Giáo hội như là hiệp
thông
THƯ CỦA BỘ
GIÁO LÝ ĐỨC TIN Gửi Các Giám Mục Thuộc Giáo Hội Công Giáo, Bàn Về Một Số Khía Cạnh
Của Giáo Hội Được Hiểu Như Là Hiệp Thông.
Dẫn Nhập
1. Khái niệm: hiệp thông (koinonia), từng được các văn bản của
Công Đồng Vaticanô II nêu rõ,[1] là
một khái niệm đặc biệt thích hợp để diễn tả sự thâm sâu của Mầu nhiệm Giáo Hội;
và chắc hẳn có thể giữ một vai trò then chốt trong nổ lực nghiên cứu để canh
tân khoa giáo hội học công giáo.[2] Quả
vậy, việc đào sâu thực tại của Giáo Hội được hiểu như hiệp thông, là một thách
đố có tầm trọng yếu đặc biệt, bởi vì nó mở ra cả một lãnh vực bao la cho công
tác suy tư thần học về mầu nhiệm của Giáo Hội, của một Giáo Hội mang "bản
chất huyền diệu đến độ có thể làm đề tài cho những cuộc nghiên cứu mới mẻ và
sâu rộng hơn mãi".[3] Dẫu
vậy, một ít cách nhìn trong các quan điểm về giáo hội học cũng đã tỏ ra chưa nhận
thức đủ về Giáo Hội được hiểu như là mầu
nhiệm hiệp thông, bởi lẽ những cách nhìn này không điều hòa được một cách
đúng đắn khái niệm "hiệp thông" với những khái niệm Dân Thiên Chúa và Thân
Thể Đức Kitô, cũng như không biết
lưu tâm cho đầy đủ đến mối tương quan giữa Giáo Hội như là hiệp thông và Giáo Hội như là bí tích.
2. Ý thức về tầm
quan trọng mà nhiều khía cạnh khác nhau của Giáo Hội xét như Hiệp thông có
trong các lãnh vực giáo lý, mục vụ và đại kết, Bộ Giáo Lý Đức Tin xét thấy đây
là lúc cần phải vắn tắt nhắc lại qua Thư này, và làm sáng tỏ ở mọi chỗ khác khi
cần, một số yếu tố cơ bản, phải được coi như là những điểm tựa bắt buộc, kể cả
trong việc đào sâu thần học.
I. Giáo Hội: Mầu
Nhiệm Hiệp Thông
3. Được hiểu như
là mầu nhiệm của mối liên kết một cách cá nhân giữa mỗi người với Thiên Chúa Ba
Ngôi, và với những người khác, khái niệm hiệp
thông "nằm ngay ở điểm
chính yếu của sự việc Giáo Hội tự nhận thức về mình”:[4] mối
liên kết ấy khởi đầu với lòng tin,[5]và hướng tới tình trạng viên mãn cánh chung
nơi Giáo Hội trên trời, nhưng đồng thời, đó cũng là một thực tại đang hiện diện
manh nha nơi Giáo Hội tại thế. [6]
Để khái niệm hiệp thông, không phải
là một khái niệm đơn nghĩa, có thể dùng làm chìa khoá giải thích trong khoa
giáo hội học, thì cần phải hiểu nó theo giáo huấn Kinh thánh và truyền thống
giáo phụ; theo đó, hiệp
thông luôn luôn hàm ngụ một
chiều kích song đôi: chiều kích hướng dọc (hiệp thông với Thiên Chúa)và chiều
kích hướng ngang (hiệp thông giữa loài người). Vậy, để có được một nhãn quan
kitô về hiệp thông,
điều thiết yếu là phải biết nhìn nhận hiệp
thông trước tiên như là ân lộc
của Thiên Chúa, như là hoa trái của sáng kiến thần linh được thực hiện ở nơi mầu
nhiệm Vượt qua. Được thiết lập trong Đức Kitô và được thông ban qua các bí
tích, mối liên hệ mới giữa con người với Thiên Chúa cũng được nối dài thêm bằng
một mối liên hệ mới giữa con người với con người. Bởi thế, khái niệm hiệp thông tất phải có khả năng để diễn đạt, một
mặt là bản chất bí tích của Giáo Hội trong khi "chúng ta còn sống lưu đày
xa Chúa",[7]và mặt khác là mối hiệp nhất đặc thù có sức
làm cho các tín hữu trở thành những chi thể của cùng một Thân Thể: tức là của
Nhiệm Thể Đức Kitô,[8]trở thành cộng đoàn có cơ cấu tổ chức,[9] cũng
như trở thành "dân tộc được quy tụ lại trong niềm hiệp nhất giữa Cha, Con
và Thánh Thần ",[10]và ngoài ra, còn được cung ứng những
phương thế cần thiết nhằm thể hiện mối liên kết của mình cả về phương diện hữu
hình và xã hội nữa.[11]
4. Niềm hiệp thông trong Giáo hội
mang tính chất vừa vô hình, lại vừa hữu hình. Xét về mặt thực tại vô hình,
thì đó là mối hiệp thông giữa từng người với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô, và
trong Thánh Thần, cũng như với những người khác, là những kẻ cùng tham dự vào bản
tính thần linh,[12]trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô,[13]trong cùng một niềm tin,[14]và cùng một tinh thần.[15]Nơi Giáo Hội tại thế, ở trong giáo lý các
Tông đồ và các bí tích cũng như ở trong phẩm trật, có tiềm tàng một giây liên hệ
mật thiết giữa mối hiệp thông vô hình ấy với niềm hiệp thông hữu hình. Qua những
ân lộc thần linh mang hình thái của những thực tại hữu hình như thế, Đức Kitô
thi hành chức năng ngôn sứ, tư tế và vương giả của Ngài
ngay giữa lòng lịch sử và bằng nhiều cách thức khác nhau để cứu độ loài người.[16]Chính mối liên hệ giữa những yếu tố vô
hình và hữu hình của niềm hiệp thông trong Giáo hội đã làm cho Giáo Hội trở nên
Bí Tích Cứu Độ.
