LÀM
GÌ CÓ LINH HỒN, THIÊN ĐÀNG, HOẢ NGỤC?
Lm.
Anphong Nguyễn Công Vinh
Có người
nói rằng:
-Làm gì
có linh hồn, nếu có thì khi người ta chết phải thấy linh hồn bay ra, phải thấy
mới nói được là có.
-Làm gì
có đời sau mà thiên đàng với hoả ngục; đây chỉ là cách hứa hẹn và hù doạ mà
thôi.
Nếu những phát biểu trên là
đúng thì buồn quá đi bạn ơi, vì như thế chúng mình chẳng khác gì con vật, chết
là hết như nhau! Bạn nghĩ sao? Có muốn giống mấy con vật không?
1.Con người được tạo thành giống
hình ảnh Thiên Chúa và được đặt để trong trần gian. Cuộc sống thể xác của chúng
ta được đo bằng thời gian. Trong quãng thời gian đó chúng ta biến đổi, già đi
và cuối cùng chấm dứt bằng cái chết[1].
Tuy nhiên khi tạo thành con người, Thiên Chúa cũng phú ban trong họ một mầm sống vĩnh cửu. Kinh Thánh diễn tả
chân lý nầy bằng việc “Thiên chúa thổi
sinh khí vào mũi Ađam”[2].
Nhờ đó mà con người là xác và hồn; con người vượt trên các loài thụ tạo khác[3].
Xác thì thấy được, hồn thì không thấy được, nhưng cảm quan giúp chúng ta nhận
biết được điều nầy. Triết gia Blaise Pascal[4]
: “Con người là cây sậy biết suy tư”.
Mặc dầu là bé nhỏ yếu ớt về thể chất, nhưng vĩ đại nhờ tinh thần, tinh thần là
báu vật của con người. Nguyễn Du cũng nhận biết sự hiện hữu linh thiêng của phần
hồn nầy: “Trông vào ngọn cỏ lá cây, thấy
hiu hiu gió thì hay chị về”[5].
Niềm tin nầy dân tộc chúng ta đã có từ bao đời, chứ không phải là bày đặt,
hão huyền! Đây là niềm khát vọng muôn thuở của con người. Nếu không có đời sau,
không có linh hồn thì làm lễ cầu siêu, cầu hồn làm gì cho mất công.
2.Vì thế, cuộc sống thể xác tại
trần gian không phải là tất cả sự hiện hữu của con người, nhưng chỉ là một giai
đoạn, một phần, trong cuộc sống toàn bộ.
Do đó, cuộc sống thể xác nầy cũng không tách lìa khỏi cuộc sống tinh thần.
Thánh Phaolô xác quyết chân lý nầy khi nói tới sự biến đổi sau cái chết[6]
và Kinh Thánh nói: “các việc họ làm đều
theo họ về đời sau”[7]. Còn Giáo Hội Công
Giáo thì tuyên xưng: Tôi tin xác loài người
sẽ sống lại, tôi tin sự sống vĩnh cửu[8].
Niềm tin nầy không phải chỉ do cảm thức tự nhiên, nhưng chính yếu là do mặc
khải của Thiên Chúa[9].
Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là sự sống lại
và là sự sống”[10]. Chính sự sống nầy
giải đáp cho mọi người biết về nguồn gốc, ý nghĩa và mục đích tối hậu của con
người. Sự sống đời sau còn là sự giải thoát cuối cùng[11]
và là sự hoàn thành ơn gọi tiến tới sự hoàn hảo nguyên thuỷ.
3.Cuộc sống mai sau như thế
nào, chưa ai biết rõ được. Chỉ biết điều nầy là:
-Thiên Chúa sẽ vĩnh viễn trả lại
sự bất diệt cho thân xác, bằng cách kết hợp nó với linh hồn, nhờ quyền năng phục
sinh của Chúa Giêsu Kitô[12];
-Cuộc sống đời sau không phải
là cuộc sống nầy được tiếp tục như hiện trạng, nhưng được đổi mới. Chúa Giêsu
đã phục sinh với thân xác của Người trước kia[13],
nhưng Người không trở lại với sự sống thế trần bị lệ thuộc không gian và thời
gian. Cũng vậy, tất cả mọi người sẽ sống lại trong Chúa Kitô, với thân xác của
họ đang có bây giờ, nhưng thân xác nầy “sẽ
được biến thành thân xác vinh quang”[14],
thành “thân xác thiêng liêng”[15], nghĩa là vượt khỏi mọi định luật của
vũ trụ, khỏi không gian và thời gian[16].
