo lý” thường xuất hiện
trong các văn kiện và chương trình mục vụ mà trước đây những tài liệu ấy chỉ
nói đến giáo lý. Người ta cũng nói đến “giáo lý phúc âm hóa”, “giáo lý truyền
giáo” vv… và ưu tiên chọn LBTM đến độ hoạt động giáo lý chừng như biến mất hay
bị lu mờ.Do đó, thiết nghĩ cần phải làm sáng tỏ vấn đề này.
Một khó khăn khác nảy sinh từ việc giáo lý có rất nhiều hình thức
khác nhaunhư lộ trình dự tòng, chuẩn bị lãnh nhận các bí tích, các nhóm suy tư,
các khóa huấn luyện, đọc Kinh Thánh, vv…, và hoạt động giáo lý cũng có nhiều
tên gọi khác nhaunhư dạy đạo, giáo dục đức tin, dạy giáo lý, dạy tôn giáo, huấn
luyện đạo đức, vv… Khi nói đến giáo lý, người ta cũng nói đến những hoạt động
rất đa dạng nhưcử hành phụng vụ, cầu nguyện và chiêm niệm, các nhóm linh thao,
sống & chia sẻ, các hiệp hội và phong trào, vv… Như thế, “giáo lý” dường
như có mặt ở mọi nơi mọi chỗ, do đó, đánh mất ý nghĩa và căn tính của nó trong
sự hòa hợp các chức năng khác nhau của cộng đoàn Kitô hữu. Như vậy, một lần
nữa, cần phải làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của việc dạy giáo lý.
II. GIÁO LÝ TRONG VIỄN TƯỢNG LOAN BÁO TIN MỪNG
Với những lý do trên đây, khi xét đến bản chất và ý nghĩa của việc
dạy giáo lý, cần phải đặt nó trong viễn tượng Loan báo Tin Mừng cũng như trong
khuôn khổ sứ vụ của Giáo Hội, tức thừa tác vụ Lời Chúa.
1. Loan báo Tin Mừng là gì?
Thuật ngữ “loan báo TM”, trong CĐ Vatican II vẫn chưa được xác định
rõ, nhưng sau CĐ thuật ngữ này đã được biết đến, nhất là trong những thập niên
’70, một bùng nổ thời sự đích thực. Điều này có thể thấy trong các văn kiện,
tài liệu, hội nghị và chương trình mục vụ có ảnh hưởng một cách nào đó đến
Thượng HĐGM năm 1974 và tiếp sau đó là tông thư của ĐTC Phaolô VI Evangelii nuntiandi (1975). Từ những thập niên ’80
và ’90 trở đi xuất hiện lối diễn tả “Tân Phúc Âm hóa”, áp dụng đặc biệt cho
hoàn cảnh châu Âu và bối cảnh nước Mỹ.
Một bước ngoặt quan trọng: LBTM, từ xa xưa được xem như nhiệm vụ
giới hạn trong những vùng gọi là “địa hạt truyền giáo”, và được hiểu đó là sứ mạng cốt yếu của toàn thể Giáo Hội:
“Chúng Tôi cảm thấy thật an ủi và vui mừng, nhân dịp kết thúc
thượng Hội đồng GM thế giới tháng 10/1974, đây là những lời minh xác: Chúng tôi
muốn tái khẳng định rằng việc sai đi LBTM cho muôn dân làm nên sứ mạng chủ yếu
của Giáo Hội”, nhiệm vụ và sứ mạng này không giảm thiểu tính khẩn thiết của nó
trong một xã hội nhiều chuyển biến to lớn và sâu xa. Thật vậy, việc LBTM là ân
sủng và ơn gọi thiết yếu, và là bản chất sâu xa nhất của Giáo Hội” (EN 14).
Trong Tân Ước
Trong Tân ước đã xuất hiện sự biến động về nghĩa của động từ “loan báo” (euanghelìzesthai).
Nhiều chỗ trong Tân Ước, từ này chỉ việc công bố “kerygma” theo nghĩa hẹp, công
bố có nghĩa là công khai long trọng tuyên bố ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho
tất cả mọi người trong CGS Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại. Nhiều chỗ khác,
từ này chỉ toàn bộ hoạt động của Giáo Hội, qua lời nói và đời sống, làm cho ơn
cứu độ thành hiện thực.