Chính do bí tích
tính này, mà Giáo Hội hiện hữu như một thực tại không phải chỉ bo bo khép kín
mình lại, nhưng là biết thường xuyên mở rộng lòng ra trước đà năng động truyền
giáo và đại kết, vì Giáo Hội được phái gửi vào trong thế giới để loan báo và
làm chứng, để hiện thực hóa và rao truyền mầu nhiệm hiệp thông là chính mầu nhiệm
làm nên Giáo Hội: quy tụ mọi sự và mọi người lại trong Đức Kitô;[17]làm "bí tích hiệp nhất keo sơn”[18]nối kết mọi người.
5. Mối hiệp thông
giáo hội trong đó, nhờ đức tin và Phép rửa,[19]mỗi người được đính ghép vào, là một mối
hiệp thông phát nguyên từ và quy tâm về với Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, Phép rửa
là hành động hội nhập vào trong một thân thể được Chúa Phục Sinh xây dựng và
làm cho sinh động nhờ Thánh Thể, đến độ thân thể ấy có thể thực sự được gọi là
Thân Mình của Đức Kitô. Bí tích Thánh Thể sở dĩ là nguồn mạch và là sức mạnh
sáng tạo làm phát sinh nên mối hiệp
thông giữa các phần tử của
Giáo Hội, là vì chính bí tích này kết hợp từng người trong họ lại với Đức
Kitô:"Thông phần thực sự vào Thân Mình của Chúa Kitô qua việc bẻ bánh thánh
thể, chúng ta được nâng lên đến mức hiệp thông với Ngài và với nhau. "Vì
chỉ có một tấm bánh, nên tuy nhiều, hết thảy chúng ta cũng chỉ là một thân thể;
bởi lẽ tất cả chúng ta đều chia phần cùng một tấm bánh duy nhất ấy" (1Cr
10, 17).[20]
Vì vậy, thành ngữ
Thánh Phaolô thường dùng, gọi Giáo
Hội là Thân Thể Đức Kitô, có nghĩa
như thế này: Bí tích Thánh Thể Chúa dùng để ban cho chúng ta Thân Thể Ngài, và
để biến hóa chúng ta thành một Thân Thể duy nhất, [21]là chính bí tích qua đó Giáo Hội biểu hiện
một cách thường xuyên, trong hình thái chủ yếu nhất của mình, tức là hiện diện ở
mọi nơi, mà vẫn chỉ là một, như Đức Kitô là một.
6. Giáo Hội là niềm Hiệp Thông giữa các thánh : đó là cách nói dựa theo lối diễn đạt
truyền thống đọc thấy nơi các văn bản bằng La ngữ viết vào cuối thế kỷ thứ VI,[22] ghi
lại Tín Biểu các Tông đồ. Việc thông phần chung và hữu hình vào các ân lộc cứu
độ (các sự thánh), và đặc biệt vào Bí tích Thánh Thể, là nguồn cội phát
sinh mối hiệp thông vô hình giữa những người tham dự (các thánh). Mối hiệp
thông ấy bao hàm một giây liên đới thiêng liêng giữa các phần tử của Giáo Hội,
trong tư cách là chi thể của cùng một Thân Thể, [23]và hướng tới việc làm cho họ kết hợp thực
sự trong đức ái qua việc kiến tạo "mối đồng tâm nhất trí chung".[24]Mối hiệp thông cũng hướng tới việc kết hiệp
trong cầu nguyện,[25] do
cùng một Thần Khí gợi hứng lên nơi mọi người,[26]đó chính là Thánh Thần "làm cho toàn
thể Giáo Hội được sung mãn và hiệp nhất" [27]
Qua các yếu tố vô
hình của nó, mối hiệp thông này chẳng những hiện hữu giữa các phần tử cu?a Giáo
Hội lữ hành trên trần gian, mà còn hiện hữu giữa các phần tử này với mọi người nhờ
đã lìa đời trong ân nghĩa của Chúa, nên hiện đang là thành viên của Giáo Hội
Thiên quốc, hoặc sẽ được hội nhập vào đó một khi đã được hoàn toàn thanh luyện.[28]Đây là một trong những ý nghĩa mà chân lý
trên đây muốn nói: giữa Giáo Hội lữ hành tại thế và Giáo Hội trên trời, có một
liên hệ hỗ tương gắn liền với sứ mạng của lịch sử cứu độ.
Do đó, có thể xác quyết về tầm quan trọng theo phương diện giáo hội học không
những của việc Đức Kitô chuyển cầu cho các chi thể của mình,[29]mà còn của cả việc các Thánh, và nổi bật đặc
biệt là Đức Trinh Nữ Maria, chuyển cầu cho các tín hữu nữa.[30]
Vậy, nếu vẫn còn tồn
tại mạnh mẽ như thế ở trong lòng đạo đức của giáo dân kitô, tất phần nòng cốt của
việc tôn kính các thánh phải là điều thật sự phù hợp với thực
thể sâu thẳm của Giáo Hội được hiểu như là mầu nhiệm hiệp thông.