-Còn nữa, con người luôn khát vọng
vĩnh cửu, vì ở đời nầy họ không thành đạt được hạnh phúc đích thực và toàn vẹn.
Dầu có đầy đủ của cải, tiện nghi, tương
giao xã hội hay quyền lực, vinh hoa, con người vẫn thấy bị giới hạn, bất lực với
những gì bên ngoài mình hoặc ngay trong chính mình. Khổ đau luôn có mặt dưới
nhiều hình thức. Chỉ khi nào khát vọng vĩnh cửu, hoàn hảo, trường tồn được thoả
mãn, khi ấy mới có hạnh phúc đích thực. Nhưng ai có thể làm thoả mãn niềm khát
vọng ấy, nếu không phải là Thiên Chúa, Đấng toàn năng tuyệt đối. Niềm hạnh phúc
đích thực ấy, Công Giáo gọi là Thiên Đàng.
4.Như thế, từ Thiên Đàng không
dùng để chỉ một nơi nào đó, nhưng để chỉ một tình trạng, một cõi sống mai sau
cao trổi hơn cuộc sống trần gian, nơi đó con người được hạnh phúc hoàn toàn,
đích thực và trường cửu. Chúa Giêsu trên thập giá vào những giây phút nghiêm trọng,
đã nói với người kẻ trộm có lòng sám hối và tin nhận Người: “ Tôi bảo thật anh,
hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng ”[17].
Khi dùng từ Thiên Đàng và chữ hôm nay, Chúa Giêsu không có ý nói đến
nơi chốn, bởi vì lúc ấy cả hai người đang bị đóng đinh trên Núi Sọ; nhưng Nguời
muốn cho anh ta biết rằng, vì lòng sám hối và niềm tin vào Người mà anh được
tha tội tức khắc và có được sự thông hiệp
với Thiên Chúa.
Với ngôn ngữ hạn hẹp của con
người, Giáo Hội dùng chữ Thiên Đàng để diễn tả tình trạng hạnh phúc nầy. Bản dịch
Thánh Kinh LXX (70) dùng chữ Paradisum[18],
tiếng Do Thái gọi là Eden. Cả hai dùng để chỉ Khu vườn của Thiên Chúa và Khu vườn nguyên thuỷ Ađam đánh mất, trong
đó tổ tiên loài người sống hoàn toàn hạnh phúc và đồng thời cũng để nói lên một
viễn tượng hạnh phúc mai sau, bên kia cõi chết[19].
Như vậy, Thiên Đàng chỉ
tình trạng được hưởng hạnh phúc
siêu nhiên trọn vẹn. Hạnh phúc được hưởng trên thiên đàng chủ yếu là được thấy
và yêu Chúa trực tiếp; thứ đến là được hiểu biết, yêu mến và vui hưởng các tạo
vật. Hạnh phúc của mỗi người sẽ tuỳ theo mức độ ân sủng mà họ đang có khi chết,
mức độ ân sủng nầy nhiều hay ít là tuỳ công trạng người ấy đã lập được khi còn ở
trần gian. Hạnh phúc thiên đàng vĩnh viễn không bao gờ chấm dứt[20].
Sách Giáo Lý Công Giáo cũng khẳng định: Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa
với Thiên Chúa và đã hoàn toàn được thanh tẩy, sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô;
họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngừơi “đúng như Người là”[21].
Đây là phần thưởng dành cho những người lành thánh hoặc dầu có tội lỗi nhưng thực
lòng sám hối và tin kính Thiên Chúa.
5. Có thưởng thì cũng phải có
phạt, đó là lẽ công bình. Hình phạt cho kẻ dữ là Hoả ngục.
