Hiểu Sống Đức Tin: Tại Sao Kính Thánh Giuse Vào Tháng Ba?
(catechesis.net
- 29-02-2016)
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Tháng Ba hàng năm, Giáo Hội dành kính
Thánh Giuse. Vậy có lý do gì gắn liền tháng ba với Thánh Giuse?
Trong một năm, lòng đạo đức
bình dân thường dành ra vài tháng để kính nhớ một nhân vật nào đó, cụ thể là:
tháng 5 kính Đức Mẹ, tháng 6 kính Thánh Tâm Chúa, tháng 10 kính Đức Mẹ Mân côi,
tháng 11 nhớ các linh hồn đã qua đời. Nói chung, nguồn gốc của các tháng dâng
kính như vậy không có gì khó hiểu.
Lúc đầu, người ta mừng lễ kính một vị thánh. Nhằm để chuẩn bị mừng
lễ, người ta tổ chức ba ngày hay chín ngày dọn mình; và rồi tính cách long trọng
của lễ còn kéo dài ra suốt tuần bát nhật. Vị chi là non 20 ngày rồi, cho nên kéo
dài ra thêm một tháng cũng chẳng vất vả gì. Điều này rõ rệt với phụng vụ Đông
phương: ngày 15 tháng 8 là lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời; các đan sĩ dành 15 ngày
trước đó để chuẩn bị và kéo dài thêm 15 ngày sau đó. Trong bối cảnh đó, chúng
ta có thể hiểu được vì sao tháng 3 được dành cho Thánh Giuse, bởi vì lễ Thánh
Giuse được mừng trong tháng 3, ngày 19. Việc dâng kính tháng 3 cho Thánh Giuse
được Đức Giáo Hoàng Piô IX chuẩn nhận ngày 27/4/1865.
Tại sao lễ Thánh Giuse được mừng vào
ngày 19 tháng 3?
Thường lễ kính các vị thánh được mừng vào ngày qua đời, được coi
như ngày sinh (dies natalis) vào cõi sống trường cửu. Thế nhưng, đối
với Thánh Giuse cũng như nhiều vị thánh thời cổ, thì chúng ta không biết ngày
qua đời của họ. Vì thế các ngày lễ thường được ấn định dựa theo một truyền thống
địa phương nào đó, chẳng hạn như lễ cung hiến một thánh đường nào đó. Riêng đối
với Thánh Giuse, chúng ta nên ghi nhận một điểm quan trọng.
Trong khi lễ kính Các Thánh
Tử Đạo đã xuất hiện từ
những thế kỷ đầu tiên, tiếp đến là các lễ kính Đức Mẹ từ thế kỷ thứ IV và các Thánh Hiển Tu, nhưng nói được là trong
suốt thiên niên kỷ thứ nhất (mười thế
kỷ), không nơi nào mừng lễ kính Thánh Giuse hết. Quả thật, Thánh
Giuse là một con người thầm lặng, lúc còn sống cũng như sau khi đã qua đời. Đừng
kể vài chứng tích lẻ tẻ, phải chờ đến thế kỷ XIV, mới thấy lễ kính Thánh Giuse
được cử hành trong các Dòng Hành Khất, chẳng hạn: Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ (năm 1324), Dòng Phanxicô (năm 1339). Sang thế kỷ XV, lễ kính
Thánh Giuse mới được mở rộng tại nhiều nơi. Năm 1467, Giáo phận Milano (Italia) ấn định lễ Thánh Giuse vào ngày 20
tháng 3, và sau đó chuyển sang ngày 19 tháng 3 từ năm 1509. Phải chờ tới cuộc cải
tổ phụng vụ sau Công Đồng Trento, được thực hiện bởi Đức Giáo Hoàng Piô V, thì
lễ kính Thánh Giuse mới được ghi vào lịch phổ quát của Giáo Hội (1568-1570). Lễ kính Thánh Giuse được ấn
định mừng vào ngày 19 tháng 3, và trở thành lễ buộc từ năm 1621, dưới thời Đức
Giáo Hoàng Gregorio XV.
Xin trở lại với câu hỏi: Có gì liên hệ
giữa ngày 19 tháng 3 với Thánh Giuse?
Các sử gia vẫn chưa tìm ra mối liên hệ. Tại một số Giáo Hội Hy Lạp,
Thánh Giuse được mừng sau lễ Giáng Sinh (ngày 26
tháng chạp), nhưng ngài cùng đứng chung với các tổ phụ từ ông
Abraham cho đến Thánh Giuse. Bên Ai Cập, người ta mừng ngày qua đời của Thánh
Giuse vào ngày 20 tháng 7; không hiểu dựa trên cơ sở nào. Bên Tây phương, tên
Thánh Giuse được xướng lên vào ngày 19 tháng 3 lần đầu tiên là một cuốn “Tử Đạo Thư” của một Đan viện Biển Đức ở Reichenau (trước đây thuộc Tổng Giáo Phận Zurigo, Thụy sĩ) vào thế kỷ IX, có lẽ dựa theo một Phúc
Âm ngụy thư từ thế kỷ IV.
