Khoa học và đức tin
Một số ngành học hỏi trong kiến thức
loài người, như: thiên văn học, địa chất học, sinh vật học, vật lý học, hóa học,
v.v...là những bộ môn khoa học chỉ mới thành hình gần đây.
Và chúng có phát
triển mạnh, chính là nhờ ở sự việc con người đã biết cách dựa theo khảo nghiệm
mà nghiên cứu, tức là biết cách dùng phương pháp thí nghiệm. Cho đến thế kỷ 16,
kiến thức của loài người về vũ trụ còn thuộc loại hiểu biết chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm hơn là căn cứ vào công trình khảo nghiệm khoa học. Bên Tây phương,
các người làm khoa học --các nhà nghiên cứu khoa học-- thường xuất thân từ giới
tu hành, hoặc là từ giới những người kitô học thức. Đối với họ, không thể có
chuyện đối chọi, tương phản giữa khoa học và đức in, bởi vì, như thánh Âugutinô
nhận định, dù là qua công trình tạo dựng hay là qua mạc khải cứu độ, thì cũng
chỉ cùng một Thiên Chúa duy nhất ngỏ lời với chúng ta mà thôi.
Nhưng rồi với đà
tiến phát các khoa học, những xung khắc, đối nghịch cũng đã bùng lên. Từng có một
thời, các phát minh khoa học đã xem ra như không thể tương hợp nổi với một vài
điểm giáo thuyết được Giáo Hội xác định. Các học thuyết hiện đại liên quan đến nguồn
gốc vũ trụ, đến sự sống, đến con người, thường được đưa ra nhiều nhất để làm vấn
nạn chống lại tín điều về công cuộc tạo dựng.
Thế nên, nếu căn cứ
trên những hiểu biết khoa học ngày nay và dựa theo lập trường chính thức của
Giáo Hội mà hiệu chỉnh mối tương quan giữa khoa học và đức tin lại cho đúng,
thì xét cho cùng, đó không phải là việc làm luống công vô ích. Thực vậy, đối với
những ai biết ý thức rõ về lãnh vực hoạt động riêng của mỗi phía, thì cuộc đối
đầu giữa khoa học và đức tin chỉ là một cuộc đối đầu "giả", không có
nền tảng thực sự, chỉ do hiểu lầm gây ra, và sẽ biến tan hẳn đi. Sau đây xin
ghi lại một số những dữ liệu xét thấy là cần cho công tác hiệu chỉnh vừa nói.
I. TRI THỨC KHOA HỌC
VÀ TRI THỨC ĐỨC TIN
1. Tri thức khoa học.
Từ khoa học bao hàm một lãnh vực rộng lớn của tri
thức con người, trải dài từ các khoa toán học trừu nhất cho tới các ngành khoa
học nhân văn (như tâm lý học, xã hội học, v.v...). Ở đây, xin được giới hạn ý
nghĩa của từ ấy lại, để chỉ bàn đến các khoa học thiên nhiên: tức là các khoa
nghiên cứu về vật chất và sự sống; bởi vì, trong hai phạm vi ấy, đối tượng
nghiên cứu là những vật thể cụ thể, được xác định rõ ràng, và có thể thí nghiệm
được.
Chính thế, nhà
khoa học chọn đối tượng mình muốn nghiên cứu, rồi vạch rõ giới
mức cho nó, xác định và nghiên cứu nó theo một phương diện riêng (chẳng hạn như
nghiên cứu về các thành tố hóa học cấu tạo nên một loại thể nhiễm sắc nào đó của
loài chuột, hay là về cách thức nhiễu xạ của tia X khi chạm vào mặt tinh thể của
một thứ kim loại nào đó). Nhưng, dù là nhà hóa học hay là nhà vật lý, thì phương pháp dùng đến cũng vẫn là một: tức là phương
pháp thí nghiệm. Nhà nghiên cứu khoa học phải đi từ một sự kiện, từ một hiện tượng
tự nhiên, có thể làm cho xảy ra lại được; dĩ nhiên, điều đó đòi phải tiến hành
nhiều đợt thí nghiệm khác nhau, được làm trong những điều kiện hoàn toàn giống
nhau, hoặc là trong những điều kiện mà một chỉ yếu tố duy nhất nào đó thay đổi
theo một quy trình có hệ thống nhất định. Từ đó, nhà khoa học truy cứu cho ra
các cơ chế, và nếu có thể thì tìm cách đi tới chỗ phát hiện những định luật chi
phối các cơ chế ấy nữa. Từ một kết luận tạm thời, nhà khoa học suy đoán ra những
hậu quả mà một khi đã được các cuộc thí nghiệm xác minh, thì sẽ trở thành những
bằng chứng xác nhận cho giả thuyết người khảo cứu đã đưa ra. Nhà khoa học chỉ
tin vào những gì được suy diễn một cách chặt chẽ, từ những thành quả không chối
cãi được của các cuộc thí nghiệm. Đối với nhà nghiên cứu khoa học, xác thực là những gì đã trở thành hiển nhiên
qua chứng nghiệm. Xác
thực tính (certitude) hiển
nhiên ấy làm nền tảng cho niềm
xác quyết của nhà khoa học.
2. Tri thức đức
tin.
Do bởi chính bản chất của nó, đức tin nằm ở một bình diện
khác hẳn so với khoa học. Đức tin không dựa trên cơ sở xác minh của thí nghiệm
theo kiểu khoa học, không phát nguyên từ những tư biện lý tính, và cũng không
phải là một chuỗi luận đề giản lược đọc thấy trong Kinh Tin Kính. Đức tin, trước
tiên, là thái độ gắn bó đối với Một Đấng, là tâm tình phó thác vào trong tay Kẻ
Kia, là cuộc dấn thân của chính cá nhân mình cho Ngài.
Đối tượng của đức tin chính là Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải mình ra. Người biết
mở lòng ra để tin, thì sẽ đón nhận được sứ điệp của Ngài, với niềm hy vọng là
trong sứ điệp ấy, mình sẽ tìm gặp được ý
nghĩa cho đời của mình. Nếu biết dấn
bước vào trong con đường Ngài vạch cho, nếu biết sống kinh nghiệm đức tin, thì
lúc đó, người có lòng tin sẽ xác tín cảm nghiệm được là mình đang sống trong
chân lý.
Từ đâu mà có được
niềm xác tín thâm sâu ấy? Từ uy tín của Đấng mạc khải. Chính Thiên Chúa đã
nói với con người những gì con người tin. Đó chính là một thể dạng của xác thực
tính, nhưng là thuộc một loại khác với xác thực tính khoa học; cả hai loại đều
đặt nền móng trên những kinh
nghiệm, nhưng những kinh nghiệm
này cũng thuộc những thể loại khác nhau.
Bởi lẽ đối tượng của
đức tin là chính Thiên Chúa, và vì Thiên Chúa vô biên vô tận không sao trí tuệ con
người hiểu cho đầy đủ được, thế nên, người tin phải biết chấp nhận đặt trọn niềm
tín thác vào trong tay một Đấng thiêng liêng vô hình, không tỏ hiện hiển nhiên
ra bên ngoài theo cách thức của một thực tại hữu hình, nhìn thấy được, sờ mó được,
nắm lấy được. Tuy nhiên, nếu được đón nhận và sống thật, thì đáp lại, đức tin sẽ
soi sáng cho trí tuệ người tin: điều đó tất đòi phải có kinh nghiệm về đời sống
kitô đích thực.
3. Vậy thì, theo
cách thức đặc thù của mình, cả khoa học lẫn đức tin đều mang lại cho con người
một loại tri thức nào đó. Hai loại hiểu biết này khác nhau về đối tượng (tức là
về nội dung, về lãnh vực) cũng như về nguồn gốc.