Ở đời nầy, làm gì có công lý
đích thực, có sự phán xử đúng đắn hoàn toàn, có thưởng phạt hoàn toàn công
minh, bởi vì con người không thể thấu biết
mọi tình tiết sự việc và uẩn khúc trong lòng người, nên vẫn có sai lầm. Chúa
Giêsu đã tố giác điều nầy “Các ông xét
đoán theo kiểu người phàm”[22]; “Các
ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh”[23].
Chỉ có Thiên Chúa mới xét xử công minh: “Ta
là Đấng dò thấu lòng dạ, và Ta sẽ tuỳ theo việc các ngươi làm mà thưởng phạt mỗi
người”[24].
Chính vì thế cuộc phán xử cuối cùng để phân định rạch ròi thiện ác cũng là điều
con người mong đợi, vì chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Công bình chính trực.
Hoả ngục cũng không phải ở một
nơi nào đó. Hoả ngục không ở nơi nầy hay nơi kia và có những hình phạt kiểu con
người áp dụng cho tội phạm, nhưng là tình trạng bất hạnh mà con người đón nhận
theo những lựa chọn tự do trong cuộc sống trần thế của mình dựa trên tiêu chuẩn
lề luật của Thiên chúa. Bất hạnh dày vò mãi mãi vì xưa kia đã khước từ, lãnh đạm
đối với Thiên Chúa, là sự thiện và là hạnh phúc vô biên, bây giờ vô vọng, chẳng
bao giờ có thể gặp lại được[25].
Tin Mừng dùng những hình cảnh cụ thể để nói đến những hình phạt nơi hoả ngục
như: vực thẳm, lửa đốt không hề tắt, dòi bọ rúc rỉa, khóc lóc nghiến răng… chỉ
là dùng ngôn từ của thời ấy để diễn tả nỗi bất hạnh kia mà thôi[26].
6.Thực tại về hạnh phúc và bất
hạnh ở đời sau là niềm tin và là giáo huấn của Giáo Hội dựa trên nền tảng Thánh
Kinh và Thánh Truyền: Chết, Phán xét, Thiên đàng, Hoả ngục. Niềm tin nầy hoàn
toàn phù hợp với sự công chính tối thượng của Thiên Chúa, là Đấng có quyền nói
lời phán quyết cuối cùng về hành vi của con người, là Đấng thưởng ai làm điều
thiện, và phạt ai làm điều ác[27].
Đúng vậy, con người không thể hiệp nhất với Thiên Chúa, nếu không tự do lựa chọn
yêu mến Người. Nhưng con người không thể yêu mến Thiên Chúa, nếu con người phạm
tội cách nặng nề chống lại Người, chống lại tha nhân hoặc chống lại bản thân
chúng ta. Chết trong tội trọng mà không sám hối và không đón nhận tình thương đầy
từ bi của Thiên Chúa, có nghĩa là mãi mãi xa Chúa, do sự tự do lựa chọn của mỗi
người. Đây chính là sự từ chối yêu thương và được yêu thương. Danh từ Hoả Ngục
được dùng để chỉ tình trạng li khai cách chung cuộc khỏi mối hiệp thông với
Thiên Chúa[28].
7. Bạn có thể thắc mắc rằng: Nếu
Thiên Chúa là Tình Yêu, giàu lòng thương xót, muốn mọi người được cứu rỗi, đến
nỗi đã ban tặng Con của Người cho nhân loại, thì tại sao lại nỡ lòng nào mà còn
ra hình phạt để người có tội phải trầm luân, xa Chúa?
-Sự thực Thiên Chúa không loại bỏ người nào cả. Chúa Giêsu đã
xác quyết điều đó: “ Quả vậy, Thiên Chúa
sai Con của người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế
gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị
lên án, nhưng kẻ không tin, thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của
Con Một Thiên Chúa…vì họ đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”[29].
Sự trầm luân hay loại bỏ nằm ở nơi mầu
nhiệm tự do của con người[30].
Thảm kịch mà Evà gây ra cho mình và cho nhân loại, là đã sử dụng tự do một
cách sai lầm, khi không tin Lời Chúa mà lại tin lời tên Dối trá[31].