II. Giáo Hội Toàn
Cầu và Các Giáo Hội Địa Phương
7. Giáo Hội của
Đức Kitô, được tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền
trong Tín Biểu, là chính Giáo Hội phổ quát, -- nghĩa là cộng đoàn của các môn đệ
Chúa trong toàn cầu,[31]nhưng lại trở thành hiện diện và sinh động
ngay giữa những nét đặc thù và những bối cảnh đa dạng của những con người, những
nhóm, những thời đại và nơi chốn khác nhau. Giữa nhiều thành ngữ đặc biệt dùng
để nói lên sự hiện diện cứu độ của Giáo Hội duy nhất Đức Kitô thiết lập, thì
ngay từ thời các Tông đồ đã thấy có những biểu thức mang chính danh xưng các Giáo Hội,[32]vì tuy các Giáo Hội này có chỉ là địa
phương, thì trong đó Giáo Hội phổ quát toàn cầu cũng hiện diện với hết thảy mọi
yếu tố chủ yếu của mình.[33] Như
thế, các Giáo Hội này đều được thiết lập "theo hình ảnh Giáo Hội phổ
quát",[34]và mỗi Giáo Hội là "một phần của dân
Thiên Chúa được trao phó cho một vị giám mục để ngài làm mục tử chăn dắt với sự
trợ giúp của linh mục đoàn".[35]
8. Bởi thế, Giáo Hội
phổ quát chính la Thân
Thể của các Giáo Hội;[36] do
đó, cũng có thể dùng loại suy mà áp dụng khái niệm hiệp thông cho mối
liên kết giữa các Giáo Hội địa phương, và nhờ vậy có thể hiểu Giáo Hội phổ quát
như là mộtCộng Đồng Hiệp Thông các Giáo Hội. Tuy nhiên, đôi khi ý tưởng
"hiệp thông giữa các Giáo Hội địa phương" đã được trình bày như thế
nào đó khiến cho quan niệm về tính chất duy nhất của Giáo Hội bị suy suyển đi
trong chiều kích hữu hình và cơ chế của nó. Người ta đi đến chỗ khẳng định rằng
mỗi Giáo Hội địa phương là một chủ thể tự mình đã hoàn bị, và Giáo Hội phổ quát
là kết quả của việc các Giáo Hội địa phương nhìn
nhận lẫn nhau. Lối nhìn giáo hội học phiến diện như thế không những làm cho
khái niệm về Giáo Hội phổ quát, mà cả khái niệm về Giáo Hội địa phương nữa, ra
nghèo nàn đi: quan niệm theo cách thức ấy là tỏ ra còn thiếu sót trong cách hiểu
về khái niệm hiệp thông. Chính lịch sử đã minh chứng cho thấy: khi một Giáo Hội
địa phương cố tranh thủ cho được quyền tự trị riêng mà làm suy giảm đi mối hiệp
thông mình có thực sự đối với Giáo Hội phổ quát và với trung tâm cốt tử cùng hữu
hình của chính mình, thì tình trạng duy nhất nội tại của Giáo Hội địa phương ấy
lại bị vỡ tung ra, và hơn nữa, Giáo Hội ấy còn bị lâm vào nguy cơ đánh mất tự
do của mình đi vì phải đương đầu cam go với nhiều loại thế lực thống trị và bóc
lột.[37]
9. Để có thể thấu
hiểu ý nghĩa thực sự của việc dùng loại suy mà áp dụng từ ngữ hiệp thông cho toàn bộ các Giáo Hội địa phương,
thì trước hết cần phải nhận thức rằng: xét theo tư cách là "những thành phần
trong Giáo Hội duy nhất của Đức Kitô",[38]các Giáo Hội địa phương đều có một mối
liên hệ đặc biệt với toàn thể, tức là với Giáo Hội phổ quát: đó là mối liên hệ
phát sinh từ "bản chất hỗ tương trong nội tính"(intériorité
mutuelle);[39]bởi lẽ trong mỗi Giáo Hội địa phương
"đều có Giáo Hội của Đức Kitô, Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo
và tông truyền, hằng thực sự hiện diện và hoạt động.[40]Vì thế, "không thể nào lại đi quan niệm
Giáo Hội phổ quát như là tổng số, hoặc như là một liên hiệp các Giáo Hội địa
phương được".[41] Giáo
Hội phổ quát không phải là kết quả của sự hiệp thông giữa các Giáo Hội địa
phương, nhưng tự mầu nhiệm chủ yếu của nó, là một thực thể có trước mọi Giáo Hội
địa phương riêng lẽ cả về mặt hữu thể lẫn thời
gian.
Thật vậy, xét về mặt hữu thể học,
và theo các giáo phụ thì Giáo Hội-mầu nhiệm, Giáo Hội duy nhất và độc nhất có
trước công cuộc tạo dựng,[42]và đã sinh ra các Giáo Hội địa phương như
con đẻ của mình; Giáo Hội phổ quát biểu hiện ra ở nơi các Giáo Hội địa phương,
và là mẹ chứ không phải là sản phẩm của các Giáo Hội này. Ngoài ra, xét về mặt thời gian,
Giáo Hội đã tỏ hiện ra trong ngày lễ Ngũ Tuần, ở nơi cộng đoàn một trăm hai
mươi người quy tụ quanh Đức Maria và mười hai Tông đồ, là những vị đại diện của
Giáo Hội độc nhất và cũng là những nhà khai sáng các Giáo Hội địa phương sau này;
các vị có sứ mạng đối với toàn thế giới: từ giây phút đó, Giáo Hội nói được mọi thứ ngôn ngữ.[43]
Ngay từ buổi
nguyên sơ, Giáo Hội đã biểu thị rõ tính phổ quát của mình qua việc khai sinh
nên nhiều Giáo Hội địa phương, tức là khai sinh nên những mẫu cá biệt thể hiện
Giáo Hội duy nhất và độc nhất của Đức Kitô. Bởi đã sinh ra trongvà từ Giáo Hội phổ quát, nên cũng chính từ và trong Giáo Hội phổ quát mà các Giáo Hội địa
phương có được giáo hội tính. Do đó, công thức của Công đồng Vaticanô II ghi rằng:"Giáo
Hội ở trong và phát xuất từ các Giáo Hội" (Ecclesia in et ex Ecclesiis) [44]phải được gắn liền với một công thức khác:
"Các Giáo Hội ở trong và phát xuất từ Giáo Hội" (Ecclesiae in et
ex Ecclesia).[45] Bản
chất của mối liên hệ giữa Giáo Hội phổ quát và các Giáo Hội địa phương là một mầu
nhiệm; mối liên hệ này không giống như mối liên hệ giữa toàn thể và các thành
phần trong bất cứ nhóm người hay tập thể thuần túy nhân loại nào.