Theo một cách nói
thông dụng, thì khoa học lo nghiên cứu về các hiện tượng (vật lý, hóa học, sinh
học, v.v...) để cố trả lời cho nghi vấn thế
nào về các sự vật; khoa học
không thể có ý kiến về ý nghĩa của các sự vật. Đức tin có một đối tượng khác hẳn:
đức tin lo tìm hiểu về Thiên Chúa và về những gì Ngài nói với con người nhằm
giúp con người đạt tới được tiêu đích của đời mình. Đức tin vén mở cho thấy ý nghĩa của các sự vật;
khoa học không làm được như thế. Vì lãnh vực của khoa học thuộc phạm vi của thế nào, chứ không phải của tại sao, tức là thuộc phạm vi của cơ chế các hiện
tượng, chứ không thuộc phạm vi của ý nghĩa chúng hàm súc.
Nếu đã rõ là hai
loại hiểu biết ấy nằm ở hai bình diện khác nhau, thế tất cũng sẽ hiểu là không
thể có chuyện những gì khoa học minh xác lại đụng đầu đối nghịch với những gì đức
tin khẳng định, và ngược lại.
Phần trình bày dưới
đây sẽ có dịp bàn thêm về điểm phân biệt cơ bản vừa nói. Ngày nay, điểm phân biệt
ấy đã trở thành hiển nhiên, nhưng không phải là đã luôn luôn như vậy trong quá
khứ, như sẽ thấy trong các phần kế tiếp của bài viết.
II. MỘT VẤN ĐỀ GIẢ...
GIẢI QUYẾT LÒNG THÒNG
Cho đến thế kỷ 16,
và ngay cả trong thế kỷ 17, không ai nghi ngờ gì về tính chất lịch sử của các
trình thuật Kinh Thánh. Lụt đại hồng thủy và tàu ông Nôe, Đanien trong hang sư
tử, Giona trong bụng cá voi: tất cả những biến cố ấy đã được coi như là những sự
kiện lịch sử không khác gì công tác Salômon xây cất Đền thờ Giêrusalem, hay là
cuộc Giuđa Máccabê nổi dậy. Thời trước, mọi người đều nghĩ rằng công cuộc tạo dựng
đã thực sự diễn ra trong sáu ngày: có ai đã có thể nghĩ khác? và có ai đã dám
nói ngược lại?
Cuộc đụng độ quan
trọng đầu tiên giữa các dữ kiện khoa học và các khoản khẳng định của đức tin --
hay nói cho đúng hơn: và những gì các nhà thần học thời đó căn cứ vào lối giải
thích theo nghĩa đen mà rút ra từ các trình thuật trong Kinh Thánh, rồi được
coi như là một thành phần của kho tàng đức tin -- đã xảy ra nhân cái mà người
ta thường gọi là vụ án
Galilêô.
1. Vụ án Galilêô.
Cho đến thế kỷ 14,
để nghiên cứu về cách vận hành của các ngôi sao, người ta dùng đến hệ thống
Ptôlêmêô (sống vào thế kỷ thứ hai trước kỷ nguyên kitô). Theo Ptôlêmêô, quả đất
nằm bất động ở giữa vũ trụ; còn các ngôi sao thì luân chuyển vận hành theo những
hình cầu đồng quy; rồi các hành tinh thì lại vận hành theo cách vạch ra những vòng
tròn có tâm di động trên đường tròn (épicycles).
Đó là một dạng thể cải biến của chủ thuyết Aristốt coi quả đất là trung tâm
vũ trụ.
Copernic (1543) đã
đề xuất một hệ thống đơn giản hơn và có khả năng giúp cho việc làm các phép
tính được dễ dàng hơn. Nhà thiên văn này đặt mặt trời ở tâm điểm của vũ trụ, và
cho trái đất quay chung quanh mặt trời. Dựa trên các kết quả quan sát do chính
ông tiến hành, Galilêô xác minh chủ thuyết của Copernic coi mặt trời là trung
tâm vũ trụ. Năm 1610, Galilêô nhận định rằng: "Theo khoa học mà nói, thì
ít nhất hệ thống Copernic cũng có giá trị để có thể chấp nhận được, không kém
thua gì hệ thống Ptolêmêô”.
2. Xung đột.
Ngay sau đó, vụ
xung đột với các thần học gia Rôma đã bùng nổ. Các thần học gia này đã trưng
các đoạn Kinh Thánh Cựu Ước ra để phản đối chống lại Galilêô; vì theo các đoạn
đó, thì quả đất nằm bất động, còn mặt trời lại mọc lên và lặn xuống. Khi ông
Giôsua ra lệnh: "Mặt trời, dừng lại!" thì lập tức mặt trời đã dừng lại
trên Gabaôn: "Mặt trời đã đứng yên giữa thanh không, và gần một ngày trọn
đã không vội lặn đi”. (Giôsua, 10, 12-14). Thánh vịnh 104 (câu 5) đã chẳng nói
rằng: "Chúa dựng địa cầu trên nền vững, không chuyển lay muôn thuở muôn đời"
đó sao? Mà hết thảy các Giáo phụ đều đã hiểu các đoạn Kinh Thánh ấy theo nghĩa
đen.
Như thế, nguồn gốc
xuất phát vụ xung đột chính là việc giải thích Kinh Thánh theo nghĩa đen. Người
ta quả quyết rằng "không thể cắt nghĩa Kinh Thánh theo một cách thức khác
với cung cách chú giải của các Giáo phụ Hy lạp và Latinh”. Đứng lên bào chữa
cho lập trường của mình, Galilêô nói rằng: "Trong lãnh vực các ngành khoa
học tự nhiên, thì Kinh Thánh không thắng thế hơn khoa học”. Đúng, như tiến
trình lịch sử sẽ cho thấy, nhưng ý tưởng ấy đến quá sớm để có thể được chấp nhận.
Năm 1633, Galilêô bị lên án, bị nghi là rối đạo "vì đã chủ trương cùng tin
vào một chủ thuyết sai lạc và trái ngược với Kinh Thánh”.
Các thần học gia
thời ấy đã quan niệm sai. Nhưng làm sao họ có thể lý luận cách khác được? Các
nhà chú giải lúc đó chưa phân biệt rõ được nội
dung chủ yếu tôn giáo của sứ
điệp Kinh Thánh, với hình
thức diễn đạt nội dung ấy:
các tác giả thánh (viết Kinh Thánh) đã không thể dùng một thứ ngôn ngữ khác với
ngôn ngữ của thời đại mình; họ đã dùng đến những ý tưởng, những hình ảnh, và những
kiến thức khoa học của thời họ. Cũng cần lưu ý là Thánh Linh đã không hề có ý
dùng Kinh Thánh để dạy cho chúng ta những bài học về thiên văn: Galilêô cũng đã
phát biểu như thế.
Là điều hiển nhiên
đối với chúng ta ngày nay, cách thức phân biệt như thế giữa lõi cốt tôn giáo, sứ
điệp linh ứng về các chân lý cứu độ một bên, và bên kia là vỏ bọc ngoài, cách
thức diễn đạt hằng chịu điều kiện hạn chế của văn hóa thời đại, đã phải chờ đợi
lâu dài mới được Giáo Hội chính thức công bố thừa nhận.
3. Các thể loại
văn học (genres littéraires).
