Tại sao các thiên thần có
cánh?
(daminhvn.net) 01/10/2015
Hồi đầu tháng này, phụng vụ kính lễ các thánh thiên thần bản mệnh.
Các hoạ sĩ thường vẽ các thiên thần mặc áo trắng với đôi cánh. Tại sao các
thiên thần lại mang cánh?
Chúng ta sẽ lần
lượt đi từng bước một trong việc tìm hiểu ý nghĩa đôi cánh của các thiên thần,
từ biểu tượng tự nhiên, sang nguồn gốc lịch sử và sau cùng là ý nghĩa thần học.
Trên bình diện tự nhiên, đôi cánh chim biểu thị cho sự lanh lẹ. Chúng ta có thể
thấy nhiều hãng hàng không lấy cánh chim làm biểu tượng, và cách riêng là các
phi công đều đeo huy hiệu đôi cánh ở trên ngực, ra như chứng tỏ rằng họ có khả
năng bay bổng như chim. Đó là biểu tượng tự nhiên. Bây giờ chúng ta cần phải đi
lên một cấp nữa: tại sao lại gắn đôi cánh cho các thiên thần? Câu trả lời đơn
giản hơn cả là tại vì muốn mô tả bản tính của các vị là nhanh nhẹn. Nhưng mà
nhanh nhẹn làm cái gì? Thi đua với ai? Đây là câu hỏi mà các sử gia đặt ra.
Có lẽ thi đua với gió. Các thiên thần vọt nhanh hơn gió, có phải
như vậy không?
Có lẽ đúng một
phần, nhưng đó là xét theo ý nghĩa thần học. Các sử gia muốn biết từ hồi nào các
hoạ sĩ đã gắn đôi cánh cho các thiên thần, và vì lý do gì? Cho đến nay, người
ta cho rằng nguồn gốc của nó không phải là Kinh thánh, nhưng là các tôn giáo ở
vùng Cận đông, nơi mà xuất hiện những vị thần linh dưới hình thù của một người
hay thậm chí một con thú có mang cánh. Đôi cánh chỉ sự lanh lẹ, như chớp như
gió. Tuy nhiên, Kitô giáo du nhập các hình ảnh đó hơi muộn. Chị nên biết là Do
thái giáo tuyệt đối cấm việc hình dung Thiên Chúa bằng hình tượng. Lúc đầu Kitô
giáo cũng tiếp nhận truyền thống đó. Dần dần, các Kitô hữu bắt đầu vẽ hình của
đức Kitô, Thiên Chúa nhập thể, với những biểu tượng của vị mục tử. Rồi càng
ngày nền mỹ thuật Kitô giáo phát triển với những bức chân dung của Đức Kitô, đức
Maria, các thánh. Việc hoạ chân dung của các vị không khó, bởi vì họ cũng là
con người như chúng ta. Chỉ cần thêm những nét biểu tượng các nhân đức trổi vượt
nhờ cách tô điểm các mầu. Nhưng làm thế nào mà vẽ các thiên thần, vốn thuộc vào
loài thiêng liêng, vô hình vô tượng? Các hoạ sĩ chỉ còn cách là dùng các khuôn
mẫu đã có từ các tôn giáo hay các nền văn hóa đương thời. Theo các sử gia,
khuôn mẫu gây ảnh hưởng trực tiếp đến lối biểu tượng các thiên thần là nữ thần
chiến thắng Victoria của dân Rôma, được kính ngay tại trụ sở của Thượng viện đế
quốc. Vị thần này mang áo dài trắng, với đôi cánh chim, và cầm triều thiên.
Như vậy, các Kitô hữu muốn nói lên rằng các thiên thần là những
người chiến thắng ma quỷ, phải không?
Có lẽ đó không
phải là ý nghĩa nguyên thủy. Lúc đầu, ý nghĩa của đôi cánh chỉ muốn nói lên sự
nhanh nhẹn. Sự nhanh nhẹn ở đây không nên hiểu theo nghĩa vật lý (chạy đua xem
ai đạt vận tốc cao hơn), nhưng theo nghĩa tinh thần: mau mắn trong việc thi
hành ý định của Thiên Chúa. Chị nên nhớ rằng trong nguyên gốc tiếng Do thái và
Hy-lạp của Kinh thánh, các thiên thần là những sứ giả của Thiên Chúa. Vì thế, sự
mau lẹ được hiểu là họ chấp hành sứ mạng ngay tức khắc, không chần chừ, như
chúng ta đọc thấy trong thánh vịnh 103, câu 20: “Chúc tụng Chúa đi, hỡi muôn vì
thiên sứ, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện Lời Người, luôn sẵn sàng phụng lệnh”.