10. Nhờ đức tin và
phép rửa, mọi tín hữu đều được hội nhập vào trong Giáo Hội duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền; không một tín hữu nào thuộc về Giáo Hội phổ quát một
cách gián tiếp, qua
trung gian sự việc thuộc về một
Giáo Hội địa phương, nhưng là một cách trực
tiếp, cho dù việc gia nhập và sống trong Giáo Hội phổ quát có nhất thiết phải
được thể hiện ra ở trong một Giáo Hội địa phương. Trong viễn cảnh về Giáo Hội
được hiểu như là hiệp thông, mối hiệp
thông phổ quát giữa các tín hữu và niềm hiệp thông giữa các Giáo Hội không phải là hiệu qủa của nhau, nhưng
cùng làm nên một thực tại được nhìn dưới những nhãn quan khác nhau.
Ngoài ra, việc thuộc về một Giáo Hội địa phương thì không bao
giờ mâu thuẫn với thực tế cuộc sống (Giáo Hội); mà thực tế cuộc sống Giáo Hội
thì hằng mong ước rằng trong
Giáo Hội, không một ai là người xa lạ cả:[46]đặc biệt trong việc cử hành Bí tích Thánh
Thể, mọi tín hữu đều đang thực sự ở trong Giáo Hội của mình, trong Giáo Hội
của Đức Kitô, bất chấp về mặt giáo luật họ có hay không thuộc về giáo phận,
giáo xứ hay cộng đoàn nào đó đang cử hành Thánh Lễ. Trong ý nghĩa này,dù những
quy định cần thiết về việc tòng thuộc pháp lý vẫn giữ nguyên,[47]thì người thuộc về một Giáo Hội địa phương
thì cũng thuộc về hết thảy mọi Giáo Hội; thật vậy, không bao giờ sự kiện thuộc
về mối Hiệp thông,
cũng hệt như sự việc thuộc về Giáo Hội, lại chỉ có tính cách thuần túy địa phương:
tự bản chất, sự kiện thuộc về như thế thì luôn luôn phổ quát.[48]
III. Mối Hiệp
Thông Giữa các Giáo Hội, Bí Tích Thánh Thể và Chức Giám Mục
11. Niềm hiệp nhất
hay hiệp thông giữa các Giáo Hội địa phương trong Giáo Hội phổ quát không những
đặt nền tảng trên cùng một đức tin và cùng một phép rửa, nhưng lại còn đâm rễ
sâu rộng hơn hết, vào trong bí tích Thánh Thể và chức Giám mục.
Nó đâm rễ sâu vào
trong Bí tích Thánh Thể, vì tuy hy tế tạ ơn luôn được cử hành trong một cộng
đoàn địa phương riêng lẻ, nhưng lại không khi nào là việc cử hành đơn độc của
riêng cộng đoàn ấy mà thôi. Thật vậy, đón nhận sự hiện diện của Chúa trong Bí
tích Thánh Thể như thế, là cộng đoàn đón nhận toàn bộ hồng ân cứu độ; rồi dù có
thường xuyên mang đặc tính cá biệt hữu hình của mình, thì cộng đoàn ấy cũng vẫn
biểu hiện như là hình ảnh và như là sự hiện diện thực sự của Giáo Hội duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền.[49]
Việc phát hiện lại
một khoa giáo hội học
thánh thể tuy có giá trị không thể chối cãi, nhưng đôi lúc đã tỏ ra chỉ biết
nhấn mạnh một chiều đến nguyên lý về Giáo Hội địa phương. Người ta khẳng định rằng
nơi nào có cử hành Bí tích Thánh Thể, thì nơi đó hiện diện toàn bộ mầu nhiệm
Giáo Hội, đến độ làm như phải coi mọi nguyên lý hiệp nhất và phổ quát khác là
không chủ yếu. Một số quan niệm khác, chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái thần
học khác nhau, còn có khuynh hướng quảng diễn lối nhìn cá biệt trên đây về Giáo
Hội một cách triệt để hơn, đến độ khẳng định rằng quy tụ lại với nhau nhân danh
Đức Giêsu (xem Mt 18,20) và tạo ra Giáo Hội, hai điều đó chỉ là một: đã trở
thành cộng đoàn nhân danh Đức Kitô, tất cử tọa trong cuộc họp sẽ thủ đắc các
quyền hành của Giáo Hội, kể cả quyền đối với Bí tích Thánh Thể; có người còn bảo
rằng Giáo Hội phát sinh "từ hạ tầng cơ sở”.
Những sai lầm vừa
kể và những sai lầm tương tự, đã không biết lưu ý đủ đến sự kiện này là chính
Bí tích Thánh Thể đã cho thấy rằng không thể nào quan niệm một Giáo Hội địa
phương có quyền tự trị được cả. Thật vậy, tính chất duy nhất và bất khả phân của
Thân Thể Chúa trong Bí tích Thánh Thể ám chỉ duy nhất tính trong Thân Thể mầu
nhiệm của Ngài, tức là Giáo Hội duy nhất và bất khả phân. Chính từ trung tâm
thánh thể của mình mà mọi cộng đoàn hành lễ, và mọi Giáo Hội địa phương có được
tầm khai mở giao tiếp cần thiết: khi để cho vòng tay rộng mở của Chúa thu hút,
thì ta được hội nhập vào trong Thân Thể độc nhất và không chút phân rẽ của
Ngài. Đó cũng là lý do cho thấy tại sao tác vụ của Phêrô, làm nền tảng cho mối
hiệp nhất trong Giám Mục Đoàn và trong Giáo Hội phổ quát, lại tương ứng sâu xa
với tính chất thánh thể của Giáo Hội đến thế.
