Hiểu Sống Đức Tin: Tội Với Lỗi Khác Nhau Thế Nào?
(catechesis.net 26-02-2016) Tài Liệu
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Trong Mùa Chay, các tín hữu được mời
gọi ăn năn thống hối, chừa bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Nhưng mà tội với lỗi giống
nhau hay không? Hay là tội thì khác và lỗi thì khác?
Nói cách tổng quát, thì tội
và lỗi là hai điều khác nhau, theo nghĩa là có thể mình có lỗi mà không có tội;
và ngược lại, có thể là có tội mà không có lỗi. Nhưng nếu muốn phân biệt chính
xác hơn, thế nào là tội thế nào là lỗi, thì chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, bởi
vì lối sử dụng ngôn ngữ thường ngày hiểu theo một nghĩa; ngôn ngữ của pháp luật
hiểu theo một nghĩa khác; còn ngôn ngữ của thần học lại theo một nghĩa khác nữa.
Trong tiếng Việt, chúng ta thấy từ “tội” được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau.
Nói chung, tội có nghĩa là gì ngang trái, nó bao hàm một sự vi phạm luật lệ nào
đó. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, “tội” cũng có lúc không bao hàm ý tưởng phạm
pháp, mà chỉ nói lên cảnh xót xa đáng thương. Chẳng hạn như khi nói “bỏ thì
thương, vương thì tội”, hay là khi buộc miệng than “tội nghiệp thay!”. Có thể lối
nói này chịu ảnh hưởng thuyết nhân quả của Phật giáo, theo đó, nhiều thảm cảnh
mà ta chịu bây giờ là một cái “nghiệp” do “tội” đã phạm ở kiếp trước!
Dù sao, trong ngôn ngữ thông thường, nhiều khi sự phân biệt giữa
tội và lỗi nhằm nêu bật mức độ nghiêm trọng của chúng. Lỗi ám chỉ sự sai nhẹ,
còn tội thì nặng hơn. Chẳng hạn như khi đá banh, một cầu thủ đụng bàn tay vào
quả bóng chỉ là một lỗi, chứ không phải là một tội. Một học sinh viết sai chính
tả, thì gọi là “lỗi” văn phạm, chứ không gọi là tội; nhưng mà nếu cậu ta trốn học
đi chơi thì không còn phải là lỗi nữa, nhưng là “tội”. Từ khi Việt Nam tiếp xúc
với văn hóa Tây phương, người ta cũng du nhập tư tưởng pháp lý của nước Pháp, đặc
biệt là sự phân biệt giữa phạm vi hình sự và hộ sự. Từ đó mà có sự phân biệt giữa
tội và lỗi.
- “Lỗi” thuộc về ngành luật dân sự, quy định việc bồi thường thiệt
hại gây ra cho người khác.
- “Tội” thì thuộc về lĩnh vực hình sự, nhằm trừng phạt sự bất
tuân luật pháp quốc gia.
Có khi hai lãnh vực có liên hệ với nhau, thí dụ khi tôi lấy hòn
đá ném vào đầu ông hàng xóm khiến ông bị thương, thì tôi vừa có tội vừa có lỗi.
Tôi sẽ bị truy tố về hình sự bởi vì phạm tội đả thương; và ông hàng xóm kiện
tôi ra toà dân sự để đòi bồi thường về những hậu quả do thương tích gây ra.
Tuy vậy, có nhiều lần hai lãnh vực có thể tách rời. Có trường hợp
có lỗi mà không có tội. Chẳng hạn như con chó nhà tôi tuột xích, chạy ra đường
cắn người hàng xóm: tôi phải bồi thường sự thiệt hại gây ra cho nạn nhân bởi vì
tôi là chủ của con chó. Ngược lại, có thể là có tội mà không có lỗi, thí dụ như
tội vi phạm đến an ninh quốc gia: tội nhân bị giam tù nhưng chẳng phải bồi thường
gì cả.
Đó là những khái niệm về tội lỗi theo
ngôn ngữ thường ngày hay là theo ngôn ngữ pháp luật. Thế còn trong thần học,
thì sao: tội với lỗi có khác nhau hay không?
Trong lãnh vực thần học, chúng ta thấy hai từ “tội lỗi” thường
đi chung với nhau, và vì thế coi như là đồng nghĩa. Tuy nhiên đó là nói đến
ngôn ngữ thần học trong các tiếng của châu Âu, chứ còn ở Việt Nam, chúng ta
chưa có đạt được sự chính xác đó. Một thí dụ cụ thể: trong tiếng Việt, chúng ta
dùng tiếng “tội” cho cả lãnh vực hình luật lẫn lãnh vực luân lý. Nhưng mà trong
các tiếng Tây phương, có hai danh từ khác biệt nhau.
- Tội về hình luật (tạm gọi là tội phạm) được kêu là delictum
trong tiếng Latin, délit trong tiếng Pháp, offence hay trepass trong tiếng Anh.