Như thế cũng có thể ví các thiên thần bay lẹ như gió chứ gì?
Sự so sánh này
khá tự nhiên. Tuy vậy, trong Kinh thánh Cựu ước, khi so sánh các thiên sứ với
gió, thì có lẽ người ta không muốn nói tới sự nhanh nhẹn, cho bằng sự nhẹ
nhàng. Trong tư tưởng cổ điển, gió và không khí tượng trưng cho thế giới thiêng
liêng, đối lại với thế giới chất thể. Sở dĩ các thiên sứ nhanh nhẹn chu toàn sứ
mạng một phần cũng tại các ngài không bị cản trở bởi vật chất. Thiết tưởng đây
là điều mà vịnh gia muốn nói ở thánh vịnh 104, câu 3-4: “Chúa ngự giá xe mây,
Ngài lướt bay cánh gió. Sứ giả ngài: làn gío bốn phương, nô bộc Chúa, lửa hồng
muôn ngọn”. Còn Phúc âm nhất lãm, khi tả quang cảnh của ngày chung thẩm thì nói
đến việc các thiên sứ được sai đi để quy tụ muôn dân từ “bốn gió”, nghĩa là 4
phương trời (Mc 13,26-27; Mt 24,30-31).
Lúc nãy cha nói rằng khi du nhập biểu tượng của nữ thần Chiến thắng
của Rôma, các Kitô hữu chỉ chú trọng đến ý nghĩa nhanh nhẹn của đôi cánh, chứ
không lấy ý nghĩa chiến thắng. Nhưng mà có nhiều bức tranh vẫn vẽ thiên thần
Micae chiến thắng quỷ dữ. Vậy là cũng có tư tưởng chiến thắng nữa đấy chứ?
Tôi chỉ ghi nhận
ý kiến của vài nhà sử học mà thôi. Theo họ, khi du nhập biểu tượng thần chiến
thắng, lúc đầu sự chú ý được dành cho đôi cánh, tượng trưng cho sự nhanh nhẹn
nhẹ nhàng; về sau mới thêm tư tưởng chiến thắng. Ý nghĩa này được áp dụng cách
riêng cho thiên sứ Micae, lãnh đạo các thiên sứ trong cuộc giao tranh với
Satan, như chúng ta có thể đọc thấy ở sách Khải huyền chương 12, câu 7-9. Tuy
nhiên, ý nghĩa chiến thắng không phải chỉ dành cho thiên sứ Micae, mà còn cho
các Kitô hữu nói chung. Nhiều hoạ sĩ vẽ thiên thần hộ tống linh hồn của người
lành về thiên quốc, tay cầm triều thiên đội lên đầu kẻ đã thắng tội lỗi và các
chước cám dỗ.
Nếu con không lầm, thiên sứ Micae là đàn ông. Thế sao các bức
tranh lại vẽ thiên sứ dưới hình thiếu nữ?
Nên biết là
phái tính nam nữ chỉ áp dụng cho các loài có thể xác, chứ không áp dụng cho
loài thiêng liêng. Vì vậy mà không thể nói được các thiên thần thuộc phái nam
hay phái nữ. Bên Âu châu, việc hình dung phái tính chịu ảnh hưởng không nhỏ của
từ ngữ, giống đực hay giống cái. Thí dụ như Hội thánh được ví như là mẹ, và hiền
thê, bởi vì từ Ecclesia là giống cái trong tiếng Hy-lạp và La-tinh. Vì thế
không lạ gì mà “tự do, công lý, chiến thắng” được hình dung như là nữ thần, bởi
vì trong tiếng La-tinh và tiếng Pháp, các từ đó ở giống cái (Libertas,
Justitia, Victoria). Còn từ “thiên thần” (angelus) là giống đực cho nên được
hình dung là nam nhi là phải rồi. Trong Kinh thánh, ta thấy có những đoạn mô tả
các thiên thần xuất hiện dưới hình của nam nhi, thí dụ như ở sách Sáng thế
(chương 18, khi hiện ra với ông Abraham), sách Tôbia, về thiên thần Raphael, và
trong Phúc âm nhất lãm khi nói về các thiên sứ hiện ra dưới hình một thanh
niên, để báo tin Chúa Phục sinh cho các bà đi ra viếng mồ (Mc 16,5). Dựa theo
các bản văn Kinh thánh, trong các thế kỷ đầu tiên, các bức hoạ vẽ các thiên thần
theo hình nam nhi, đặc biệt là các thiên thần Micael, Raphael, Gabriel. Mãi tới
thời cận đại người ta mới vẽ các thiên thần dưới hình thiếu nữ.