12. Thật vậy, sự
hiệp nhất của Giáo Hội cũng đâm rễ vào trong mối hiệp nhất của Giám Mục Đoàn.[50]Cũng như khái niệm Thân Thể của Giáo Hội đòi hỏi phải có một Giáo Hội là Đầu các Giáo Hội khác, và đó chính là Giáo
Hội Roma "Chủ trì niềm hiệp thông phổ quát của đức ái”,[51] thì
hệt như vậy, mối hiệp nhất của Giám Mục Đoàn cũng cần phải có một giám mục làm
Đầu cho Thân Thể hay
Đoàn Thể các Giám mục, và đó chính là Giáo Chủ Rôma.[52]"Trong tư cách là người kế vị Thánh
Phêrô, Giáo Hoàng là nguyên lý và là nền tảng vĩnh viễn và hữu hình”[53]của mối hiệp nhất trong Giám Mục Đoàn,
cũng như của niềm hiệp nhất trong toàn thể Giáo Hội. Mối hiệp nhất này của Giám
Mục Đoàn được tồn tại mãi qua các thế hệ nhờ thể thức kế nhiệm tông truyền; rồi
cũng chính nó làm nền tảng cho bản sắc của Giáo Hội để qua đó, Giáo Hội trong mọi
thời giữ được bản chất đồng nhất với Giáo Hội mà Đức Kitô đã thiết lập trên nền
tảng Phêrô và các Tông đồ khác.[54]
13. Giám mục là
nguyên lý và là nền tảng hữu hình của hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương được
giao phó cho ngài chăn dắt;[55]tuy nhiên, để mỗi Giáo Hội địa phương có
được trọn vẹn bản chất của Giáo Hội, nghĩa là có khả năng biểu hiện sự có mặt của
Giáo Hội phổ quát tại một địa phương với tất cả mọi thành tố thiết yếu của nó,
và do đó được cấu tạo theo
hình ảnh của Giáo Hội phổ quát, thì quyền tối thượng trong Giáo Hội --nghĩa
là Giám Mục Đoàn "cùng với Giáo Chủ Rôma làm Thủ lãnh, và không khi nào đứng
riêng ra ngoài vị Thủ lãnh này" [56] --
phải hiện diện nơi Giáo Hội địa phương ấy như là yếu tố đặc thù của chính mình.
Chức Giáo Chủ của Giám mục Roma và Giám Mục Đoàn là những yếu tố đặc thù của
Giáo Hội phổ quát: các yếu tố này “không bắt nguồn từ tính cá biệt (địa phương)
của các Giáo Hội”,[57] cho
dù chúng đều có mặtở trong mọi Giáo Hội địa phương. Bởi thế, "cần
phải coi tác vụ của Đấng
kế vị Thánh Phêrô, không phải như một dịch vụ ‘tổng quát’ chỉ có quan hệ với
các Giáo Hội địa phương một cách chung chung từ ‘bên ngoài’, nhưng như là thành tố ngay
‘từ bên trong’, hằng nằm chính ở nơi yếu tính của mọi Giáo Hội địa phương ".[58]
Thật vậy, tác vụ của
vị Giáo Chủ chủ yếu bao gồm một quyền hành giám mục thực sự, không những tối
thượng, trọn vẹn và phổ quát, mà còn có tính cách trực tiếp đối với mọi người nữa: đối với các Mục
tử cũng như đối với các tín hữu khác.[59]Sở dĩ tác vụ của người kế vị Thánh Phêrô hằng
có ảnh hưởng ngay ở bên
trong mọi Giáo Hội địa phương
như thế, chính vì đó là hệ quả tất yếu phát xuất từ bản chất hỗ tương trong nội
tính làm gốc cội chung giữa
Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương.[60]
14. Tính chất duy
nhất của Bí tích Thánh Thể và mối hiệp nhất của Giám Mục Đoàn đối với Phêrô và dưới quyền
Phêrôkhông phải là hai cội nguồn biệt lập của mối hiệp nhất trong Giáo Hội,
bởi lẽ Đức Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức Giám mục như là những thực
tại tự bản chất gắn bó với nhau.[61] Bí
tích giám mục là một,
hệt như Thánh Thể là một:
Hy tế duy nhất của Đức Kitô duy nhất là Đấng đã chết và đã sống lại. Phụng vụ
biểu đạt thực tại này bằng nhiều cách khác nhau; chẳng hạn như bằng cách cho thấy
rằng mọi cuộc cử hành Bí tích Thánh Thể đều được tiến hành trong niềm hiệp
thông chẳng những với Giám mục mà còn cả với Đức Giáo Hoàng, với hàng giám mục,
với toàn bộ giới giáo sĩ và toàn thể dân Chúa nữa.[62]Mọi cuộc cử hành bí tích Thánh Thể hợp thức
đều nói lên niềm hiệp thông phổ quát ấy đối với Phêrô và với Giáo Hội toàn thể,
hoặc là đòi phải có mối hiệp thông ấy về
mặt khách quan, như trong trường hợp các Giáo Hội kitô đã tách khỏi Roma.[63]
IV. Duy Nhất và Đa
Dạng Trong Mối Hiệp Thông Giáo Hội
15. "Tính phổ
quát của Giáo Hội một mặt làm nảy sinh nên một mối hiệp nhất vững chắc nhất, và
mặt khác lại đưa đếntình trạng đa phức và đa dạng: tình trạng này không
những không gây trở ngại cho sự hiệp nhất, mà ngược lại còn giúp cho hiệp nhất
có được tính chất hiệp
thông nữa".[64]Tình trạng đa phức này là hệ quả đi kèm
theo thực tại đa dạng gặp thấy hoặc là nơi các tác vụ, các đoàn sủng, các lối sống,
và các hình thức tông vụ ở trong mỗi Giáo Hội địa phương, hoặc là nơi những
truyền thống phụng vụ cũng như văn hóa khác nhau giữa các Giáo Hội địa phương.[65]
Phát huy hiệp nhất
mà không gây trở ngại cho đa dạng, cũng như nhìn nhận và phát huy đa dạng mà
không gây trở ngại cho hiệp nhất, nhưng lại làm cho nó càng thêm phong phú hơn:
đó là hai công tác nằm trong trách vụ hàng đầu của Giáo Hoàng đối với toàn thể
Giáo Hội,[66]và của mỗi giám mục đối với Giáo Hội địa
phương đã được giao phó cho tác vụ mục tử của mình, miễn là luật chung Giáo Hội
vẫn được giữ nguyên.[67]Nhưng việc xây dựng và bảo toàn mối hiệp
nhất nhờ có đa dạng mà mang được tính chất hiệp thông như thế, cũng thuộc trách