Đề cương của các
cách thức giải đáp mà sau này sẽ được đưa ra cho vấn đề cắt nghĩa Kinh Thánh,
đã thấp thoáng hiện lên trong Thông điệp Providentissimus
Deus (Thiên Chúa rất quan phòng) của Đức Lêô XIII (18.11.1893). Đó là văn
kiện đầu tiên đề cập sâu rộng đến các vấn đề đặt ra từ phía công tác chú giải
và đà tiến phát trong các ngành khoa học đời. "Nếu hai bên đều biết dừng lại
ở trong giới hạn lãnh vực của mình, thì giữa nhà thần học và nhà bác học sẽ
không có một mối bất đồng nào cả”. Đức Lêô XIII nhận định tiếp: "Khi mô tả
các sự việc (...), các tác giả viết Kinh Thánh thường dùng đến hoặc là lối văn
tượng hình, hoặc là cách nói thông thường của thời mình”.
Nửa thế kỷ sau,
nhân dịp kỷ niệm 50 năm thông điệp Provi-dentissimus
Deus, Đức Piô XII cũng đã ban bố một
thông điệp dành riêng để bàn về các công tác nghiên cứu Kinh Thánh; đó là thông
điệp Divino Afflante
Spiritu (Theo Xuy Hướng Thánh
Linh: 30.09.1943). Thông điệp nhận định rằng không phải là tất cả các sách
trong Kinh Thánh đều thuộc cùng một thể loại văn học. Đọc Kinh Thánh, thì sẽ gặp:
những bài thơ (như các Thánh vịnh), những cuốn sách viết về sử (hiểu theo khái
niệm lịch sử ngày nay, như sách Ký sự, sách các Vua, sách Macabê), những tư tưởng
các bậc hiền nhân (như sách Khôn ngoan, sách Cách ngôn), những câu truyện xây dựng
(như các sách Tobia, Giuđích, Esther), những lời tiên tri, và nhiều sách thuộc
các thể loại văn học khác nữa, như sách Khải huyền chẳng hạn. Đức Piô XII nói rằng
Kinh Thánh có thể được hiểu theo văn tự, tức là theo nghĩa đen, hoặc là theo
tinh thần hay là theo nghĩa thiêng liêng. Muốn hiểu văn bản cho đúng theo nghĩa
đen, thì cần phải xác định thể loại văn học của nó, và phải hiểu biết về cách
thức biểu đạt của các tác giả; vì có hiểu đúng, thì mới mong giải thích các văn
bản cho chính xác được.
Đó là một công tác
khó khăn, bởi vì các văn bản Kinh Thánh, cho dù là trong cùng một cuốn hay
chương sách, không phải đơn thuần là tác phẩm của một tác giả duy nhất. Các tác
giả biên soạn Kinh Thánh đã dùng đến nhiều văn bản cổ xưa hơn, thuộc nhiều thời
đại khác nhau, và thuật lại cùng một biến cố. Do đó mà có những đoạn lặp lại,
những đoạn song trùng, những dị bản. Các chương đầu trong sách Sáng thế cho thấy
rất rõ về sự kiện ấy: trình thuật trong các chương này khi thì gọi Thiên Chúa bằng
danh xưng Giavê, khi thì gọi bằng Êlôim, tùy các nguồn liệu khác nhau được dùng đến.
Trả lời cho các
câu hỏi đức hồng y Suhard nêu lên liên quan đến những khó khăn vừa nói trên
đây, linh mục Vosté, thư ký của Ủy ban Kinh Thánh, đã viết ngày 16 tháng Giêng,
1948, rằng: "Vấn đề đặt ra liên quan đến các hình thức văn học của 11
chương đầu trong sách Sáng thế, còn mờ tối và phức tạp hơn nhiều. Các hình thức
văn học ấy không tương ứng với bất cứ loại phạm trù cổ điển nào của chúng ta cả
(...). Chúng dùng một thứ ngôn ngữ đơn giản và tượng hình, thích hợp đối với tầm
hiểu biết của loài người còn ở trong mức độ kém mở mang, mà trình bày những
chân lý cơ bản làm điều kiện tiên quyết cho kế hoạch cứu độ, và cùng một trật, trình
thuật theo cách kiểu bình dân, về nguồn gốc của loài người cũng như của dân
Chúa chọn”.
Việc xác định có
tính cách hiệu chỉnh ấy đã cho phép giải quyết một cách dứt khoát, những khó
khăn gặp phải trong công tác chú giải Kinh Thánh, như đã bàn tới ở trên kia.
Galilêô có lần đã phát biểu rằng: "Thánh Linh không có ý nói với chúng ta
về cách thức bầu trời vận hành, nhưng về cách thức phải làm thế nào để lên trời
(lên thiên đàng)”. Kinh Thánh, Cựu cũng như Tân Ước, không phải là một bộ sách
giáo khoa về các khoa học tự nhiên. Đối tượng của Kinh Thánh là các chân lý thiết
yếu đối với ơn cứu độ của chúng ta. Các tác giả được linh ứng đã thông dịch sứ
điệp của Thiên Chúa ra trong ngôn ngữ (và khoa học) thời họ: đó là việc tất yếu
phải làm, nếu muốn cho người cùng thời hiểu mình.
Khoa học và đức
tin: hai lãnh vực khác hẳn nhau, hai đối tượng nhận thức khác hẳn nhau. Khoa học
không thể nhận định gì được về các chân lý đức tin; đức tin không thể phát biểu
ngược lại với các chân lý khoa học. Cách thức phân biệt ấy sẽ giúp giải quyết một
số những khó khăn gặp thấy gần đây, khi đề cập đến các vấn đề về nguồn gốc và
những bước khởi đầu của vũ trụ.
III. NGUỒN GỐC VŨ
TRỤ.
1. Những gì khoa học
nói.
Nếu dùng một mẫu
lăng kính để phân tích ánh sáng do một ngôi sao phóng ra, thì sẽ thấy các vạch quang của ánh sáng ấy xê xích hẳn về phía vạch
đỏ, so với các vạch quang có được từ một nguồn sáng trên mặt đất. Hiện tượng xê
xích ấy được giải thích bởi sự việc ngôi sao di chuyển so với quả đất. Nhiều cuộc
thí nghiệm tiến hành trong các năm từ 1920 đến 1930 đã đưa đến kết luận nói rằng
tất cả các thiên hà (những đám gồm nhiều tỷ ngôi sao) đều tiến xa ra khỏi phía quả
đất theo tốc độ tỷ lệ thuận với quãng cách của chúng đối với hành tinh của
chúng ta. Thế nên, có một giả thuyết cho rằng vũ trụ hiện còn đang bành trướng
ra, như một quả bóng cao su đang được thổi căng phồng lên. Từ đó, giả thuyết ấy
đã được nhiều phía xác nhận, đến độ chung chung mà nói thì đó là giả thuyết hiện
đang được hầu hết mọi người chấp nhận.
Thử đi ngược lại
dòng thời gian, thì chúng ta thấy vũ trụ co rút lại (quả bóng xẹp hơi đi). Vật
chất như phân phối hiện nay ở trong vũ trụ, đã một thời ở trong trạng thái cô kẹo
lại giống một hòn cầu vĩ đại, và hòn cầu này đã nổ tung ra vào một quãng thời
gian có thể tính ra được: vụ nổ này, hiện tượng Big Bang ấy đã xảy ra cách đây 15 tỷ năm. Đó là
thuyếtnguyên tử nguyên thủy do
Lemaỵtre và Eddington (1927) chủ xướng.
Từ 30 năm nay,
ngành vật lý học về hạt cơ bản (particules élémentaires) đã tiến những bước rất lớn. Khoảng năm
1932, người ta đã nghĩ rằng vật chất chỉ được đơn thuần cấu thành bởi proton,
neutron cùng bởi hai loại electron dương và âm. Ngày nay, mới được biết là
không phải đơn giản như thế, mà là phức tạp cầu kỳ hơn nhiều. Phía làm các phép
tính cũng như phía thí nghiệm, cả hai phía đều vén mở cho thấy nhiều loại hạt mới
(như hạt mezon, và gần đây còn thêm hạt quark nữa) với những điều kiện sinh tồn
như thế này: trên một mức nhiệt độ nào đó, thì các loại hạt này sẽ bị hủy hoại
đi.