Tại sao vậy?
Có lẽ vì muốn
tăng thêm phần duyên dáng xinh đẹp cho các ngài. Vả chăng, tuy các bức tranh cổ
thời hình dung các thiên thần dưới hình dạng nam nhi, nhưng ta thấy các ngài
cũng để tóc quăn và dài, má hồng môi thắm. Thật khó mà phân biệt được nam hay
là nữ giới.
Và có lẽ y phục của các ngài cũng khó mà phân biệt được thuộc
phái nào, phải không?
Thực ra trong
xã hội cổ thời, y phục giữa nam giới và nữ giới không có gì khác biệt cho lắm.
Trước đây, tại Việt Nam, các ông cũng để tóc dài búi tó, và mặc áo dài như các
bà. Bên Tây phương, cũng tương tự như vậy. Vào thời cổ, các ông mặc áo thụng,
mà vết tích còn duy trì nơi y phục của các linh mục và tu sĩ. Điều đáng chúng
ta lưu ý là các hoạ sĩ đã quan niệm thế nào về hình dáng mà màu sắc dành cho y
phục của các thiên thần. Cách chung, các vị mặc y phục màu trắng. Đây là lối
trình bày dựa theo Kinh thánh, thí dụ khi mô tả các thiên sứ báo tin Chúa Kitô
phục sinh (Mt 28,3): màu trắng không những chỉ tượng trưng cho sự thanh sạch
nhưng còn tượng trưng cho sự sáng ngời của thiên giới. Ngoài căn bản lấy từ
Kinh thánh, các hoạ sĩ cổ thời còn muốn khóac cho các thiên thần nhiều ý nghĩa
khác. Các thiên thần mặc áo trắng toát như các thẩm phán và nghị sĩ của Rôma, bởi
vì các ngài thuộc hàng chức sắc của triều đình thiên quốc. Về sau, các thiên thần
cũng được khóac phẩm phục tư tế, để nói lên vai trò của các thiên thần là tiến
dâng hy lễ chúc tụng trước toà Chúa.
Nhưng mà cũng có những bức hoạ vẽ y phục của thiên thần với đủ
màu xanh đỏ đấy chứ?
Đúng vậy. Dĩ
nhiên mỗi hoạ sĩ có những quan điểm riêng của mình khi nhuộm màu áo của các
thiên thần. Tuy nhiên, theo các sử gia, các hoạ sĩ bắt đầu tô màu cho các thiên
thần từ khi xuất bản tác phẩm “Phẩm trật thiên quốc” (De coelesti Hierarchia) của
ông Đionixiô, vào khoảng thế kỷ V. Theo ông, trên thiên quốc, các thiên thần
cũng được phân chia thành các đẳng trật (ông ta nói tới 9 đẳng) cao thấp khác
biệt. Vì thế các hoạ sĩ muốn tô màu cho y phục của các thiên thần, nhằm phân biệt
các đẳng cấp ấy. Tưởng cũng nên biết là vào thời cổ, người ta rất nể ông
Điônixiô, vì tưởng lầm rằng ông ta là đồ đệ của thánh Phaolô, được sách Tông đồ
công vụ nhắc đến ở chương 17 câu 34. Tác phẩm của ông được coi như mang nguồn gốc
từ các thánh tông đồ. Nhưng mà, như đã nói, khoa sử học hiện đại cho rằng tác
giả sống vào thế kỷ V, chứ không phải là đồ đệ của thánh Phaolô. Vì thế ông được
đặt tên là Điônixiô giả (Pseudo Dionysius). Các hoạ sĩ bên Đông phương thường
cho thiên thần Sêraphim mặc áo màu đỏ, còn thiên thần Kêrubim mặc áo màu xanh
dương; số cánh cũng tăng lên 4 và 6. Sang thời Trung cổ, các thiên thần được
gán cho nhiều chức vụ khác nhau, vì thế mà y phục cũng trở nên đa dạng: có vị
lo việc coi sóc nhân gian, có vị lo chầu trước toà Chúa; có vị lo chiến đấu chống
ma qủy, có vị phụ tá trong việc phán xét. Từ đó ta thấy có những thiên thần cầm
cân, cầm giáo, hay là gảy đàn múa hát. Và bên cạnh các thiên thần tráng niên
còn có các thiên thần tí hon, mình trần chỉ có thêm đôi cánh.
(Giuse Phan Tấn
Thành, OP)