Trọng tâm của việc LBTM luôn luôn là “Phúc Âm/Tin Mừng”, cũng chính
là Tin Mừng cứu độ, việc công bố Nước Trời, mạc khải “mầu nhiệm” được ẩn giấu
nơi Thiên Chúa, loan báo cuộc Vượt qua của Đức Kitô, mạc khải siêu việt của
Thiên Chúa và kế hoạch cứu rỗi trong lịch sử.
Công Đồng Vatican II
Trong các văn kiện CĐ Vatican II,
thuật ngữ “LBTM” chuyển từ nghĩa hẹp, như loan báo TM cho người chưa tin theo
nghĩa hoán cải, đến nghĩa rộng hơn, đó là LBTM trong toàn bộ hoạt động ngôn sứ
của Giáo Hộihoặc ngay cả trong toàn bộ hoạt động truyền giáo của Giáo Hội.
Grasso tóm lại trong nghiên cứu của ông về thuật ngữ này trong các văn kiện CĐ
như sau:
“Chúng ta có thể kết luận rằng việc khảo sát thuật ngữ “LBTM” trong
các văn kiện CĐ cho phép chúng ta phân biệt ba ý nghĩa: hoặcđơn giảnchỉ là
truyền giáo (Ad
gentes 6,26),
hoặc toàn bộ thừa tác vụ lời (Lumen gentium 3,18; Christus Dominus 6,10; Gaudium et Spes44,13; Apostolicam Actuositatem 2,20, vv.), hoặc toàn bộ hoạt động
truyền giáo của Giáo Hội (Ad Gentes 23,6;
27,15, vv.)”
Thời hậu công đồng
Các văn kiện trong Thượng HĐGM 1974 về việc LBTM được định hướng một cách
rõ ràng, không hiểu hạn hẹp là loan báo truyền giáo theo nghĩa hẹp, chỉ ngỏ lời
với những người chưa tin, nhưng được hiểu là toàn bộ hoạt động truyền
giáo của Giáo Hội,
trong bất kỳ hình thức nào mà nó được thực hiện. Tông huấn Evangelii nuntiandi đã khẳng định nghĩa rộng của
thuật ngữ này, ứng dụng nó trong cái nhìn phức hợp (EN 17) và sự phong phú của
mọi chiều kích (EN 18-24).
“Chúng tôi đã tuyên bố, LBTM là một tiến trình liên hợp từ mọi yếu
tố khác nhau: canh tân nhân loại, làm chứng, loan báo minh bạch, gắn kết tâm
hồn, hội nhập cộng đoàn, chấp nhận những dấu chỉ, những sáng kiến tông đồ” (EN
24).
Nghĩa rộng của thuật ngữ này cũng được Hướng dẫn tổng quát về việc dạy giáo lý 1997 chấp
nhận:
“Loan báo, làm chứng, giáo huấn, các bí tích, yêu tha nhân, thâu
nạp môn đệ: tất cả những sắc thái ấy đều là những con đường và phương tiện cho
việc truyền đạt Phúc Âm và cấu thành những yếu tố của việc RGTM […]. Những thừa
tác viên của việc LBTM phải biết hành động với một “cái nhìn tổng thể” về chính
việc LBTM và đồng hóa nó với toàn bộ sứ mạng của GIÁO HỘI” (HDTQ46).
“Vì thế, việc LBTM phải được quan niệm như tiến trình mà qua đó Hội
Thánh loan báo và phổ biến TM cho toàn thế giới dưới sự thúc đẩy của Thánh
Thần” (HDTQ48).
Vì thế có thể kết luận rằng, trong ý thức hiện tại của Giáo Hội,
LBTM có thể được định nghĩa như là việc loan báo và làm chứng
cho Tin Mừng từ phía Giáo Hội, qua tất cả những gì Giáo Hội nói, Giáo Hội làm và
Giáo Hội là.
