Hiểu Sống Đức Tin: Có Bao Nhiêu Ơn Chúa Thánh Thần?
(catechesis.net)
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Hôm nay, Giáo Hội mừng Đại Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong số các
kinh cầu xin Chúa Thánh Thần, chúng ta thấy có kinh cầu “Xin Bảy Ơn Chúa Thánh
Thần”. Vậy, Chúa Thánh Thần chỉ ban bảy ơn thôi hay sao? Còn các đặc sủng Thánh
Linh thì xếp ở chỗ nào?
Chúa Thánh Thần không chỉ
ban 7 ơn mà thôi, nhưng còn rất nhiều ơn nữa. Trước khi vào đề, thiết tưởng nên
lưu ý hai điểm liên quan tới vấn đề dịch thuật.
- Trước hết là danh xưng của Ngôi Ba Thiên Chúa: Trong tiếng
Latin, danh xưng là “Spiritus
Sanctus” (tiếng Pháp là “Saint Esprit”, tiếng Anh là “Holy Spirit”),
nhưng khi được dịch sang tiếng Việt, chúng ta thấy có ba từ ngữ: “Chúa Thánh Thần”, “Thánh Linh”, “Thần Khí”.
Một cách tương tự như vậy, các từ ngữ “ân ban,
ân huệ, linh ân, đặc sủng, đoàn sủng, hồng ân, quà tặng, tặng phẩm” chung quy cũng hàm ngụ một tư tưởng thần
học là “điều được
trao ban”. Do đó, trước khi nói đến các ơn mà “Chúa Thánh Thần” ban cho chúng ta, thì cần phải nói đến chính Thánh Thần là Đấng được Chúa Cha ban cho chúng ta. Điều này được nêu bật
nơi nhiều tác phẩm của Tân ước, thí dụ như Tin mừng thánh Luca (Lc 11,13), Tin mừng thánh Gioan (Ga 14,26; 15,26), và thánh Phaolô đồng
hóa Thánh Thần với tình yêu được đổ tràn xuống tâm hồn chúng ta (Rm 5,5).
- Sau đó, người ta mới bắt đầu nghĩ tới những tác động của “Chúa Thánh Thần” nơi chúng ta, và tìm cách mô tả chi tiết
thành các ân huệ mà Ngài ban cho các tín hữu, xét theo
từng cá nhân hoặc xét theo phần tử của cộng đoàn. Đó là nguồn gốc của thần học
về các ân huệ của Chúa Thánh Thần.
Vậy có bao nhiêu ân huệ của Chúa
Thánh Thần?
Không thể nào làm một bản thống kê đầy đủ được. Như vừa nói, ân
huệ lớn nhất mà thánh Phaolô ghi nhận đó là “agape”,
tức là lòng yêu mến, nói ở thư Rôma Chương 5 câu 5. Cần móc nối tư tưởng này với
thư thứ nhất gửi Corinto Chương 13 (quen gọi
là bài ca đức ái), khi thánh Phaolô đặt “agape” như chóp đỉnh của mọi thứ ân huệ. Mãi
đến thời Trung cổ, thánh Tôma Aquinô mới trình bày hệ thống của các ân huệ
Thánh Linh dựa theo hai danh sách: một danh sách gồm 7 ơn Chúa Thánh Thần nhắm
đến việc tăng trưởng nhân đức; còn một danh sách khác dựa theo các đặc sủng hay
đoàn sủng.
Danh sách 7 ơn Chúa Thánh Thần có cơ
sở nào trong Kinh Thánh không?
Danh sách này dựa theo một bản văn của Cựu ước, ở sách Isaia
11,1-3. Bản văn Do Thái viết như sau: “Từ gốc tổ
Giesse sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí
Giavê sẽ ngự trên vị này: Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn, Thần Khí mưu lược và
dũng mãnh, Thần Khí hiểu biết và kính sợ Giavê. Lòng kính sợ Giavê làm cho Người
hứng thú”.
Đoạn văn này nói đến Đấng
Mêsia được Thần Khí của Thiên Chúa trang bị với những đức tính của tiền bối: “khôn ngoan” và “trí tuệ” như vua Salomon; “mưu lược” và “hùng mạnh” như vua Đavit; “hiểu biết” và “kính sợ
Đức Chúa”như các tổ phụ. Bản văn Do Thái chỉ nói đến ba cặp Thần
Khí (nghĩa là mới chỉ có 6 ơn),
nhưng ơn “kính sợ” được lặp lại hai lần. Nhằm tránh sự
trùng hợp, bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Hy Lạp và Latin đã sửa đổi thành “hiếu thảo”, và như vậy là có tất cả được
bảy ơn. Con số 7 tượng trưng cho sự sung mãn. Tự nó, bản văn của ngôn sứ Isaia
nói đến những đức tính của Đấng Mêsia; nhưng thánh Augustin và thánh Gregorio Cả
áp dụng vào những ân huệ mà Thánh Linh ban cho các Kitô hữu.