Khi vật chất cô kẹo
lại, thì nhiệt độ của nó tăng lên; chính vì thế mà hòn cầu nguyên thủy đã có một
mức nhiệt độ cao tới 12 tỷ độ, tức là cao đến độ không một tiểu thể (corpuscule) nào khoa học biết được, có thể hiện hữu
trong trạng thái các loại hạt được: hòn cầu ấy là một hòn năng lượng (énergie), một hòn bức xạ
điện từ (rayonnement
électro-magnétique); không bao lâu sau vụ nổ tung, năng lượng ấy đã tụ
đọng lại trong thể trạng các loại hạt. Các nhà bác học đã làm phép tính để tính
cho biết những gì đã xảy ra trong những giây đồng hồ đầu tiên của vũ trụ, tiếp ngay
sau Big Bang.
Từ đó, vật chất đã
lan tràn ra trong khắp vũ trụ, và tụ đọng thành mây cấu thành chủ yếu bởi hai
loại khí hyđro và heli. Rồi sau đó, các đám mây này tụ đọng lại và nóng dần
lên: thế là các nguyên tử cỡ nặng hơn đã thành hình, với tổng số chỉ độ 100 đơn
vị. Ngay giờ phút này, vũ trụ cũng vẫn còn đang ở trong giai đoạn hình thành.
Quả đất già của chúng ta có 5 tỷ rưỡi tuổi; còn các tinh tú khác, thì già hơn
cũng có, mà trẻ hơn cũng không thiếu, bởi vì có những tinh tú vẫn còn đợi đến
ngày mai mới sinh ra...
Mười lăm tỷ năm...
Vụ Big Bang có phải là buổi khởi đầu đầu tiên không? Có một điều khó mà xác định
được, cũng đã nổ tung ra thành những câu hỏi lớn: khối năng lượng nguyên thủy
kia từ đâu mà đến? Trước vụ nổ, nó có hiện hữu trong một trạng thái khác hay
không? Không ai biết gì về những điều ấy cả!
2. Những gì đức
tin nói.
Nội dung của đức
tin gồm hàm những gì Thiên Chúa đã mạc khải cho loài người chúng ta; Kinh Thánh
Cựu và Tân Ước là những văn kiện viết của nội dung mạc khải ấy. Thêm vào đó,
còn có Truyền Thống: Truyền Thống chuyển đạt lại cho các thế hệ loài người giáo
huấn của Đức Giêsu. Giáo Hội có sứ mạng gìn giữ kho tàng mạc khải, và đảm bảo cho
tính chất chính thống của kho tàng ấy. Vì thế, mới có các khoản tuyên bố của Huấn
quyền, đặc biệt là của các Công đồng. Tuy nhiên, như đã lưu ý trên kia, giáo huấn
ấy không bàn đến khoa học: vật lý học cũng không, mà thiên văn học cũng
không...
Kinh Tin Kính bàn
về những gì? Tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo thành trời và đất, vũ trụ
hữu hình và vô hình: nghĩa là tất cả những gì hiện hữu. Các Công đồng Nixê
(325), Conxtăntinốp (381) đã không khẳng định gì khác ngoài những điều ấy: tất
cả những gì hiện hữu đều là công trình Thiên Chúa làm nên; Ngài không ra tay,
thì không có chi hiện hữu được cả.
Thần học cho biết
thế này: được tạo dựng, làm tạo vật có nghĩa là phụ thuộc vào Thiên Chúa, phụ
thuộc từ trong bản thể cho đến trong cuộc hiện hữu cũng như trong đà tiến phát.
Tạo dựng là thiết đặt mối quan hệ phụ thuộc bẩm sinh của tạo vật đối với Đấng Tạo
Hóa. Với đất sét sẵn có, không do ông tạo dựng nên, người thợ gốm nắn nên một
chiếc bình; sau đó, chiếc bình tiếp tục hiện hữu mà không cần chi đến ông thợ gốm.
Ngược lại, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ không không (ex nihilo), đặt vũ trụ vào trong tình trạng hiện hữu,
và tiếp tục gìn giữ vũ trụ lại trong tình trạng ấy. Làm thế nào từ không không,
Thiên Chúa đã có thể làm nên vạn vật và làm cho chúng tiếp tục hiện hữu? Điều
đó vượt quá tầm hiểu biết và óc tưởng tượng của con người. Đó là mầu nhiệm về
quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Nếu con người thấu hiểu được, thì mầu nhiệm ấy
đâu còn phải là đối tượng của đức tin!, thì chẳng khác gì cho rằng trí óc con
người có một tầm hiểu biết vô biên!
Kiểu nói giờ phút tạo dựng, lúc tạo dựng là vô nghĩa, vì trước khi tạo dựng, thì chưa có thời gian, bởi lẽ đã không có
gì làm mốc để đo để tính, để có khái niệm về thời gian được cả. Hành động tạo dựng
là đời đời, như chính Thiên Chúa vậy, cho dù đối với chúng ta, vạn vật chỉ xuất
hiện ở trong thời gian.
IV. NGUỒN GỐC SỰ SỐNG.
1. Đối với khoa học.
Sự sống đã bắt đầu
trên trái này đất từ lúc
nào ? Khoa học trả lời cho
câu hỏi đó một cách rất rõ ràng: 3 tỷ năm về trước, đã có những dấu vết của sự
sống (kỹ thuật phân tích đồng vị đã cho phép kết luận rằng tuổi của các lớp đọng
chất lưu huỳnh hay chất sắt từ gốc vi khuẩn, lên đến lối 2 tỷ 8 năm).
Các động vật đầu
tiên đã xuất hiện như thế
nào ? Trả lời cho câu hỏi thứ
hai này, khoa học chỉ mới đưa ra được những giả thuyết, như xin được trình bày sơ lược sau đây.
- Bầu khí quyển
nguyên thủy của trái đất đã chứa những loại khí như khí hyđro, khí metan, khí
amoniac, khí cacbonic (hay đioxit cacbon). Dưới ảnh hưởng tác động của các đợt
phóng điện (như sấm chớp giông tố) và của các tia cực tím từ mặt trời, các loại
khí ấy hòa lẫn với nhau để làm thành những phân tử lớn hơn và phức tạp hơn,
như: aminoaxit, đường, bazơ của các axit nucleic, v.v... Các phân tử này hòa tan
vào trong các thứ nước nguyên thủy (biển, hồ, phá). Cô đậm lại do hiện tượng
bay hơi, các phân tử này làm thành cái mà Haldane gọi là cháo nóng nguyên thủy (la soupe chaude primitive). Và như thế là hội đủ tất cả mọi yếu tố cần
thiết để làm thành một tế bào sống.