nhiệm của hết mọi người trong Giáo Hội, bởi lẽ tất cả đều được mời gọi để xây dựng
và tôn trọng mối hiệp nhất ấy mỗi ngày, chủ yếu là bằng đức ái là "mối dây
của hoàn thiện".[68]
16. Để có một cái
nhìn đầy đủ hơn về khía cạnh này của niềm hiệp thông giáo Hội - hiệp nhất trong
khác biệt, thì cần phải lưu ý đến điểm này là: có những cơ chế và những cộng
đoàn do Tòa Thánh thiết lập để chu tất những công tác mục vụ đặc biệt. Trong tư cách đó, các tổ
chức này trực thuộc Giáo Hội phổ quát; còn các thành viên của chúng thì cũng vẫn
là thành viên thuộc các Giáo Hội địa phương ở nơi họ sống và làm việc. Vốn có đặc tính uyển chuyển,[69] việc
thuộc về các Giáo Hội địa phương như thế mang nhiều lối biểu đạt khác nhau về mặt
pháp lý. Sự kiện này chẳng những không phương hại đến niềm hiệp nhất của Giáo Hội
địa phương đặt nền móng trên Giám mục, mà ngược lại, còn giúp cho mối hiệp nhất
này có được tính chất đa dạng nội bộ, vốn là đặc tính của hiệp thông.[70]
Khi hiểu Giáo Hội
như là hiệp thông, thì cũng cần phải để ý đến các tu hội và hội dòng khác nhau;
đó là những cách biểu hiện các đoàn sủng của đời sống tận hiến và của đời tông
đồ; qua các đoàn sủng này, Thánh Thần làm cho Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô
nên phong phú: cho dù các tổ chức đời tu như thế không nằm trong cơ cấu phẩm trật
của Giáo Hội, thì họ cũng vẫn được gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của
Giáo Hội.[71]
Vì mang tính chất
siêu giáo phận, và đâm rễ sâu vào trong tác vụ của Phêrô, nên tất cả các thực
thể trên đây của Giáo Hội cũng đều là những nhân tố nhằm phục vụ cho niềm hiệp
thông giữa các Giáo Hội địa phương.
V. Hiệp Thông Giáo
Hội và Đại Kết
17. "Vì nhiều
lý do, Giáo Hội thâm tín rằng mình có liên hệ với những người đang mang danh hiệu
kitô hữa cao đẹp bởi đã lãnh nhận phép rửa, tuy không tuyên xưng đức tin trọn vẹn
hoặc không giữ mối kết liên hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô".[72]Thực vậy, trong các Giáo Hội và các cộng đồng
kitô không công giáo, còn tồn tại nhiều thành tố của Giáo Hội Đức Kitô, qua đó
chúng ta có thể vui mừng và hy vọng nhận ra một hình thức của hiệp thông, cho
dù là chưa hoàn hảo.[73]
Hình thức hiệp
thông này đặc biệt tồn tại ở nơi các Giáo Hội Đông phương Chính Thống, là những
Giáo Hội tuy đã tách khỏi Tòa Thánh Phêrô, nhưng vẫn liên kết với Giáo Hội Công
Giáo bằng những mối dây rất chặt chẽ, chẳng hạn như là thể chế kế nhiệm tông
truyền và Bí tích Thánh Thể thành sự; thế nên, họ xứng đáng được mang danh hiệu
là Giáo Hội địa phương.[74]Thật vậy, "chính nhờ việc cử hành Bí
tích Thánh Thể của Chúa trong các Giáo Hội địa phương này mà Giáo Hội của Thiên
Chúa được xây đắp và lớn lên",[75] bởi
lẽ Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền thì thực sự hiện diện
trong mọi cuộc cử hành thành sự Bí tích Thánh Thể.[76]
Tuy nhiên, vì mối
hiệp thông với Giáo Hội phổ quát, mà người kế vị Thánh Phêrô làm hiện thân,
không phải là một bổ xung ngoại tại cho Giáo Hội địa phương, nhưng là một trong
số những cấu tố nội tại, cho nên hoàn cảnh thực tế của những cộng đồng kitô
đích thực này cũng làm cho họ phải mang cùng một vết thương như chính tình trạng Giáo Hội địa
phương của họ.
Vết thương này lại
còn sâu hơn nơi những cộng đồng giáo hội đã không duy trì thể chế kế nhiệm tông
truyền, cũng chẳng bảo toàn cho Bí tích Thánh Thể thành sự. Mặt khác, đối với
Giáo Hội Công Giáo, được Chúa mời gọi để trở nên "một đàn chiên duy nhất
và một mục tử duy nhất”[77]cho mọi người, thì sự kiện ấy cũng trở
thành một vết thương, vì nó gây cản trở cho việc thể hiện trọn vẹn tính chất phổ
quát của Giáo Hội ở giữa lòng lịch sử.
18. Tình cảnh này
đòi hỏi mọi người phải nỗ lực hoạt động cho đại kết để có được niềm hiệp thông
trọn vẹn trong mối hiệp nhất của Giáo Hội: mối hiệp nhất này "Đức Kitô đã
ban cho Giáo Hội của Ngài ngay từ buổi đầu. Chúng tôi tin rằng nó vẫn tồn tại
không mất mát ở trong Giáo Hội Công Giáo, và chúng tôi hy vọng rằng càng ngày
nó càng lớn lên cho đến hồi thế mạt".[78]
Trong cuộc dấn
thân cho đại kết như thế, việc cầu nguyện và sám hối, công tác học hỏi nghiên cứu,
đối thoại và hợp tác có một tầm quan trọng hàng đầu: bởi có thế mới mong rằng
nhờ biết quay trở về với Chúa, mọi người sẽ đạt tới chỗ nhìn nhận quyền tối cao
(địa vị hàng đầu = primat)
của Phêrô vẫn còn trường tồn nơi những người kế vị ngài, tức là các giám mục
Roma, cũng như nhận ra sự kiện này là tác vụ của Phêrô hằng được thể hiện đúng
như ý muốn của Chúa Kitô, tức là như một công tác phục vụ tông đồ phổ quát, có
mặt ở bên trong mọi Giáo Hội, và có thể biểu hiện
qua nhiều thể cách khác nhau, tùy theo thời gian và nơi chốn, như lịch sử hằng
chứng minh cho thấy, tuy vẫn giữ nguyên bản chất do chính Thiên Chúa thiết lập
của mình.
