Hiểu Sống Đức Tin: Tại Sao
Tháng Năm Được Coi Là Tháng Đức Mẹ?
(catechesis.net)
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Tháng Năm được gọi là tháng Đức Mẹ. Tại
sao vậy?
Thực ra trong một
năm, có tới mấy tháng dâng kính Đức Mẹ lận. Ngoài tháng Năm (tục
gọi là tháng hoa) và tháng Mười (tháng
Mân côi), tại vài nơi,
người ta còn dâng tháng Tám kính Trái tim Mẹ, và tháng Chín để kính bảy sự đau
đớn Đức Mẹ. Xét theo khía cạnh lịch sử phụng vụ, chúng ta phải đi từng cấp một:
trước tiên là thói tục dành ra 30 ngày để kính Đức Mẹ; và kế đó là tục găn vào
giai đoạn nào trong năm dương lịch.
Tục lệ dành ra một tháng để kính Đức Mẹ xem ra
phát xuất từ thế kỷ thứ VI nơi vài tu sĩ bên Ai cập. Thường thường, để dọn mình
mừng lễ nào đó, các tín hữu quen dành ra một vài ba ngày trước để chuẩn bị tâm
hồn, như chúng ta thấy các lễ vọng, các tuần tam nhật cửu nhật, và cách riêng
hai mùa Chay và mùa Vọng để chuẩn bị lễ Phục Sinh và Giáng Sinh. Thế nhưng các
tu sĩ bên Ai Cập, vào mùa Giáng Sinh, thì không những họ tổ chức những lễ nghi
mừng biến cố Chúa ra đời, nhưng liền với mầu nhiệm của Chúa Cứu Thế, họ còn gắn
thêm những biến cố của Đức Maria nữa. Vì vậy, suốt từ ngày 10 tháng Mười Hai
cho tới 8 tháng Giêng, mỗi ngày họ suy niệm Kinh Thánh, chú giải và rút ra một
bài học cho đời sống hàng ngày.
Sang thời Trung
cổ, vào thế kỷ XI, thì các Giáo Hội Đông phương dâng tháng Tám kính Đức Mẹ. Trọng
tâm là lễ Mẹ lên trời ngày 15; và họ dâng 15 ngày trước để chuẩn bị và 15 ngày
kế để tiếp nối. Dù sao thì ta thấy hai tục lệ vừa nói gắn liền với lịch phụng vụ.
Còn bên các
Giáo Hội Tây phương thì khác, tục lệ dành tháng Năm để kính Đức Mẹ không gắn với
một lễ phụng vụ, nhưng dựa trên một thói tục dân gian mà Giáo Hội muốn cải biến.
Tại nhiều nơi bên Âu châu, tháng Năm trùng với mùa xuân; mà thói tục nhiều nơi
đã tổ chức những lễ hội, tỉ như tại Rôma, người ta mở ra hội hoa, với những trò
chơi, triển lãm dâng kính thần Hoa. Vào dịp ấy, cũng có những cuộc thi đua sắc
đẹp giữa các thiếu nữ, những dịp để các cô các cậu làm tình nữa. Tưởng cũng nên
biết là không phải riêng gì tại Rôma, mà tại nhiều nơi khác bên Âu châu cũng có
những cảnh tương tự khi tháng Năm đến. Thực ra khung cảnh thiên nhiên dễ đưa tới
những tâm tình ấy; tháng Năm là tháng ấm của mùa xuân, thiên nhiên đầy những
hoa nở với hương thơm ngào ngạt, làm cho con người cảm thấy sảng khoái, vui
tươi. Nhằm thánh hóa những phong tục dân gian, các tín hữu muốn hướng những tâm
tình tự nhiên lên đức Trinh nữ Maria, người trinh nữ kiều diễm, không vì nhan
sác tự nhiên cho bằng vì vẻ đẹp linh hồn, không hề vướng mắc tì ố của tội lỗi.
Vậy tục lệ dâng tháng hoa cho Đức Maria
bắt đầu từ thời nào?
Xét vì đây là một
tâm tình bộc phát của các tín hữu, chứ không phải do quyết định của Giáo quyền,
nên không có một nhật kỳ nhất định. Vào thế kỷ XIII, vua Alfonso X nước Tây Ban
Nha đã sáng tác một bài thơ, trong đó có đoạn hô hào dành tháng Năm để ca ngợi
Đức Maria. Thế thì hiểu là tục lệ ấy chắc là đã có từ trước.
Bên Đức, vào thế kỷ thứ XIV, chân phước
Henrico Suso, Dòng Đaminh, đã bắt đầu trồng hoa trong nhà dòng vào tháng Tư, để
có thể lấy hoa kết triều thiên đội lên tượng Đức Mẹ vào đầu tháng Năm. Nên biết
là, Henrico là một nhà giảng thuyết bình dân thời đó, nên chắc rằng ngài đã
tuyên truyền để cho bổn đạo cũng bắt chước mình.