Bảy ân huệ ấy có ích lợi gì cho đời sống
đạo không?
Có chứ. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết rằng: “Các ơn này bổ túc và hoàn thiện những nhân đức nơi
những người lãnh nhận, giúp cho người tín hữu dễ dàng và mau mắn tuân theo các
điều Thiên Chúa soi sáng”.[1] Thực
ra, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo chỉ nói cách tổng quát vậy thôi, chứ không
đi sâu vào chi tiết về bản chất của mỗi ân huệ. Thần học cổ điển đã xếp đặt các
ân huệ cách hệ thống từ trên xuống dưới, và cũng giải thích vai trò mỗi ân huệ
như thế này:
- Đứng đầu là ơn Khôn
ngoan (hay cũng
dịch là ơn Cao minh), giúp chúng ta gắn bó với Thiên Chúa, nguồn hạnh
phúc chân thật.
- Thứ hai là ơn Thâm hiểu (hay cũng dịch là ơn Hiểu biết),
ban cho ta sự hiểu biết sâu sắc các chân lý đức tin.
- Thứ ba là ơn Minh luận (hay cũng dịch là ơn Thông
minh), giúp ta phán đoán giá trị của các thụ tạo theo ánh sáng đức
tin.
- Thứ bốn là ơn Chỉ giáo (hay là ơn biết Lo liệu),
ban cho ta biết chọn lựa con đường nào ý Chúa hơn cả và ngoan ngoãn để cho Chúa
hướng dẫn.
Bốn ân huệ trên thuộc về
trí tuệ; ba ân huệ còn lại thuộc về ý chí, đó là:
- Thứ năm là ơn Sùng hiếu (hay là ơn Hiếu thảo hoặc ơn
Đạo đức), ban cho ta tôn thờ Thiên Chúa với tinh thần con thảo và
liên hệ với mọi người như con cái cùng Cha.
- Thứ sáu là ơn Dũng cảm (hay là ơn Mạnh bạo),
giúp ta vượt thắng mọi khó khăn hoặc chịu đựng đau khổ nhờ sức mạnh Chúa ban.
- Thứ bảy là ơn Kính
sợ, giúp ta tránh tội và loại bỏ sự quyến luyến của cải trần thế khi nó làm
mất lòng tôn kính mến yêu Chúa.
Đó là giải thích bản chất của từng ân huệ. Còn khi bàn về vai
trò của những ơn này, thì thánh Tôma Aquinô cho rằng: bình thường chúng ta thực
hành điều tốt nhờ các nhân đức; các ân huệ của Chúa Thánh Thần tăng cường sức lực
để chúng ta thực hiện các nhân đức “cách anh
hùng”, điển hình như trường hợp mà Giáo Hội đòi hỏi nơi hồ sơ phong
thánh. Dù sao, đây là lối giải thích của thánh Tôma Aquinô về sự cần thiết của
bảy ân huệ Chúa Thánh Linh. Trên thực tế, Chúa Thánh Thần ban các ân huệ cho tất
cả mọi tín hữu chứ không riêng gì cho các vị thánh. Duy có điều là các vị thánh
ngoan ngoãn để cho Thánh Thần dẫn dắt, còn chúng ta thì làm ngơ giả điếc, không
đếm xỉa đến tiếng thôi thúc của Thánh Thần tiến đến sự trọn lành.
Bảy ơn Chúa Thánh Thần có khác với
các đặc sủng Thánh Linh không?
Xét về từ ngữ thì không có gì khác. “Ơn Chúa Thánh Thần” và “đặc sủng
Thánh Linh” đều là những
ơn ban (hồng ân,
tặng phẩm) của Ngôi
Ba Thiên Chúa. Nhưng xét về mục tiêu, thì các nhà thần học Trung cổ đã phân
chia ra thành hai nhóm.
- Nhóm thứ nhất bao gồm bảy linh ân như vừa nói, mục tiêu là
giúp các tín hữu nên thánh.
- Nhóm thứ hai gồm những ân huệ mà Thánh Linh ban cho các tín hữu
nhằm giúp ích cho cộng đoàn Giáo Hội.