LBTM bao gồm toàn bộ hoạt động của Giáo Hội nhắm đến việc loan báo
và làm chứng Tin Mừng Nước Trời. Có thể nói định nghĩa này đánh dấu một bước
ngoặt trong công cuộc Loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Giáo Hội sẽ “không có
nghĩa gì nếu như nó không trở thành chứng tá, khơi lên lòng cảm phục và hoán
cải, khi giảng dạy và loan báo Tin Mừng” (EN 15). Ý nghĩa của thuật ngữ LBTM
giúp chúng ta xác định căn tính của việc dạy giáo lý, ngay trong tác vụ Lời
Chúa.
2. Tiến trình Loan báo
Tin Mừng
Bổn phận loan báo Tin Mừng (LBTM) của Giáo Hộiđược thực hiện cách
cụ thể trong toàn bộ một chuỗi những lãnh vực hoặc môi trường mà từ đó, theo
truyền thống hình thành sự năng động hoặc tiến
trình của mọi
hoạt động. Đó là những thời điểm khác nhau mà Hướng dẫn 1997 gọi là “tiến trình LBTM”.
“Tiến trình LBTM được tổ chức theo từng giai đoạn hay vào những
“thời điểm chính yếu”: hoạt động truyền giáo cho những người chưa tin và cho
những người sống dửng dưng với tôn giáo; hoạt động giáo lý khai tâm cho những
người đã lựa chọn sống theo TM và cho những ai cần bổ sung hay tái sắp xếp đời
sống khai tâm của mình; và hoạt động mục vụ cho những kitô hữu đã trưởng thành
trong lòng cộng đoàn kitô hữu” (HDTQ49).
Cho nên đây là nhịp độ diễn tả và định tính sức năng động lý tưởng
của hoạt động Giáo Hội trong thực tế. Chúng ta có thể nhận ra những bước trong
tiến trình Loan báo Tin Mừng như sau:
a) Hoạt động truyền giáo: là bước đầu tiên trong tiến trình
LBTM và nhắm đến người chưa tin cũng như những ai sống trong sự thờ ơ với tôn
giáo (HDTQ 49), bằng những hình thức hiện diện, phục vụ, đối thoại, làm
chứng,…cho đến khi việc loan báo TM đầu tiên được thực hiện.
b) Hoạt động dự tòng: được hiểu là toàn bộ những hoạt
động trực tiếp với những người quan tâm đến đức tin và những người muốn trở
thành hoặc tái tạo đời sống kitô hữu và kết nối với những thời điểm khác nhau
trong việc phục vụ khai tâm kitô giáo: đón tiếp, đồng hành, giáo lý khai tâm,
nghi thức và các bí tích khai tâm. Hoạt động dự tòng, trước hết liên quan đến
một thể chế, diễn đạt một chức năng cơ bản của đời sống Giáo Hội, là sự bày tỏ
tình mẫu tử của Giáo Hội (HDTQ,48).
c) Hoạt động mục vụ: là môi trường có tính truyền thống của
toàn bộ hoạt động “nội tại” của cộng đoàn Giáo Hội, qua việc thực hiện những
chức năng mục vụ: thờ phượng, cử hành, các bí tích, giảng dạy, giáo lý, đời
sống cộng đoàn, phục vụ bác ái, vv.
d) Sự hiện diện và hoạt
động trong thế giới: cần
được quan tâm đặc biệt, bởi vì thường bị xao lãng, đây là ngõ ra thông thường
của hoạt động Giáo Hội trong các hình thức khác nhau về việc làm chứng TM trong
xã hội: thăng tiến nhân bản, hoạt động xã hội và chính trị, biến đổi xã hội,
hoạt động giáo dục và văn hóa, cổ võ hòa bình, dấn thân môi trường. Đó là những
môi trường Giáo Hội hiện diện, nơi mà Giáo Hội được mời gọi thoát ra khỏi hàng
rào nội bộ của mình để phục vụ Nước Thiên Chúa trong thế giới.
3. Loan báo Tin Mừng:
một bước ngoặt và một thách đố
Việc Giáo Hội quyết định đặt trọng tâm mọi hoạt động của mình vào
việc LBTM là một chọn lựa cho phép chúng ta nói đến bước ngoặt lịch sử.