Bên cạnh lễ mừng vào ngày
19 tháng 3, Phụng vụ Công Giáo còn dành một lễ nhớ nữa, đó là lễ Thánh Giuse
Lao Động (hay
Thánh Giuse Thợ), được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập ngày
1/5/1955, nghĩa là vào chính ngày Quốc Tế Lao Động. Điều này không có gì khó hiểu.
Trước đó, Phụng vụ còn mừng lễ Thánh Giuse bổn mạng Hội Thánh, được Đức Giáo
Hoàng Piô IX ấn định (10/9/1847),
vào Chúa Nhật thứ ba sau Lễ Phục Sinh, nhưng sau đó được Đức Giáo Hoàng Piô X (24/7/1913) dời vào ngày thứ tư trong tuần thứ hai
sau Lễ Phục Sinh. Lễ này bị bãi bỏ năm 1956, khi được thay thế bằng lễ Thánh
Giuse Lao Động.
Cũng nên biết là vài nơi, người ta còn mừng lễ đính hôn của Đức
Mẹ và Thánh Giuse vào ngày 23 tháng Giêng. Nguồn gốc lễ này bắt nguồn từ linh mục
Jean Gerson vào thế kỷ XV. Còn lễ Thánh Gia (Chúa
Giêsu, Mẹ Maria, Thánh Giuse) thì
mang tính cách phổ quát, được mừng vào Chúa Nhật sau Lễ Giáng Sinh, và cũng có
thể kể như một lễ kính Thánh Giuse, mặc dù không phải 100%. Lễ này được Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII du nhập vào lịch chung của Giáo Hội năm 1893 (hồi đó, mừng vào Chúa Nhật thứ ba sau lễ Hiển
Linh).
Tháng 3 được dành để kính Thánh
Giuse, nhưng có những việc gì làm để tôn kính Thánh Nhân?
Có lẽ việc tôn kính mà Thánh Giuse thích hơn cả là sống theo
Phúc Âm, cũng như những điều mà Thánh Nhân đã cố gắng thi hành, đặc biệt trong
việc tuân hành ý Chúa, và trung thành với việc bổn phận. Điều này được nhắc tới
nhiều lần trong các văn kiện Tòa Thánh, gần hơn cả là Tông huấn "Redemptoris
Custos" (người
gìn giữ Chúa Cứu thế) của
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ban hành ngày 15 tháng 8 năm 1989.
Khi bàn về các việc đạo đức, thì có nhiều hình thức, chẳng hạn
như: Kinh cầu Thánh Giuse, ngắm 7 sự vui buồn Thánh Giuse, kinh cầu cho Hội
Thánh. Có lẽ trong số này, kinh cầu Thánh Giuse được nhiều người biết đến hơn cả.
Kinh cầu này dựa theo sườn của kinh cầu Đức Bà, và được sử dụng trong vài hiệp
hội tại Rôma từ thế kỷ XVI (khoảng
năm 1597). Bố cục như sau:
- Mở đầu là những lời khẩn cầu dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa và Đức
Mẹ Maria;
- Tiếp theo là những lời cầu cùng Thánh Giuse với 25 tước hiệu.
Các tước hiệu này có thể phân thành 5 nhóm.
+ Nhóm đầu tiên nói sự thánh thiện cũng như nguồn gốc của Thánh
Giuse (dòng dõi vua Đavit; thuộc
hàng các tổ phụ).
+ Nhóm thứ hai nói đến các chức vụ được ủy thác (bạn Đức Maria, dưỡng phụ Đức Giêsu; Đấng che chở
cho Đức Kitô và thánh gia).
+ Nhóm thứ ba ca ngợi 6 nhân đức của Thánh Nhân (Công chính; Khiết tịnh; Khôn ngoan; Mạnh bạo; Vâng
lời; Trung thành).
+ Nhóm thứ tư đề cao Thánh Giuse như khuôn mẫu cho các nhân đức
xã hội (Nhẫn nại;
Thanh bần; Cần cù lao động; mẫu gương cho các gia trưởng; Các người khiết tịnh
cũng như người có đôi bạn; An ủi kẻ âu sầu).
+ Nhóm cuối cùng nhắc đến những tước hiệu bổn mạng (của những người lâm tử và của toàn thể Hội Thánh).
Vậy còn suy gẫm 7 sự vui buồn Thánh
Giuse là suy gẫm điều gì?