Kết Luận
19. Đức Trinh Nữ
Maria đầy diễm phúc là mẫu mực cho mối hiệp thông giáo hội trong đức tin, đức
ái và trong sự kết hiệp với Đức Kitô.[79]"Đời đời hiện diện trong mầu nhiệm Đức
Kitô",[80] Mẹ
ở giữa các Tông đồ, ở chính giữa tâm điểm của Giáo Hội sơ khai[81]và của Giáo Hội trong mọi thời đại. Thật vậy,
"Giáo Hội đã tụ họp nơi tầng trên (nhà Tiệc ly) cùng với Đức Maria, Mẹ
Chúa Giêsu, và với các anh em Ngài. Vì thế, không thể nói tới sự hiện diện của
Giáo Hội, nếu Đức Maria, Mẹ của Chúa, không có mặt cùng với các anh em của
Ngài".[82]
Để kết thúc Bức Thư này, Bộ Giáo Lý Đức Tin xin mượn lại
những lời cuối trong Hiến Chế Lumen
Gentium[83]để mời gọi toàn thể các giám mục và qua
các ngài, mời gọi toàn thể các tín hữu, đặc biệt là các thần học gia, hãy phó
thác những cố gắng xây dựng hiệp thông và suy tư thần học của mình về hiệp
thông vào trong bàn tay chuyển cầu của Đức Trinh Nữ đầy diễm phúc.
Trong một buổi tiếp
kiến Đức Hồng Y Bộ Trưởng ký tên dưới đây, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã chuẩn
nhận và ra lệnh công bố Lá Thư được Bộ Giáo Lý Đức Tin biểu quyết qua một cuộc
họp thường kỳ trước đó.
Làm tại Roma, nơi
trụ sở của Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 28 tháng 5 năm 1992.
Hồng Y Joseph RATZINGER
Bộ Trưởng
+ Alberto BOVONE
Tổng Giám mục hiệu
tòa Cesarea Numiđia
[NCS và NTM phiên dịch, HTTH SỐ 5, NĂM THỨ HAI
(1992)]
[1] Xem Hiến Chế tín lý Lumen Gentium (GH) 4,8,13-15,18,24-25;Dei Verbum
(MK), 10; Gaudium et
Spes (MV), 32; Sắc Lệnh Unitatis
Redin- tegratio (HN), 2-4,
14-15, 17-19, 22.
[2] X. Thượng Hội Đồng Giám Mục, 1985, Relatio
finalis II, C), 1.
[3] Phaolô VI, "Bài giảng khai mạc khóa II của công đồng Vaticanô
II," 29-9-1963: AAS 55(1963)848.
[4] Gioan-Phaolô II, "Bài nói chuyện với các Giám mục Hoa Kỳ",
16-9-1987, số 1.
[5] 1Ga 1,3: "Điều chúng tôi đã được nhìn thấy, và được nghe, chúng
tôi xin loan báo cho cả anh em nữa, để cả anh em cũng được hiệp thông với chúng
tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô, Con của
Ngài". Xem thêm 1Cr 1,9; Gioan-Phaolô II Thông điệp Christi fideles laici 30-12-1988; Thượng Hội Đồng Giám Mục
1985, Relatio finalis, II, C), 1.
[6] X. Pl 3,20-21; Cl 3, 1-4; GH, 48.
[7] 2Cr 5,6; Xem GH 1.
[8] X. ibid.7; Đức Piô XII, Thông Điệp Mystici Corporis, 29 (tháng 6,1943).
[9] Xem GH 11a
[10] Th.Xyprianô, Về
Kinh "Lạy Cha ”, 23: PL 4,553;
x.GH 4b
[11] X. GH 9c.
[12] X. 2Pr 1,4.
[13] X. 2Cr 1,7.
[14] X. Ep 4,13; Plm 6.
[15] X. Pl 2,1.
[16] X. GH 25-27.
[17] X. Mt. 28,19-20; Ga 17,21-23; Ep 1,10; GH 9b; 13; 17; TG 1e; Th.
Irênêô, Chống Lạc Giáo III,16,6 và 22,1-3: PG 7,925-926,
955-958.
[18] Th. Xyprianô, Epist.
ad Magnum, 6: PL 3,1142.
[19] Ep 4,4-5:"Chỉ có một thân thể, một Thần khí, cũng như anh em đã nhận
được ơn kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Đức Chúa, một niềm
tin, một phép rửa". X. Mk 16,16.
[20] GH 7b. Qua Bí tích Thánh Thể "Giáo Hội đạt tới mức thành tựu
trong thời gian" (Th. Augutinô, Contra
Faustum, 12,20: PL 42,265).
"Chúng ta thông phần vào Mình và Máu của Đức kitô ngõ hầu được biến hóa thành
chính thực tại ta đã nhận lấy" (Th. Leô Cả, Sermo 63,7: PL 54,357).
[21] X. GH 3 và 11a; Th. Gioan Kim khẩu, In
1Cor Hom.24,2:PG 61,200
[22] X. Denzinger-Sh. 19, 26-30
[23] X. 1Cr 12,25-27; Ep 1,22-23, 3,3-6.
[24] Cv 4,32
[25] X. Cv 2,42
[26] X. Rm 8,15-16, 26; Gl 4,6; GH 3.
[27] Th. Tôma, De
Veritate q.29 a.4c. Thật vậy,
"được nhắc lên thập giá và được vinh hiển, Chúa Giêsu đã tuôn đổ Thần Khí
Ngài hứa ban; nhờ Thần Khí ấy, Đức Giêsu kêu gọi và triệu tập dân của Tân Ước,
tức là Giáo Hội, vào trong niềm hiệp nhất của đức tin cậy mến", HN 2b.