- Còn tội về luân lý (tạm gọi là tội lỗi) thì được kêu là
peccatum trong tiếng Latin, péché trong tiếng Pháp, sin trong tiếng Anh.
Dĩ nhiên, giữa tội hình sự (tội) và tội luân lý (tội lỗi), có một
vài điểm chung; chẳng hạn như trong cả đôi bên đều có yếu tố vi phạm một điều
luật cấm, (từ đó mà tội bị coi là hành vi xấu, trái luật), và kèm theo những chế
tài. Nhưng sự khác biệt ở chỗ: hình luật dựa theo luật do Quốc gia ấn định, còn
luân lý thì dựa theo luật của Thiên Chúa. Có những trường hợp mà ta thấy có sự
trùng hợp giữa hai bên; thí dụ như việc giết người vừa là một tội hình sự vừa
là một tội luân lý. Nhưng mà có những trường hợp không trùng nhau. Thí dụ tại
Việt Nam, việc phá thai không phải là tội hình sự, tuy là tội luân lý. Ngược lại
việc rước kiệu ở ngoài nhà thờ mà không xin phép công an là một tội hình sự chứ
không phải là tội luân lý.
Như vậy, hình luật xét tới những sự
vi phạm luật của Nhà Nước, còn luân lý thì xét tới những sự vi phạm luật của
Thiên Chúa, có phải như vậy không?
Nói cách tổng quát, có thể
chấp nhận sự phân biệt như vậy. Nhưng khi đi vào chi tiết thì vấn đề phức tạp
hơn nhiều. Trong các nước dân chủ ngày nay, không phải bất cứ lúc nào sự vi phạm
hình luật cũng cấu thành tội phạm. Các bộ hình luật đều dự trù những trường hợp
giảm miễn hình phạt tùy theo mức độ ý chí của đương sự trong đó. Ngoài ra, có
những trường hợp cố tình vi phạm luật nhà nước mà không phải là tội phạm, khi
mà những luật đó đi ngược với Hiến pháp, với luật quốc tế, và thậm chí ngược với
luật luân lý. Nhiều nền pháp chế dân chủ hiện đại chấp nhận trường hợp “vấn nạn
lương tâm”, thí dụ đối với các quân nhân, các bác sĩ: họ có quyền khước từ không
chấp hành mệnh lệnh của cấp trên khi thấy trái ngược với lương tâm. Nhưng tôi
không muốn đi sâu vào vấn đề này. Ở đây tôi chỉ xin nói qua về luật luân lý.
Như đã nói trên đây, ta tạm gọi “tội phạm” là sự vi phạm hình luật của quốc
gia, còn “tội lỗi” là sự vi phạm luật Thiên Chúa. Tuy nhiên, không phải lúc nào
sự vi phạm luật Thiên Chúa cũng là tội lỗi. Chúng ta nhận thấy có sự tiến triển
trong Kinh Thánh cũng như trong lịch sử của Giáo Hội về khái niệm tội lỗi, nhằm
nêu bật yếu tố tự do trách nhiệm khi phạm tội.
Nói như vậy, có nghĩa là trong ý niệm
về tội lỗi, ngoài sự vi phạm luật Chúa, còn phải có yếu tố khác nữa phải không?
Đúng thế. Khi giở lại Kinh Thánh, chúng ta thấy trong những chặng
đầu tiên của Cựu ước quan niệm về tội lỗi, không khác gì với quan niệm về tội
phạm của hình sự: ai vi phạm một điều luật cấm sẽ bị trừng phạt tức khắc, không
cần xét đến chủ ý của đương sự. Chúng ta có thể thấy một trường hợp điển hình
nói ở sách Samuel, quyển Hai, chương 6 câu 8. Khi vua Đavit rước Hòm Bia Thánh
về Giêrusalem, thì trên đường đi, chiếc xe bị lắc lư, và Hòm Bia sắp bị đổ, ông
Uzzia đưa tay ra đỡ, thế là ông bị phạt chết tươi, bởi vì đã có luật cấm không
ai được phép chạm đến Hòm Bia Thánh. Dĩ nhiên, luật cấm đó được đặt ra nhằm bảo
vệ sự tôn kính dành cho đồ vật thánh; nhưng mà ông Uzzia chạm hòm bia đâu có phải
vì ông ta khinh mạn đồ thánh, mà chỉ vì muốn bảo vệ cho nó khỏi bị rơi. Thế mà
cũng bị coi là tội trọng!