-Chúa Giêsu đã nhắc lại thảm kịch
ấy khi nói về dụ ngôn Người con hoang
đàng hay Tình Cha[32]:
Người cha nhân hậu và yêu thương, ông có nỡ lòng nào mà đẩy đuổi con mình ra khỏi
nhà; nó lớn lên và trưởng thành rồi, nên ông tôn trọng tự do của nó, để nó làm
những gì nó cho là hạnh phúc và nó ước muốn; đứa con không tin vào lời cha dạy
và cũng không hài lòng về tình thương của cha, nó tin vào lời người ta lừa dối,
cho rằng ở ngoài sướng hơn, nên đã thẳng thừng tuyệt tình với cha và bỏ nhà ra
đi; ra khỏi nhà cha mới thấy đời đâu đơn
giản, mới thấy khổ cực giăng đầy, mới thấy hối hận, mới thấy mình dại dột, khờ
khạo. Đó, cha đâu đuổi nó và đầy đoạ nó, nhưng chính nó đầy đoạ mình. Hoả ngục
là thế đó, chứ không phải nơi nầy nơi kia! Hoả ngục là sự lựa chọn tự do sai lầm.
8.Niềm tin vào linh hồn, thiên
đàng, hoả ngục không làm cho những người có đức tin xa rời thực tế, trở nên bi
quan hoặc lười biếng, nhưng càng thúc đẩy họ sống vui tươi, hoạt động tích cực
theo tinh thần Tin Mừng để thánh hoá cuộc sống và chuẩn bị cho hạnh phúc mai
sau. Bởi vì cuộc sống hiên tại và tương lai không tách rời nhau, nhưng có liên
hệ mật thiết, làm nên một cuộc sống toàn bộ duy nhất. Điều phải luôn nhớ:
-Con người thể xác có giới hạn và mong manh, hãy tìm vĩnh cửu,
vững bền.
-Tự do của con người thật là
cao cả, là một huyền nhiệm. Đây là món quà vô giá mà Thiên Chúa trao tặng. Hãy
cẩn thận sử dụng tự do cho đúng lương tri và phân định của mình. Đừng nông nổi
và kiêu căng theo con ngừơi xác thịt.
-Vật chất không phải là tất cả
cho hiện hữu của chúng ta. Vẫn còn vô số giá trị cao quý khác mà mắt phàm chúng
ta không có khả năng nhìn thấy.
(Vinh An, mùa Vinh quang và Thanh
luyện/ 21)
[1] GLCG số 1007.
[2] St 2,7.
[3] Nhân linh ư vạn vật.
[4] Triết gia và khoa học gia
nguời Pháp (1623-1662).
[5] Thi hào Nguyễn Du, Truyện Kiều.
[6] Plm 3,20-21.
[7] Kh 14,13.
[8] Kinh Tin Kính.
[9] 2Mcb 7,9-14; GLCG số 992.
[10] Ga 11,25.
[11] Pl 2,12.
[12] X.GLCH số 997.
[13] X.Lc 24,39.
[14] Plm 3,21.
[15] 1Cr 15,44.
[16] X.GLCG số 999.
[17] X. Lc 23,39-43.
[18] Bởi tiếng HI lạp là
Paradeisos có ngĩa là khu vườn.
[19] X.VTB chữ Paradis.
[20] X. John A.Hardon,S.j, Pocket Catholic Dictionary, chữ Paradise,
Image Books, New York 1985.
[21] X.1Ga 3,2; GLCG số 1023.
[22] Ga 8,15.
[23] Ga 7,24.
[24] Kh 2,23.
[25] X. Mt 25,46- Công đồng
Lateranô IV (Dz 801).
[26] X. Mt
5,22.19;20,18;13,41-42- GLCG số 1034.
[27] ĐGH Gioan-Phaolô II, Bước Vào Hi Vọng, tr.183-184.
[28] X.GLCG số 1033.
[29] X.Ga 3,17-21.
[30] X. ĐGH Gioan-Phaolô II, Bước Vào Hi Vọng, tr.186-187.
[31] X.St 2.
[32] X. Lc 15,11-32.