Thật vậy, khi đặt Giáo lý trong viễn tượng LBTM có nghĩa là chúng
ta chấp nhận những thách đố của sự tục hóa, của sự cứng lòng, của sự đa dạng và đa nguyên về văn hoá cũng như tôn giáo.
Nó cũng có nghĩa là muốn khắc phục sự khủng hoảng cứng lòng trầm trọng của Giáo Hội đương thời.
Cho nên cần thiết một nỗ lực làm chứng và tính xác thực kitô hữu, sao cho việc rao
giảng Tin Mừng Nước Trời trở nên khả tín, điều mà trong một vài thời điểm Giáo
Hội không thực hiện được.
Việc LBTM đòi hỏi toàn thể Giáo Hội một nỗ lực chú trọng vào điều cơ bản và tái khám phá bản chất kitô hữu bằng những ngôn từ có ý nghĩa và hợp thời. Chính Giáo Hội được mời gọi tái khám phá và rà soát lại sứ mạng của mình,
như thể “lời” biểu lộ tính mới mẻ của Nước Trời. Điều này giả thiết việc chấp
nhận sự can đảm phục hồi khởi đi từ Lời Chúa, để nhận được sức mạnh đến từ
“Lời”, chứ không từ cách vận động công khai bằng những phương tiện truyền thông
và những phương sách quyền lực của con người.
LBTM phải đem Giáo Hội ra khỏi chính mình,
để Giáo Hội trở nên như “tôi tá nhân loại”, với toàn bộ hoạt động hướng đến
việc loan báo Đấng Cứu Độ, chứ không như một loại “hoạt động phục hồi”, theo
nghĩa tái thiết, nhằm may lại chỗ rách của miếng vải Giáo Hội, hoặc để chinh
phục những uy tín hay những ảnh hưởng đã mất; hoặc phục hồi tuyên truyền, theo
cách chiêu dụ, để tăng số những người theo đạo.
Có thể kết luận rằng, đối với các kitô hữu tái khám phá việc LBTM
có một tầm quan trọng như thực chất sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới hôm
nay. Cần phải có một sự động viên toàn bộ và một kế hoạch đổi mới tận căn, có
khả năng thay đổi ý nghĩa sự hiện diện của Giáo Hội trong thế giới. Dựa trên
nền tảng định hướng này, mọi thời điểm hoạt động mục vụ của Giáo Hội phải được
suy nghĩ lại, cũng là suy nghĩ lại việc dạy giáo lý.
4. Bản chất của việc
dạy giáo lý
Truyền thống Giáo Hội cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các
hoạt động được diễn tả bằng thuật ngữ“dạy giáo lý” hoặc các thuật ngữ tương
đương. Trong mỗi thời đại, các thuật ngữ này diễn tảcác hoạt động khác nhau
như:dự tòng thời cổ đại, khai tâm bí tích, dạy đạo cho người lớn và trẻ em, dạy
tôn giáo trong nhà trường, vv. Thuật ngữ“dạy giáo lý” ngày nay, theo giáo huấn
của Giáo Hội, khi đặt trong viễn tượng loan báo Tin Mừng được hiểu theo nghĩa
rộng và xác thực hơn.
Dạy giáo là gì?
Trong các văn kiện chính thức của Giáo Hội có rất nhiều định nghĩa
về việc dạy giáo lý; chẳng hạn như Công Đồng Vaticanô II nói đến “việc dạy giáo
lý” nhằm“khơi dậy đức tin nơi mọi người và làm cho đức tin ấy, nhờ đạo lý soi
dẫn, trở nên sống động, dứt khoát và tích cực» (CD 14); hoặc định nghĩa của
THĐGM năm 1977:
«Công việc này… bao gồm việc giáo dục đức tin có tổ chức, phát triển và thống nhất với một tiến trình trưởng thành đức
tin vững chắc».
Một định nghĩa khác trong Hướng dẫn Tổng quát 1971:
«Trong lãnh vực hoạt động mục vụ, giáo lý là hoạt động Giáo Hội dẫn
dắt các Kitô hữu và các cộng đoàn đạt tới một đức tin trưởng thành» (HDTQ 21).