Đạo lý này dựa theo giáo huấn của thánh Phaolô. Khi viết thư cho
các cộng đoàn, thánh tông đồ nhận thấy Thánh Linh đã ban cho các tín hữu rất
nhiều ân huệ: những ân huệ này mang tính cách đa dạng, không phải ai ai cũng
lãnh được (nghĩa là
người có người không), và có người lãnh được ơn này nhưng không nhận
được ơn kia (nghĩa là
không đồng đều). Không nói ai cũng đoán được, chuyện ghen tương
phân bì đương nhiên xảy ra: kẻ không có thì ghen tị với kẻ có; người có thì
vênh váo tự phụ với người không có; giữa hai người đều có thì tranh chấp với
nhau, xem ai trọng hơn ai. Trong bối cảnh đó, thánh Phaolô đã giải thích về vai
trò của các đặc sủng thế này: Chúa Thánh Thần không phân phát đồng đều các ân
huệ cho mỗi người bởi vì mục tiêu của chúng không phải là để tôn vinh cá nhân,
nhưng là để xây dựng cộng đoàn. Cộng đoàn được ví như một thân thể, với nhiều bộ
phận, cơ quan, chức năng khác nhau. Tất cả mọi bộ phận đều quan trọng cho sự hoạt
động của thân thể: mắt cần đến chân tay, đầu cần đến trái tim,v.v... Không cơ
quan nào có quyền lên mặt tự đắc, khinh chê các bộ phận khác, bởi vì nhiều khi
chính những cơ quan bé nhỏ tế nhị nhất lại là cơ quan sinh tử.
Vậy có tất cả bao nhiêu đặc sủng?
Thánh Phaolô đã liệt kê bốn danh sách các đặc sủng:
- Hai danh sách ở Chương 12 của thư thứ nhất gửi cộng đoàn tín hữu
Corinto, câu 8 đến câu 10, và câu 28 đến câu 30.
- Danh sách thứ ba ở thư
gửi cộng đoàn tín hữu Rôma, Chương 12 câu 6.
- Danh sách thứ bốn ở thư gửi cộng đoàn tín hữu Epheso, Chương 4
câu 11.
Trong bốn danh sách, người ta thấy có những đặc sủng trùng hợp với
nhau, nhưng cũng có nhiều dị biệt. Từ đó, ta có thể nhận xét rằng, không thể
nào làm bản thống kê toàn thể các đặc sủng được. Con số các đặc sủng không bị
giới hạn, và được Chúa Thánh Thần ban phát cho Giáo Hội tùy theo nhu cầu mỗi
nơi và mỗi thời.
Có dấu hiệu nào nhận biết rằng mình
đã nhận được một đặc sủng không?
Tùy chúng ta hiểu đặc sủng theo nghĩa nào, mà ta đánh giá về sự
hiện hữu của nó.
- Có người hiểu đặc sủng theo nghĩa là ân huệ khác thường; chẳng
hạn như: chữa bệnh, nói ngôn ngữ lạ, nói tiên tri,… theo nghĩa này, đặc sủng hiếm
lắm.
- Người khác thì hiểu đặc sủng theo nghĩa bình thường; chẳng hạn
như: ơn phục vụ, ơn an ủi,… theo nghĩa này, số người lãnh đặc sủng nhiều hơn.
Dù sao, các nhà tu đức đã lưu ý hai điểm sau đây:
- Thứ nhất, các đặc sủng
này được ban nhằm xây dựng cộng đoàn, chứ không phải để khoe khoang vênh váo;
vì thế đừng ai sử dụng đặc sủng để tìm cầu danh lợi cá nhân.
- Thứ hai, người nhận đặc sủng chưa chắc đã là người thánh thiện;
vì thế Chúa Giêsu đã cảnh cáo rằng: vào ngày phán xét, có người tự hào rằng
mình đã nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ nhân danh Chúa, nhưng họ sẽ nghe tiếng
đáp lại: “Ta không
biết các ngươi” (Mt 7,23). Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu
Corinto rằng: hãy ước ao đặc sủng cao quý nhất, đó là đức ái.
Ngoài 7 ân huệ và các đặc sủng, Chúa
Thánh Thần còn ban những ơn nào nữa không?
Chúng ta không thể nào thiết lập danh sách kiểm kê các hoạt động
của Chúa Thánh Thần. Tôi chỉ muốn thêm một điều, là ngoài 7 ân huệ (nhằm giúp các tín hữu nên thánh) và các đặc sủng (nhằm xây dựng cộng đoàn), các nhà thần
học còn nói đến 12 hoa trái của Chúa Thánh Linh, dựa theo đoạn văn
Gl 5,22-23, được sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo liệt kê lại, đó là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ,
lương thiện, hiền hoà, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết”.[2]
[1] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1831.
[2] Ibid.,
số 1832.