Hai thế kỷ sau,
một cha Dòng Benedicto, Wolfango Seidl, đã viết tập sách nhỏ tựa đề "Tháng
5 thiêng liêng”, trong
đó đề nghị những phương thức cầu nguyện hay những lễ nghi để thay thế những
thói quen phàm tục.
Sang thế kỷ
XVII, người ta đã thấy nhiều nơi tổ chức những buổi rước hoa vào ngày đầu tháng
Năm và trong các Chúa Nhật trong tháng đó; đồng thời, với việc đọc kinh cầu Đức
Mẹ và những bài ca khác. Ngoài việc dâng hoa thiên nhiên, các tín hữu cũng được
khuyến khích dâng những hoa thiêng liêng là các việc lành nhân đức cho Đức Mẹ.
Nhằm thể hiện những mục tiêu ấy, nhiều tác giả (đặc
biệt là các cha Dòng Tên) đã soạn ra những sách trình bày đời sống
của Đức Maria, với những tư tưởng rút từ Kinh Thánh, các Giáo phụ, các nhà tu đức,
ngõ hầu các tín hữu có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp tinh thần của Mẹ mà bắt chước.
Những sáng kiến tự phát của các cá nhân từ các gia đình, trường học, tu viện, dần
dàn được quảng bá rộng, đi vào các họ đạo.
Sang thế kỷ
XIX, Đức Giáo Hoàng Pio VII, để ghi nhớ việc mình được trả về Rôma vào tháng
Năm năm 1814, sau thời gian bị Napoleon giam lỏng tại Paris, đã khuyến khích việc
cử hành tháng Năm dâng kính Đức Maria. Các vị kế nhiệm cũng khuyến khích tục lệ
ấy; đặc biệt vào thời đại gần đây, vào năm 1954, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã thiết
lập lễ kính "Đức Maria Nữ Vương Trời Đất" vào ngày kết thúc tháng Năm. Lịch phụng vụ canh tân sau Công Đồng
Vatican II đã dời lễ này sang ngày 22 tháng Tám, bát nhật lễ "Đức
Mẹ Hồn Xác Lên Trời",
và thay vào đó bằng lễ "Đức Mẹ Thăm Viếng".
Thế còn tháng Mười có liên hệ gì với
việc tôn kính Đức Maria?
Tháng Mười quen gọi là tháng Mân Côi, không phải
bởi vì hoa mân côi nở vào tháng Mười cho bằng, vì đã có lễ kính Đức Mẹ với tước
hiệu "Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi". Tuy việc lần chuỗi Mân Côi đã có từ thời
Trung cổ, nhưng lễ phụng vụ kính Đức Mẹ Mân Côi chỉ mới được Đức Giáo Hoàng Pio
V thành lập vào năm 1573, để tạ ơn Chúa sau cuộc chiến thắng của đạo quân Công
Giáo ở Lepanto vào ngày 7 tháng Mười năm 1571. Lúc đầu, ngày lễ đó được cử hành
vào Chúa Nhật đầu tháng Mười; nhưng từ năm 1913, lễ này đã được ấn định vào
ngày 7 tháng Mười như hiện nay.
Họa theo tục lệ
đã có vào tháng Năm, một số tu sĩ cũng muốn dâng tháng Mười, tháng của mùa gặt
bên Âu châu, cho Đức Maria. Vào năm 1581, một tu sĩ Dòng Phanxicô, người Đức,
tên là Fridolino Nurnberg đã viết cuốn sách mang tựa đề: ”Mùa
thu thiêng liêng”, với
đường hướng giống như ”tháng Năm thiêng liêng”. Phần Đòng Đaminh, thì quảng bá việc
chuẩn bị lễ Mân Côi với 15 ngày trước đó, và kéo dài ra suốt tháng Mười. Dĩ
nhiên, thay vì dâng hoa như hồi tháng Năm, việc đạo đức chính của tháng Mười để
tôn kính Đức Mẹ là lần chuỗi Mân Côi. Tại các nhà thờ của Dòng Đaminh, các cha
cũng dùng dịp này để tổ chức những buổi giảng thuyết, không những về Đức Maria
mà còn về toàn bộ đức tin Kitô giáo, được tóm lại trong 15 mầu nhiệm kính nhớ
việc Nhập Thể và Cứu Chuộc của Đức Kitô. Tục lệ này được đẩy mạnh hơn nữa trong
những thế kỷ XIX và XX, với những lời hô hào của các Đức Giáo Hoàng, kể từ Đức
Leô XIII, và với hai lần Đức Mẹ hiện ra tại Lourdes và Fatima.
Thế còn hai tháng Tám và tháng Chín?