- Giai đoạn thứ
hai thì tế nhị hơn. Làm thế nào để giải thích bước quá độ từ các phân tử không đóng bao (en vrac) tiến đến mức thành hình của một tế bào
có màng và có tích chứa các loại chất xúc tác đặc thù (các enzim) cần cho sự
chuyển hóa của nó, các axit nucleic (các gien) để nó có thể sinh sản ra,
v.v...? Đến đây, khoa học phải chịu thú nhận là mình còn chưa thông đủ, chưa hiểu
biết đủ, để không nói là còn dốt nát. Có rất nhiều giả thuyết khéo léo tài tình
đã được đề xuất để cố giải thích việc cấu thành trước tiên là một vi cầu (microsphère), rồi đến một tề bào; vật chất đã mò mẫm rất
lâu. Cả một chuỗi dài những ngẫu
nghiên may mắn đã được động
viên, đã được viện dẫn ra để đến tiếp tay cho cố gắng giải thích việc cấu thành
những protein đầu tiên có khả năng phát động tác dụng xúc tác, hay là việc cấu
thành các axit nucleic đầu tiên. Hiện tượng chọn lọc tự nhiên cũng được viện dẫn
để loại bỏ các giọt nhỏ (micro-gouttes) không có khả năng tự nuôi sống và sinh
sản... Dù đã làm rất nhiều cuộc thử nghiệm để khảo sát tìm tòi, khoa học cũng vẫn
chưa hiểu được cách thức cấu thành của các tế bào đầu tiên, có khả năng rút ra
thức ăn từ môi sinh của mình, cũng như thực hiện những tác dụng tổng hợp cần
cho cuộc sinh tồn và việc sinh sản của mình.
Trong tiến trình
nghiên cứu ấy, các nhà hóa sinh học thường ngầm hiểu rằng sinh vật là không gì
khác ngoài vật chất được trang bị thêm một cấu trúc phức tạp hơn. Họ cho rằng
các đặc tính của sinh vật (đồng hóa thức ăn, lớn lên, sinh sản) chỉ là do cách
cấu tạo, do lối kiến trúc phức tạp cao độ của các phân tử hữu cơ (Aristốt gọi cấu
trúc ấy là hình thái,
morphé). Họ phủ nhận thuyết sức sống (vitalisme), tức là học thuyết lấy nguyên lý sự sống (principe
vital) để giải thích các đặc tính
của sinh vật.
Nếu biết dù là với
mức kiến thức thô thiển bao nhiêu đi nữa, về cấu trúc phức tạp lạ lùng của một tế
bào thường nhất, thì không ai lại không tự hỏi làm thế nào đà tiến hóa của vật
chất trơ ì lại đã có thể đạt đến thành quả ấy được. Có người cho rằng mang tính
chất rất là vị tất
(improbable), sinh vật chỉ là hoa
trái thu lượm được từ một chuỗi liên tục của không biết bao nhiêu dọ dẫm diễn ra
một cách may rủi suốt hàng triệu năm. Có người khác lại
xác tín rằng sự sống không phải là một cái gì vị tất, may rủi, không chắc chắn;
vật chất hằng mang sẵn trong mình khả năng tự cấu tạo và biến hóa thành những
sinh vật. Chỉ cần có những điều kiện thuận tiện là sự sống xuất hiện.
2. Đối với đức
tin.
Tưởng cũng cần lưu
ý lại rằng việc nghiên cứu về cách
thức tiến phát đi từ vật chất
hướng tới sự sống, là việc làm hoàn toàn nằm ngoài lãnh vực của đức tin. Đối với
các tín hữu, Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa hằng không ngừng làm cho mọi sự vật hiện
hữu. Tuy nhiên, hành động tạo dựng sẽ được hiểu theo nhiều kiểu khác nhau tùy
cách quan niệm việc sự sống xuất hiện như là vị tất và may rủi, hay như là kết
quả tất yếu của các định luật lý hóa chi phối vật chất. Trong trường hợp đầu, Đấng
Tạo Hóa sẽ đóng vai người
làm chủ may rủi, để như là một
nguyên nhân phụ, can thiệp theo ý mình, vào trong việc đưa dẫn đà tiến hóa đi
theo con đường mình đã vạch. Trong trường hợp thứ hai, hoạt động của Thiên Chúa
mang một tầm cỡ sâu rộng hơn: là nguồn cội của hữu thể và thời gian, Đấng Tạo
Hóa không cần phải cải thiện đà tiến hóa đang vận hành đi từ trạng thái nguyên tử
cho đến giai đoạn con người thành hình. Hằng giây hằng phút, Ngài trao ban cho
mọi sự vật, khả năng hiện hữu và những đặc tính cá biệt của chúng, ngay cả khả
năng tiến hóa. Cách nhìn này phù hợp hơn với những gì niềm xác tín kitô hiểu về
Thiên Chúa, và về hành động sáng tạo mà Ngài đã có từ đời đời, nhưng đối với
chúng ta, thì vẫn còn đang diễn tiến ra trong thời gian.
Một nhận định cuối
cùng: chủ trương cho rằng sự sống chỉ do
may rủi mà có, là một điều vô
nghĩa, bởi vì may rủi tự nó không phải là một nguyên nhân tác thành. Quả quyết
nói rằng sự sống chỉ là kết quả của một chuỗi trùng hợp may rủi, không thể dự
kiến và vô định của những phân tử hòa tan trong các loại nước nguyên thủy, đúng
là một lời quả quyết không mấy nghiêm túc. Nếu có một chút hiểu biết về hóa học
của sinh vật, về những phản ứng phức tạp trong cơ thể sinh vật, về thứ tự diễn
tiến liên kết chúng lại với nhau, cũng như về những cơ chế điều tiết hướng dẫn chúng,
thì không thể nào mà không kinh ngạc, mà không thán phục đầu óc thông minh đã cấu tạo nên chúng. Trừ phi quyết
khăng khăng giữ vững lập trường vô thần tiên thiên, không ai lại không phải thốt
lên rằng: đúng là có bàn tay của Thiên Chúa ở trong đó! Một khi đã hiểu rằng
ngay từ đầu, công trình tạo dựng mang theo ở trong mình, toàn bộ nguồn phong
phú của tiến trình tiến phát mình sẽ theo đuổi về sau, thì cùng một trật, cũng
sẽ nhận ra ngay được tài trí cao siêu trổi vượt của Đấng đã làm nên công trình ấy.
V. NGUỒN GỐC LOÀI
NGƯỜI.
Nếu có một vấn đề
nào đã từng đặt khoa học và đức tin vào trong một thế đối đầu tương kồ gay cấn
nhất, thì đó chính là vấn đề nguồn gốc loài người. Chưa đầy 50 năm trước đây, đại
đa số các tín hữu đều nghĩ rằng con người đã được Thiên Chúa trực tiếp dựng nên,
đúng như những gì các trang mở đầu của Kinh Thánh trình thuật lại. Nhưng, kể từ
Darwin đến nay, quan niệm cho rằng con người xuất phát từ giới động vật, đã trở
thành ngày càng thịnh hành hơn. Các học thuyết về tiến hóa đã thay nhau ra mắt
để cố dựa theo những loạt biến hóa được chọn lọc một cách tự nhiên (selection naturelle) mà giải thích nguồn gốc loài người.
Thuyết sáng tạo (créationisme) và thuyết đột biến (mutationnisme) đã thẳng từng đối đầu chống chọi nhau.
Khoa học hiện đại
mường tượng như thế nào về sự kiện xuất hiện của những tổ tiên nguyên thủy loài
người? Xin thử trình bày tóm tắt về những gì khoa học phát biểu liên quan đến
việc xuất hiện ấy, để xem quan điểm của nhà khoa học có tương hợp với nội dung của
đức tin hay không.
1. Đã qua rồi cái
thời người ta quả quyết nói rằng con người là bởi khỉ mà ra. Ngày nay, thì được
biết là cả hai đều có cùng chung một ông tổ; nhưng, từ lúc nào hai dòng dõi đã
tách khỏi nhau ra từ một gốc chung ấy? Chưa có giải đáp nào chắc chắn để trả lời
cho câu hỏi này, vì các nhà chuyên môn chưa hoàn toàn đồng ý với nhau về cách
giải thích những nét tiêu biểu nơi các hài cốt hóa thạch phát hiện được; và hơn
nữa, trong một lãnh vực chưa có gì là ổn định như thế, mỗi phát hiện mới là một
dịp để xét lại, để thay đổi hoặc tu chỉnh các quan điểm thịnh hành, đến độ cứ mỗi
năm là có một cây phả hệ mới được đưa ra để sắp lại thứ bậc tiến phát của loài người
và của các giống loài khác có liên hệ gần với loài người.