[28] X. GH 49.
[29] X. Dt 7,25
[30] X. GH 50, 66
[31] X. Mt16,18; 1Cr 12,28.
[32] X. Cv 8,1; 11,22; 1Cr 1,2; 16,19; Gl 1,22; Kh 2,1,8
[33] X. Uy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Hiệp
Nhất và Khác Biệt trong Giáo Hội, 1989
[34] GH 23a; x. TG 20a
[35] GM 11a.
[36] GH 23b; x. Th. Hilariô Poitiers, In
Psalm. 14,3: PL 9,301; Th.
Grêgôriô Cả, Moralia IV,7,12: PL 75,6.
[37] X. Phaolô VI, Thông điệp Evangelii
Nuntiandi (8-12-1975), 64b
[38] GM 6c
[39] Gioan-Phaolô II, "Bài nói chuyện với Giáo Triều Roma",
20-12-1990, số 9
[40] GM 11a
[41] Gioan-Phaolô II, "Bài nói chuyện với các Giám mục Hoa Kỳ",
16-9-1987, số 3.
[42] X. Th. Clêmentê Roma, Epist.
II ad Cor., 4,2; Mục Tử Hermas, Thị Kiến 2,4: PG 2,897-900
[43] X. Cv 2,1tt. Th. Irêneô, Chống
Lạc Giáo III,17,2: PG 7,930:
"Ngày Ngũ Tuần... muôn dân... đã trở nên một ca đoàn lạ lùng hát dâng lên
Thiên Chúa một bài ca hợp tấu du dương ngợi khen, vì Thánh Thần đã quy tập các
bộ lạc ly khai vào trong hiệp nhất, và biến hóa sự khác biệt của muôn dân thành
quả đầu mùa dâng lên Thiên Chúa Cha". X. Th. Fulgentius Ruspe, Sermo 8 in Pentecoste, 2-3: PL 65,743-744
[44] GH 23a:"...Giáo Hội Công Giáo duy nhất và độc nhất hiện hữu ở nơi
và từ các Giáo Hội địa phương". Giáo thuyết này tiếp tục khai triển những đã
được xác nhận trước đó, chẳng hạn như do Đức Piô XII, qua Thông điệp Mystici Corporis, AAS 35(1943) 211:"Giáo Hội Công Giáo
duy nhất khởi phát hiện hữu từ đó [các GH địa phương] và cũng bởi dó mà được cấu
thành".
[45] X. Gioan-Phaolô II, "Bài nói chuyện với Giáo triều Roma",
20-12-90, số 9.
[46] X. Gl 3,28
[47] Xem Bộ Giáo Luật, đ. 107 chẳng hạn
[48] Th. Gioan Kim Khẩu, In
Ioann. Hom.,65,1: PG 59,361:
"Người ở Roma cũng biết người ở Ấn độ là chi thể của mình". X. GH 13b
[49] X. GH 26a; Th. Augutinô, In
Ioann. Ev. Tract., 26,13: PL
35,1612-1613
[50] X. GH 18b; 22a; x. Th. Xyprianô, De
Unitate Ecclesiae, 5: PL
4,516-517; Th. Augut., In
Ioann. Ev. Tract.,46,5: PL 35,1730
[51] Th. Ignaxiô Antiôkia, Epist.ad
Rom., lời mở đầu: PG 5,685; GH
13c.
[52] X. GH 22b
[53] Ibid. 23a. X. Hiến chế tín lý Pastor
Aeternus : DS 3051-3057; Th.
Xyprianô, De Unitate... 4: PL 4,512-515.
[54] X. GH 20; Th. Irênêô, Ad.Haer. III,3,12: PG 7,848-849; Th. Xyprianô, Epist. 27,1: PL 4,305-306; Th. Augutinô, Contra adv. legis et proph., 1,20,39: PL 42,626.
[55] X. GH 23a
[56] X. Ibid. 22b; 19
[57] Gioan-Phaolô II, "Bài nói chuyện..”. 20-12-1990, 9.
[58] Gioan-Phaolô II, "Bài nói chuyện..”. 16-9-1987, 16
[59] Pastor Aeternus3 ; GH 22b.
[60] Xem số 9 trên đây
[61] GH 26; Th. Ignaxiô Antiôkia, Epist.ad
Philadel., 4: PG 5,700; Epist. ad Smirn., 8: PG 5,713
[62] Sách Lễ Roma, Kinh Nguyện Thánh Thể III
[63] GH 8b.
[64] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung 27-9-1989, số 2.
[65] GH 23d
[66] Ibid. 13c.
[67] GM 8a
[68] Cl 3,14; Th. Tôma, Exposit.
in Symb. Apost., a. 9: "Giáo
Hội là một... do sự hiệp nhất của đức mến, vì tất cả đều được liên kết trong
tình thương của Thiên Chúa, và kết nối với nhau trong tình tương ái".
[69] Xem số 10 trên kia
[70] Xem số 15 trên kia
[71] GH 44d
[72] GH 15.
[73] HN 3a; 22; GH 13d
[74] HN 14; 15c
[75] Ibid., 15a.
[76] Xem các số 5 và 14 trên kia.
[77] Ga 10,16
[78] HN 4c
[79] GH 63, 68; Th. Ambrôxiô, Expos.
in Lucam 2,7: PL 15,1555; Th.
Isaac Stella, Sermo 27: PL 194,1778-1779; Rupert Deutz, De Vict. Verbi Dei, 12,1: PL 169,1464-1465
[80] Gioan-Phaolô II, Thông điệp Mẹ
của Đấng Cứu Thế19 (25-4-1987)
[81] Cv 1,14; Gioan-Phaolô II, Ibid.,26
[82] Th. Crômaxiô Aquilêia, Sermo 30,1: "Sources Chrétiennes"
164, 134. X. Phaolô VI, Thông điệp Marialis
Cultus 28 (2-2-1974).
[83] GH 69