Dần dần, nhờ các ngôn sứ, ta thấy dân Israel được giáo dục để có
một ý thức rõ rệt hơn về tội. Họ đừng nên coi luật của Chúa như đồ nguy hiểm tựa
như trái mìn hay như dòng điện, ai mà đụng tới là toi mạng! Chúa không có ra luật
để mà ra oai thị võ cho con người phải khiếp sợ. Luật của Chúa cần được lồng
trong khung cảnh của giao ước tình yêu. Luật của Chúa nhằm duy trì tình nghĩa
thiết giữa Thiên Chúa với con người, và chung quy cũng nhằm để bảo vệ con người
mà thôi chứ Chúa chẳng được thêm lợi lộc gì hết! Vì thế, tội được nhìn không chỉ
như là sự vi phạm luật Chúa nhưng như là sự bất tuân, cãi lệnh Chúa, phụ ơn bạc
nghĩa, phản bội tình yêu,.v.v... Như vậy, các ngôn sứ đã giúp cho dân Do thái
tiến triển thêm trong quan niệm về tội lỗi. Một đàng, họ đừng coi luật Chúa như
đồ nguy hiểm chết người, phải cẩn thận kiêng lánh đừng đụng tới kẻo mang họa
vào thân, song hãy coi đó như là món quà của giao ước. Đàng khác, chỉ có tội lỗi
khi có ý thức làm trái ý của Chúa.
Như vậy, nếu vì vô tình mà vi phạm luật
Chúa, thì không có tội phải không?
Đúng như vậy. Về điểm này, chúng ta thấy có sự tiến triển trong dân
Do thái. Vào lúc đầu, Kinh Thánh có nói tới những tội phạm vì vô tình, vô ý thức.
Thí dụ như sách Lêvi chương 4 nói tới hy lễ dâng lên để xin xá các tội phạm vì
vô tình. Và Thánh Vịnh 19, câu 13-14, xin Chúa thứ tha cho những tội “phạm mà
chẳng hay”, nghĩa là phạm mà không có ý thức, không biết! Nhưng mà dần dần, thì
vừa nói, các ngôn sứ đã dạy cho dân ý thức về yếu tố bất tuân, phản bội của tội
lỗi. Nếu thiếu yếu tố ý chí bất tuân thì không phải là tội. Tuy nhiên, chúng ta
cũng nên cẩn thận khi nói đến “vô tình, không biết”.
Có những tội do sự “vô
tình không biết” gây ra, nghĩa là chính sự “không biết” là một tội. Chúng ta
hãy lấy một thí dụ cụ thể. Một người kia có cha mẹ già. Anh ta có thể phạm tội
bất kính đối với cha mẹ khi anh ta đã nói những lời thất lễ với các ngài; chuyện
đó rõ rồi. Nhưng anh ta cũng có thể bất hiếu với cha mẹ khi không chịu trông
nom cha mẹ già. Có thể là anh ta sẽ bào chữa rằng mình không biết, và mình cũng
chẳng làm điều gì vô lễ với các ngài cả. Tuy vậy, sự “không biết không làm”
cũng là lỗi với bổn phận hiếu thảo. Chính vì thế mà các nhà luân lý cũng xét tới
các trường hợp do sự không biết gây ra, khi mà sự không biết là hậu quả của sự
lơ đãng biếng nhác. Thí dụ một linh mục không chịu học hỏi những điều thuộc về
bổn phận của mình, đưa tới những quyết định sai lầm, hay là không chu toàn hết
các bổn phận của một chủ chăn thì cũng có tội. Từ đó, chúng ta thấy trong kinh
Cáo Mình ở đầu Thánh lễ, Giáo Hội xin Chúa thứ tha, không những là các tội đã
phạm “trong tư tưởng, lời nói, việc làm” mà cả các tội phạm vì đã “thiếu sót bổn
phận”.
Trong thần học luân lý hiện đại, ta thấy có khuynh hướng: những
tội phạm do sự thiếu sót bổn phận, đặc biệt là trong lãnh vực tình liên đới với
tha nhân, khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước bao nhiêu cảnh lầm than đói khổ của
tha nhân, trước bao nhiêu cảnh bất công xã hội. Thậm chí, có nhà thần học còn
muốn nói đến “tội xã hội”. Tuy nhiên, ý niệm này cần được giải thích rõ ràng
hơn. Khi nói đến tội xã hội, thì không nên hiểu rằng, trăm tội đều đổ cho xã hội,
và chúng ta chỉ là nạn nhân. Nói đến tội xã hội, các nhà luân lý chỉ muốn nhấn
mạnh rằng bất cứ hành vi nào của ta, dù tốt dù xấu, cũng đều có ảnh hưởng đến
xã hội. Ta làm điều tốt thì xã hội được nhờ, ta làm bậy thì xã hội bị hư hỏng
lây (Một con sâu làm rầu nồi canh). Ngoài ra, khi nói đến tội xã hội, các nhà
luân lý muốn nhấn mạnh đến trách nhiệm của chúng ta đối với tình trạng xã hội,
cách riêng những người lãnh đạo xã hội: sự lơ đãng bổn phận, sự nhút nhát của họ
làm cho xã hội càng ngày càng thêm sa đọa, thay vì phải được thăng tiến lên.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói đến yếu tố ý thức và vô tri trong khía cạnh
tội lỗi ở số 1859-1860, và trách nhiệm xã hội ở các số 1868-1869.