Chẳng hạn, loại vượn
Rama (Ramapithèque) được biết chủ yếu là qua các mảnh hàm
tìm gặp được, có phải là ông tổ của họ đười ươi (Pongidés) hoặc là của họ người (Hominidés) hay không? Loại Rama ấy đã được tìm thấy
ở phía Đông Châu Phi, nhưng cũng còn gặp thấy tại Ấn độ và tại nhiều vùng khác
trong cựu đại lục (= Châu Á, Châu Âu và Châu Phi), nơi những vùng đất cổ xưa từ
15 đến 10 triệu năm trước đây. Khoảng năm 1970, các nhà cổ sinh vật học đã coi
loại vượn Rama là ông tổ của loài người, và đã đặt thời gian phân tách giữa hai
nhánh người và khỉ vào lối 13 triệu năm trước đây. Nhưng, một vài năm sau, nhiều
cuộc phân tích nghiên cứu khác đã đưa đến chỗ kết luận nói rằng loại vượn Rama
là ông tổ không phải của loài người, mà là của loài đười ươi (orang-outan)!
Mặt khác, các nhà
hóa sinh học đã tiến hành những cuộc thử nghiệm các thứ loại protein nơi các giống
sinh vật khác nhau, và cũng đã dựa theo kết quả của công trình khảo nghiệm ấy để
vẽ ra một cây phả hệ khác. Trong các năm từ 1970 đến 1980, họ đã nhận thấy rằng
các thứ loại protein nơi con người và nơi con tinh tinh (chimpanzé) giống nhau rất nhiều; các thứ loại
protein nơi con gorila cũng có những nét tương tự. Và như thế, các nhà hóa sinh
học đã đi đến kết luận cho rằng các nhánh loài người, loài tinh tinh và loài
gorila đã phân tách nhau ra từ một gốc chung, vào lối 7 triệu năm trước đây. Từ
năm 1980 trở đi, xem chừng như các nhà cổ sinh vật học cũng đã đồng ý với quan
điểm đó (xin xem tạp chí La
Recherche, tháng 5, 1984, tr. 656).
Loại Vượn phương
Nam (Australopithèques).
Trong khoảng thời
gian cách đây lối từ 4 đến 3 triệu năm, một nhánh gốc khác đã chia tách ra
thành 3 hay 4 nhánh phụ. Nhánh thứ nhất, xưa nhất, đã biến mất vào lối 2 triệu
năm trước đây. Đó là loại vượn với dạng thể được gọi là mảnh dẻ, biết được nhờ tìm
thấy một mẫu hóa thạch tiêu biểu nổi tiếng mang tên là Lucy. Thân hình nhỏ, chỉ
cao độ 1 mét, cân nặng lối 20 hoặc 30 ký, Vượn
phương Nam mảnh dẻ hay là Vượn Châu Phi (gracilis ou
africanus), là một động vật hai
chân, có thể sống trên mặt đất hoặc trên cây. Khối lượng não sọ là 470 phân khối.
Loại thứ hai gọi
là Vượn phương Nam
tráng kiện (robustus) (1 mét 50, 40 đến 60 ký), cũng đã biến mất lối 2 triệu
năm trước đây; trong khi đó, một loại khác, rất giống loại trước, đã sinh tồn
cho đến khoảng 1 triệu năm trước đây, nhưng rồi cũng biến mất. Hai loại này có
khối lượng não sọ lớn từ 500 cho đến 550 phân khối.
Nhánh loài người.
Cũng tại Châu Phi,
bên cạnh các hài cốt của loại Vượn
phương Nam mảnh dẻ, người ta còn tìm
thấy hài cốt của một số con vật có dạng thể và não sọ lớn hơn (từ 500 đến 800
phân khối); còn bàn tay thì giống gần hệt bàn tay người, và có khả năng đẽo đá.
Đó là một loại động vật hai chân thuộc bộ linh trưởng (bộ khỉ), biết cách săn mồi,
sống tập đoàn thành nhóm, biết dùng dụng cụ để cắt chặt và sửa soạn thức ăn. Động
vật ấy được gọi là Homo
habilis (Người khéo tay). Giữa khoảng thời gian kể từ lúc nó xuất hiện, tức
là lối 2 triệu năm trước đây, cho đến lúc nó biến mất, tức là lối 1 triệu rưỡi
năm trước đây, thân hình của nó đã biến dạng dần dần.
Thế nên, động vật
tiếp chân nó có tầm vóc và cân nặng giống con người chúng ta, với một khối lượng
não sọ lớn từ 750 cho đến 1.250 phân khối, và được gọi là Homo erectus (Người
đứng thẳng). Loại động vật
này đã rời khỏi Châu Phi, và trong khoảng thời gian từ 1 triệu rưỡi năm cho tới
nửa triệu năm trước đây, nó đã có mặt khắp nơi trong cựu đại lục. Với loại động
vật này, đã thấy xuất hiện các dụng cụ kiểu hai mặt (khoảng 700.000 năm trước
đây), và các lò nhóm lửa đầu tiên (lối 400.000 năm trước đây).
Cùng khoảng thời
gian đó, tức là lối 400.000 năm trước đây, loại động vật này đã biến mất. Nhưng
lại có một loại động vật khác nối dõi, và còn tiến hóa tới một mức cao hơn. Đó
chính là ông tổ trực tiếp của loài người, và được gọi là Homo sapiens (Người tinh
khôn). Có bằng chứng chắc chắn
cho thấy là những Người tinh khôn đầu tiên, đã xuất hiện lối 300.000 năm trước
công nguyên. Khối lượng não sọ trung bình là 1.300 phân khối, tức là 300 phân
khối lớn hơn não sọ của Homo
erectus. Đi kèm theo với việc tăng
thêm khối lượng não sọ là những đổi thay ngay tại trong cách cấu trúc của bộ
não. Một thời gian sau, Người tinh khôn còn biết chôn cất người chết của mình nữa:
người ta đã tìm thấy hơn 20 phần mộ được coi là của các người sống cách đây
50.000 năm.
Trong thời gian ấy,
con người hiện đại xuất hiện: những vùng chung quanh Địa trung hải đã có dịp chứng
kiến các sinh hoạt nghệ thuật của các người này; từ gần 20.000 năm nay, Homo sapiens đã biết vẽ tranh, chạm trổ, trang trí...
Để nêu rõ những đặc nét nổi bật của nó, tên gọi Homo sapiens sapiens đã được dùng chỉ về con người ấy.
Đó là những dữ kiện
mới nhất của khoa cổ sinh vật học. Dù còn nhiều điều chưa hẳn đã là chắc chắn,
thì cũng có thể coi các sự kiện sau đây như là đã được thừa nhận:
- miền Đông Châu
Phi là vùng đã chứng kiến những bước khởi đầu của tiến trình hình thành loài
người;
- loài người bắt rễ
từ giới động vật, và từ đó đã tiến phát nổi bật dần lên.
Có thể tiến xa hơn
hay không, để thử ức đoán về quá trình tiến hóa thành người (hominisation), nghĩa là về toàn bộ những biến đổi đã
mở đường và đã chuẩn bị cũng như đã tiến bước song song với sự việc con người
xuất hiện?
2. Quá trình tiến
hóa thành người.