Tục lệ này chưa
được phổ thông lắm. Nguồn gốc cũng tương tự như tháng Mân Côi, nghĩa là bắt đầu
từ một lễ phụng vụ kính Đức Mẹ rồi kéo dài ra cả tháng. Nói khác đi, dựa vào lễ
kính Mẫu Tâm Đức Maria, trước đây kính ngày 15 tháng Tám, và lễ kính 7 sự
thương khó Đức Bà, kính ngày 15 tháng Chín. Xét về lịch sử, phải nói rằng, lễ
kính bảy sự thương khó Đức Mẹ có trước, do các cha Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ cổ động:
lúc đầu chỉ là một lễ trong Dòng và mãi tới thế kỷ XIX (năm 1814) mới được phổ
biến ra toàn thể Hội Thánh. Các cha cũng là những người cổ động việc suy gẫm bảy
sự thương khó Đức Bà; đó là:
- 1) Lời tiên tri Simeon như lưỡi gươm đâm
thâu qua tâm hồn;
- 2) Việc chạy
trốn qua Ai Cập;
- 3) Việc lạc mất
Chúa Giêsu trong đền thờ;
- 4) Gặp Chúa
Giêsu trên đường khổ giá;
- 5) Việc chứng
kiến Chúa đóng đinh vào thập giá và bị lưỡi đòng đâm thâu;
- 6) Việc hạ
xác Chúa;
- 7) Việc mai
táng Chúa trong mộ.
Việc suy gẫm mỗi
chặng kèm theo việc đọc 7 kinh Kính Mừng.
Còn lễ kính "Trái
Tim Đức Mẹ" thì chỉ mới được thành lập vào năm 1944,
sau khi Đức Giáo Hoàng Pio XII dâng thế giới cho Trái Tim Đức Mẹ. Tuy nhiên, việc
sùng kính Trái Tim Đức Mẹ đã có từ thế kỷ XVII, do những tác phẩm của thánh
Gioan Eudes. Lúc đầu, lễ kính Mẫu Tâm được đặt vào ngày 22 tháng Tám, tức là
bát nhật của lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Nhưng lịch phụng vụ cải tổ sau Công Đồng
Vatican II đã đặt lễ này vào ngày thứ bảy liền sau lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Xét
về nguồn gốc, thì việc dành tháng Tám cho Mẫu Tâm còn quá mới mẻ. Thêm vào đó,
do việc xê dịch lễ phụng vụ qua tháng khác, chắc là lể này khó tồn tại.
Vậy một năm có 12 tháng, mà hết 4
tháng kính Đức Mẹ rồi; như vậy có lẽ hơi nhiều đấy chứ?
Nhiều ít còn
tùy những yếu tố khác nữa. Có lẽ cần thêm rằng, không những lòng đạo đức bình
dân đã dành đôi ba tháng trong năm để kính Đức Mẹ, mà hằng tuần, họ còn dành ra
một ngày cho Đức Maria nữa, tức là ngày thứ bảy. Tục lệ này đã trở nên phổ biến
từ thế kỷ thứ XI. Thêm vào đó, là những ngày lễ rải rác suốt năm phụng vụ. Thoạt
tiên xem ra hơi nhiều, choán chỗ dành cho Chúa hay cho các vị thánh khác. Sự thực
không hải như vậy.
Từ Công Đồng Vatican II, lòng sùng kính Đức
Maria đã chuyển hướng nhiều. Đức Maria không phải chỉ là đối tượng (đích
điểm) của lòng đạo đức sùng kính của chúng ta,
nhưng Đức Maria còn trở nên mẫu gương của lòng đạo đức nữa. Nói khác đi, không
những chúng ta dâng lời cầu nguyện, chúc tụng lên Đức Maria, nhưng chính Đức
Maria là mẫu gương dạy chúng ta biết cách cầu nguyện ca khen Thiên Chúa nữa; thậm
chí Đức Maria cùng với chúng ta chung lời cầu nguyện chúc tụng Chúa. Ta có thể
lấy một ví dụ: trong kinh chiều mỗi ngày, khi xướng lên bài ca "Magnificat”
(Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa), Giáo Hội không những là mượn lấy lời của Đức Maria để chúc tụng
Thiên Chúa, mà ra như còn muốn mời Đức Maria tới để hợp với tất cả cộng đoàn
tín hữu ca ngợi Chúa. Hiểu như vậy, việc tôn kính Đức Maria không còn choán chỗ
của Chúa.
Chúng ta có thể
nói rằng, những tâm tình cầu nguyện dành cho Đức Maria sau cùng là sẽ hướng về
Đức Kitô, bởi vì Đức Maria muốn cho chúng ta tiến gần tới Đức Kitô hơn. Đối lại,
trong tất cả các mầu nhiệm của Đức Kitô, chúng ta đều thấy Đức Maria ở bên cạnh.
Đây là một chương trình huấn giáo mục vụ mà Giáo Hội muốn nhằm tới từ Công Đồng
Vatican II: làm sao cho Đức Maria trở thành khuôn mẫu của đời sống đạo đức của
người tín hữu, theo nghĩa là làm sao chúng ta học biết nơi Đức Mẹ cách thờ phượng
Thiên Chúa cách đúng đắn, cách riêng qua việc thông dự vào chương trình cứu chuộc
của Chúa Kitô: sẵn sàng tuân theo ý định của Thiên Chúa, sẵn sàng dâng hiến cuộc
đời để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, khẩn nài van xin cho nhân loại được hưởng
ơn cứu độ,.v.v...