Trong Hướng dẫn Tổng quát việc Dạy Giáo lý 1997, “dạy giáo lý là một trong
những thời điểm chính yếu của tiến trình Loan báo Tin Mừng… Thời điểm của việc
dạy giáo lý là thời gian để hình thành cuộc trở lại với Chúa Giêsu” (s.63) và
“đặt nền tảng cho tòa nhà đức tin” (s.64), “là sự khai tâm có tổ chức và hệ
thống hướng về Mặc khải” (s.66). Đặc biệt việc dạy giáo lý khai tâm được diễn
tả như “một sự đào tạo có tổ chức và có hệ thống về đức tin” (s.67), hơn hẳn
việc giảng dạy truyền thống:
«Việc đào tạo có tổ chức và có truyền thống này còn hơn là một sự
giảng dạy: đó là một cuộc tập luyện toàn bộ đời sống Kitô giáo, “một sự khai
tâm Kitô giáo trọn vẹn” dẫn đến cuộc sống đích thực theo chân Đức Kitô, tập
trung vào Ngôi vị của Người. Thực vậy, đó là việc giáo dục để nhận biết và sống
đức tin sao cho qua những kinh nghiệm sâu sắc của mình, con người toàn diện tự
cảm thấy mình phong phú nhờ Lời Chúa» (HDTQ 67).
Dẫu có những diễn tả khác nhau, nhưng hiện nay Giáo Hội vẫn thống
nhất ý kiến trong việc nhận ra căn tính của giáo lý xoay quanh 3 trục chính: Lời Chúa, Đức tin vàGiáo Hội. Có thể tóm tắt như sau:
- Dạy giáo lý là tác vụ Lời Chúa;
vì dạy giáo lý là phục vụ Tin Mừng, là thông truyền sứ điệp Kitô giáo và loan
báo Đức Kitô;
- Dạy giáo lý là giáo dục đức tin; trong công cuộc giáo dục này,
Giáo Hội giữ vai trò trung gian nhằm giúp cho đức tin nảy sinh và tăng trưởng
nơi từng người cũng như nơi mỗi cộng đoàn;
- Dạy giáo lý là hoạt động của Giáo Hội; hoạt động này diễn tả thực tại
và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội.
KẾT LUẬN
Khi đặt Giáo lý trong viễn tượng Loan báo Tin Mừng, chúng ta thấy
rõ hơn Giáo lý là một trong những
thời điểm chính yếu của tiến trình Loan báo Tin Mừng, trong đó, giáo lý giúp hình thành cuộc trở lại
với Chúa Giêsu” (s.63), “đặt nền tảng cho tòa nhà đức tin” (s.64) và “là sự
khai tâm có tổ chức và hệ thống hướng về Mặc khải” (s.66). Nói một cách ngắn
gọn, dạy giáo lý là việc Giáo Hộiphục vụ Lời Chúa nhằm mục đích làm cho từng người và
từng cộng đoàn trưởng thành trong đức tin.
Md Phạm Thúy (giaolyductin.net29/10/13,
10:52 am)
Soạn theo Emilio ALBERICH, La catechesi oggi.
Manuale di catechetica fondamentale
(Giáo lý ngày nay. Thủ bản nghiên cứu giáo lý căn bản), Elledici,
TO, 2001, 61 – 77.
[1]Tương ứng với phần Hai của HDTQ (1971).
[2]Có cùng mục tiêu như phần Ba của HDTQ
(1971).
[3]Có cùng mục tiêu như phần Bốn của HDTQ
(1971).
[4]Có cùng mục tiêu như phần Năm của HDTQ
(1971). Cho dù một số người, sau khi đưa những lý do đầy ý nghĩa, đã đề nghị
xếp đặt phần này lên trước phần nói về sư phạm, chúng tôi vẫn thích, xét về cấu
trúc mới của phần Ba, để duy trì thứ tự của bản văn 1971. Như vậy, chúng tôi
muốn nhấn mạnh rằng việc quan tâm đến đối tượng học giáo lý là một hiệu quả của
chính khoa sư phạm thần linh, của « sự hạ mình » (DV 13) của Thiên
Chúa trong lịch sử cứu độ, sự thích nghi của Mạc Khải vào điều kiện nhân loại.
[5]Lưu ý đến tất cả các yếu tố trong phần
Sáu của HDTQ (1971).