Các dữ kiện rút tỉa
từ các khoa hóa sinh học (biochimie), giải phẫu học so sánh (anatomie comparée), và phôi học (embryo-logie) đều cho phép xác định về mối quan hệ
thân thuộc gần ở giữa loài khỉ hình người (singes
anthropomorphes) --đặc biệt
là loài tinh tinh (chimpanzé) -- và loài người. Cơ thể con người là thành quả của một quá trình tiến
hóa. Những đột biến tác động đến số lượng các thể nhiễm sắc (từ con số 48 tụt
xuống 46), những thay đổi trong cấu trúc của chúng, những biến đổi trong các
gien, v.v... đã cho phép ức đoán về cách thức hình thành của cơ thể con người,
tiến phát từ cơ thể của những ông tổ cổ sơ hơn.
Tuy nhiên, các đổi
thay về di sản di truyền học như thế chỉ đơn thuần ảnh hưởng đến cơ thể không
thôi: để có thể đứng thẳng lên, để được một bộ não có 15 tỷ neuron, để có được
đôi bàn tay rảnh rang mà làm việc... tất cả những thứ đó không nói lên được những
nét cá biệt hoàn toàn đặc trưng của con người. Những cá thể từng trang trí các
hang động với nhiều tranh ảnh tuyệt đẹp (cách đây 20.000 năm), từng chôn cất kẻ
chết của mình (cách đây 70.000 năm), từng biết nhóm lên lửa tại Nice hay bên
Trung Quốc (400.000 năm trước đây), đều là những con người; những cá thể từng
biết đẽo đá để làm dụng cụ, cũng đều là những con người. Chính tác phong độc đáo của họ, khác hẳn so với tập tính của
các loài vật, đã cho phép xác định như thế. Bước quá độ đi từ tình trạng tiền
nhân tính cho đến hiện trạng của con người ngày nay, đã thực sự diễn ra như thế
nào?
Những buổi đầu đều
là những giây phút không thể nắm được. Thế thì, nếu muốn thử mường tượng lại những
thời ban sơ của loài người, chắc hẳn cần phải dựa theo kiểu mẫu tiến hành của
cuộc đời của một con người cụ thể: đứa bé mới chào đời là một con người, một
con người thơ ấu; và dù là người, nó vẫn chưa thể ý thức cho được điều đó. Nó sẽ
còn phải khám phá dần dần để biết là mình có một thân thể, sẽ còn phải tập dần
cho biết cách sử dụng ngũ quan của mình, sẽ còn phải học tập để hiểu ngôn ngữ của
cha mẹ mình, và sẽ còn phải ghi nhận vào trong đầu não non trẻ của mình đủ loại
dữ liệu để có thể sử dụng khi cần. Những bước phát triển kể từ thời thơ ấu cho
đến lúc trưởng thành trong đời một con người, thì liên tục, tiệm tiến, nhưng lại
rất chậm rãi. Lúc nào thì con người mới thực sự bắt đầu có ý thức về mình? Tuổi
nào là tuổi có trí khôn, biết sử dụng lý trí? Cả những câu hỏi ấy nữa có nghĩa
gì không?
Đối với thời ban
sơ của nhân loại thì cũng thế. Quá trình tiến hóa thành người không phải chỉ
thu gọn vào trong một cuộc đột biến duy nhất, nhưng đã phải tiến hành qua nhiều
chặng khác nhau: giai đoạn đạt được, giai đoạn điều hợp rồi đến giai đoạn tiệm
tiến sử dụng nhiều bước cải tiến khác nhau về mặt cơ thể, về mặt trí óc, cũng
như về mặt tâm lý. Những con người đầu tiên đã phải để một thời gian khá dài để
có thể ý thức ra rằng mình khác hẳn với những con Vượn phương Nam. Cuộc sống theo
tập đoàn xã hội đã đóng giữ một vai chủ yếu ngày xưa, hệt như vẫn thấy ngày
nay: gia đình là môi trường lớn lên và học hỏi để thành người của con trẻ.
Tinh thần.
Nếu xét về phương
diện hiện tượng tiến hoá, thì con người nằm ngay ở trong dòng diễn biến liên tục
tiếp theo sau những loài động vật đi trước mình; nhưng đồng thời, ở một lãnh vực
khác, con người lại nổi bật và trổi vượt hẳn lên trên toàn thể giới động vật,
không mang dấu vết của một mắc xích liên tục nào trong chuỗi tiến hóa vừa nói của
giới này. Chẳng thế mà Teilhard de Chardin nhận định nói rằng con người đã bước
vào "ngưỡng cửa của suy tưởng".
Chỉ cần nhìn chung
lại bước đường trong quá trình tiến hóa, thì cũng đủ để nhận ra rõ vấn đề. Lần
bước theo đà biến hóa từ vật chất, từ nguyên tử cho đến phân tử, từ vật thể trơ
ì cho đến sự sống, từ những tế bào đơn cho đến động vật, rồi đến con người, người
ta sẽ nhận thấy là sau mỗi bước tiến, vật thể càng trở nên phức tạp hơn lên; và
đồng thời, mức độ cấu trúc, phối hợp và thống nhất nơi các sinh vật cũng cao dần
thêm lên: mức độ của tính nội tâm tăng dần thêm mãi. Và với con người, thì một
hiện tượng chưa từng thấy đã xuất hiện: một động vật có khả năng suy nghĩ và ý
thức về chính mình.
Các động vật chỉ
có khả năng để thỉnh thoảng dùng một hòn sỏi hay một cành cây vào trong sinh hoạt
cuộc sống mình; còn con người thì không những dùng, mà còn có khả năng chế tạo ra vật dụng mình cần. Chế tạo là một hành
động có chủ đích cho ngắn hoặc dài hạn. Hành động ấy hàm
súc một chủ ý, một ý tưởng vượt rộng ra ngoài giây phút hiện tại. Và dụng cụ ấy,
con người còn trang họa một cách hoàn toàn nhưng không, để làm cho nó thành
xinh đẹp hơn. Làm một hành động nhưng không là cho thấy mình có tự do.
Chủ ý, tư tưởng nhờ
có khả năng nối kết những khái niệm, ý thức về chính mình, tự do: tất cả những đặc
tính ấy là những nét hoàn toàn đặc trưng của con người; nhà triết học coi đó là
những thuộc tính của một tinh thần; mà tinh thần thì không thể nào là sản phẩm
của vật chất được, cho dù có nhờ đến vật chất để mà biểu hiện.
3. Đức tin.
Trước những dữ kiện
như thế của khoa học và triết học, các tín hữu sẽ phản ứng như thế nào?
a. Sự việc loài
người dính liền với loài vật, --hay sự việc con người phát xuất từ một nhánh loài
vật-- không gây một khó khăn nào cho niềm tin cả. Nếu thân xác con người đã được
kết tinh từ một chuỗi dài của những biến hóa đổi thay xảy ra ở nơi một giống
loài vật, thì các tín hữu sẽ coi hiện tượng tiến hóa đó là phương cách Thiên
Chúa dùng để làm nên thân xác loài người. Và như thế, công trình tạo dựng sẽ cho
thấy tính chất nhất thống một cách rõ ràng hơn là trong trường hợp con người được
tạo dựng bằng một hành động trực tiếp, tức là bằng một cách thức tách rời và riêng
rẽ.
b. Xét về mặt triết
học, tính chất đặc thù, đặc trưng của loài người (ý thức về chính mình, lương
tâm luân lý, tự do lựa chọn, v.v...) cho thấy con người mang ở trong mình một
tinh thần, một thần trí; và thần trí ấy hẳn không phải là kết quả của một quá trình
tiến hóa sinh vật học đơn thuần. Đối với các tín hữu, thần trí ấy là một món quà
Thiên Chúa ban cho, một món quà nhưng không làm cho con người có được khả năng
bước vào trong vòng quan hệ với Thiên Chúa Thần Trí.