Kinh này dựa theo việc
suy gẫm bảy sự đau đớn Đức Mẹ do các tu sĩ Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ phổ biến. Việc
suy gẫm bảy sự vui buồn Thánh Giuse được in thành sách từ thế kỷ XVI, suy gẫm
các biến cố vui buồn của Thánh Giuse, dựa theo những trình thuật Tin Mừng thời
thơ ấu của thánh Matthew và thánh Luca. Nên lưu ý, đối với Đức Mẹ thì chỉ nói tới
bảy sự đau đớn, còn đối với Thánh Giuse, chúng ta vừa suy gẫm bảy sự buồn cùng
với bảy sự vui. Nói cách khác, mỗi biến cố đều có mặt buồn của nó và liền đó là
mặt vui.
Bảy biến cố là:
- Thứ nhất, việc Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu, gây ra nhiều băn
khoăn cho Thánh Giuse, nhưng sau đó được sứ thần Thiên Chúa giải thích.
- Thứ hai, chứng kiến cảnh khó nghèo của Chúa Giêsu khi sinh ra
tại Belem.
- Thứ ba, khi làm phép cắt bì cho Chúa Giêsu.
- Thứ tư, khi cụ Simeon tiên báo những đau khổ của Chúa Giêsu.
- Thứ năm, khi trốn qua Ai Cập.
- Thứ sáu, khi trở về Nazareth.
- Thứ bảy, việc lạc mất và tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ.
Sau mỗi cảnh suy niệm, đọc một kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng,
có thể thêm kinh Sáng Danh.
Như vậy, Giáo Hội chỉ mừng Thánh
Giuse vào ngày lễ ở tháng Ba thôi hay sao?
Như đã nói ở trên, trong năm Phụng vụ có hai ngày kính Thánh
Giuse: ngày 19 tháng 3 và ngày 1 tháng 5. Còn những cơ hội khác thì để tùy theo
lòng đạo đức và tập tục địa phương. Chẳng hạn như: nhiều nơi mỗi tuần dành một
ngày kính Thánh Giuse (ngày thứ
tư), cũng như ngày thứ sáu dành kính Thánh Tâm Chúa (hoặc cuộc tử nạn), thứ bảy kính Đức Mẹ.
Có nơi chuẩn bị lễ Thánh Giuse không phải với tuần bảy ngày mà là 7 Chúa Nhật,
nhớ đến 7 sự vui buồn của Thánh Giuse. Thế rồi trong tháng 10, tháng Mân côi, Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII đã muốn thêm vào kinh Thánh Giuse (Lạy ơn ông thánh Giuse, chúng tôi chạy đến cùng
người), kinh do người soạn ra và đăng ở cuối Thông điệp Quamquam pluries (15/8/1889).
Tại sao ngày thứ tư mỗi tuần được
dành để kính Thánh Giuse?
Dưới khía cạnh lịch sử,
các học giả không thấy có một mối liên hệ nào hết. Vào những thế kỷ đầu tiên của
Kitô giáo, các tín hữu ăn chay mỗi tuần hai ngày (thứ tư và thứ sáu), khác với người Do
Thái cũng ăn chay mỗi tuần hai ngày, nhưng là vào thứ hai và thứ năm. Theo sự
giải thích của một số Giáo phụ, ngày thứ sáu tưởng niệm Chúa Giêsu chịu chết
trên thập giá, còn ngày thứ tư tưởng nhớ ngày Chúa Giêsu bị Giuđa phản bội.
Không rõ từ hồi nào người ta dành thứ tư để kính Thánh Giuse và vì lý do gì.
Tuy vậy, cũng có người bóp trán để giải thích thế này. Ngày thứ tư là ngày ở giữa
tuần lễ, với nhịp độ làm việc cao, khác với nhịp độ uể oải hay cầm chừng của đầu
tuần hoặc cuối tuần. Như vậy đáng để dành cho Thánh Giuse, gương mẫu của sự cần
cù làm việc.
Dù sao, cũng nên biết, là đối với người kính mến Thánh Giuse,
thì họ vẫn nhắc đến tên của ngài mỗi ngày, cùng với việc kêu cầu Chúa Giêsu, Đức
Mẹ Maria. Ngoài ra, tại vài nơi, người ta còn đọc một kinh riêng kính Thánh
Giuse dưới hình thức bổn mạng của người chết lành. Truyền thống cho rằng, Thánh
Giuse là người có phúc nhất trên đời, bởi vì lúc lâm chung, người có Chúa Giêsu
và Đức Mẹ đứng bên cạnh. Từ đó, một hiệp hội được thành lập với trụ sở đặt tại
Rôma, cầu xin Thánh Giuse giúp cho mọi người được chết lành. Tại Việt Nam, ở
nhiều nhà thờ và gia đình, người ta đọc mỗi ngày hai lần kinh nguyện vắn tắt
như sau: "Lạy ông Thánh Giuse, là cha nuôi Đức Chúa Giêsu cùng là bạn thanh sạch rất
thánh đồng trinh Đức Bà Maria, xin Người cầu nguyện cho chúng tôi và cho các kẻ
mong sinh thì trong ngày (đêm) hôm nay".