Có người tự hỏi:
điều đó đã xảy ra lúc nào và như thế nào? Họ muốn, một cách nào đó, thấu hiểu
cho được hành động tạo dựng, làm như Thiên Chúa đã can thiệp hệt theo cách kiểu
của một nguyên nhân đệ nhị (cause seconde), vào trong đà diễn biến các hiện tượng!
Theo thánh Tôma, tạo dựng là đặt các sự vật vào trong hiện hữu, và gìn giữ
chúng lại ở trong đó. Từng giây phút, vũ trụ hằng không ngừng được Thiên Chúa tạo
dựng nên: vật chất trơ ì, thảo mộc, loài vật, con người, tất cả đều không ngớt tùy
thuộc vào Ngài. Rõ ràng món quà hiện hữu là một món quà rất phong phú, với sức phong
phú tăng triển thêm mãi: từ vật chất lên giới thảo mộc, rồi lên giới động vật
cho đến loài người. Như vậy, nói cho đúng thì không có chuồện can thiệp, mà chỉ
có sự việc một món quà đã được ban ra một cách liên tục để đưa đặt từng sự vật
vào trong hiện hữu, với tất cả mọi tiềm năng và đặc tính dành riêng cho nó, đã
sẵn có dù chưa triển phát ra hết.
c. Khoa học ngày
nay nghĩ rằng loài người đã phát xuất từ một dòng giống (phylum) duy nhất (thuyết phát triển một dòng/monophylétisme). Có những khuynh hướng còn thiên về cả chủ
thuyết một nguồn (monogénisme) theo nghĩa hẹp nữa, nghĩa là cho rằng:
từ đầu, đã chỉ có một "cá thể đột biến" (mutant) duy nhất, từ đó phát sinh ra một cặp
(cá thể) hoặc nhiều cặp liên tiếp; không biết rõ là bằng cách nào (có thể có
nhiều cách...). Và sau đó 2 triệu năm, Homo
sapiens mới xuất hiện giữa một
dân số đã đông đúc khá.
Lương tâm luân lý
của các con người ấy đã hình thành như thế nào? Lúc nào thì họ đã đạt được đến
chỗ biết phân biệt giữa "điều lành/thiện" và "điều dữ/ác"?
Lúc nào và bằng cách nào họ đã nhận được mạc khải về sự việc mình bắt nguồn từ
Thiên Chúa, và về cứu cánh của đời mình? Biết bao vấn nạn nan giải!
Tưởng cũng cần nhắc
lại rằng trình thuật trong chương 3 Sách Sáng thế không phải là một văn bản ghi
lại lịch sử tự nhiên của thời khởi đầu nhân loại. Ađam và Evà là những nhân vật
của lịch sử siêu nhiên. Chương trình thuật ấy có một mục đích song
đôi: 1. để hiểu là toàn thể nhân loại đã sinh ra từ một cặp vợ chồng nguyên thủy
duy nhất, hầu xác định sự việc hết thảy mọi người đều thuộc về cùng một gia
đình, và do đó đều liên đới với nhau; 2. mặt khác, để kể lại thái độ bất phục
tòng của họ và của con cháu họ, nghĩa là để nói rằng ngay từ khi biết dùng tự
do lựa chọn, con người đã từ chối không chịu tùy thuộc Thiên Chúa, không chịu
vâng lời Ngài, không chịu sống như là con của Ngài: con người đã từ chối không
chịu đón nhận kế hoạch Thiên Chúa đề ra cho đời mình.
Để hiểu văn bản ấy,
thì cần phải đi từ trình thuật của Tân Ước nói rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế: loài
người cần được cứu độ. Với sức riêng của mình, con người không thể thần hóa
chình mình; chỉ khi nào biết kết hợp với Đức Kitô, thì lúc đó, con người mới thần
hóa chính mình được. Mối liên đới sinh vật học do Ađam mà có ở giữa loài người,
chỉ thuần túy là một hình ảnh, chỉ có tính cách biểu tượng. Liên đới ở giữa
loài người: có thật, nhưng trước hết là do và trong Ađam thật, là chính Đức
Giêsu Kitô.
TỔNG LƯỢC VÀ KẾT
LUẬN
1. Giữa những gì
khoa học tìm thấy và những gì đức tin khẳng định, không thể có đối nghịch thực sự được, bởi vì hai loại hiểu biết ấy thuộc
hai lãnh vực khác nhau, nằm ở hai bình diện khác nhau.
2. Trước khi nhận
ra cách thức phân biệt trên đây, nhiều vụ xung đột đã bùng nổ; nhưng chỉ là
chung quanh những vấn đề
giả, được nêu lên chỉ vì giải thích
Kinh Thánh một cách lệch lạc, theo nghĩa đen (chẳng hạn như là đối với các
trình thuật về cuộc tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày, về việc sinh ra Eva từ một
nhánh xương sườn của Ađam, v.v...), hoặc là vì đã dùng một lối trình bày mang ảnh
hưởng quá nặng của trình độ hiểu biết khoa học thời Trung cổ, để biểu đạt các
tín điều (ví dụ: đặt tín điều về nguyên tội dính chặt với trình thuật hiểu theo
nghĩa đen về Ađam và Eva). Với đà tiến phát của khoa chú giải và của thần học,
các vấn đề kia nay không còn nữa, vì đều đã được giải quyết thỏa đáng tất cả.
3. Vẫn còn một điểm
gai góc thật sự: não trạng khoa học ít khi dành những điều kiện dễ dàng cho
lòng tin. Nhà khoa học muốn hiểu cho được tất cả, muốn dùng thí nghiệm và lý
trí mà sàng mà lọc, mà mổ xẻ mà chứng minh tất cả. Trong khi đó, đức tin lại gồm
hàm những mầu nhiệm (thực ra, khoa học cũng thế), mà đến các tín hữu cũng phải
đành chịu bí, không sao hiểu nổi (mầu nhiệm về một Chúa Ba Ngôi, về khổ đau người
vô tội gánh chịu, về sự dữ...). Tuy nhiên, là rất hợp lý chuyện trí óc hữu hạn
của con người không thể thấu hiểu Thiên Chúa Vô biên cho toàn bộ, cho trọn vẹn
được.
4. Thế thì có phải
khoa học nhất thiết sẽ dẫn loài người đi tới kết luận phủ nhận Thiên Chúa hiện
hữu (chủ thuyết vô thần) hay không? Dĩ nhiên là không. Bởi vì, nhà khoa học
chân chính thì khiêm hạ, để biết nhận rõ là mình không thể biết hết mọi sự được.
Thái độ khiêm hạ ấy sẽ chuẩn bị giúp cho nhà khoa học biết mở lòng ra mà đón nhận
đức tin. Ngay cả khi vì lý do cần phải áp dụng cho chỉnh phương pháp nghiên cứu,
nhà khoa học có để Thiên Chúa ra ngoài cuộc khảo nghiệm của mình, thì niềm thán
phục mà những hiện tượng lạ lùng trong thiên nhiên khơi dậy trong lòng ông,
cũng sẽ từ từ đưa ông đến chỗ phát hiện ra một Thượng Trí hằng hoạt động trong
mọi tạo vật, và nhận biết Đấng Thiên Chúa đã từng dùng mạc khải mà mang lại ý
nghĩa trọn vẹn cho cuộc hiện hữu của con người.
Jean-Marie
Moretti, S.J. [1]
[Người dịch: Nguyễn Thế Minh, HTTH SỐ
8, NĂM THỨ BA (1993)]
------------------------------------
[1] Tác giả là linh mục Dòng Tên, hiện đang làm việc tại Paris, Pháp. Cha
đã vui lòng dành bài viết bằng tiếng Pháp, mang tựa đề Science et Foi này, để riêng tặng độc giả HTTH.