Cuộc Ly Khai Của
Giáo Hội Anh Giáo
Linh Tiến Khải
Cuộc ly khai của Giáo Hội Tin Lành hay Giáo Hội Cải Cách
do Martin Luther khởi xướng kéo dài chưa được bao lâu, thì năm 1534 lại xảy ra
một vụ ly khai mới: đó là vụ ly khai của Anh Giáo, do vua Enricô VIII khởi
xướng.
Vua Enricô VIII sinh năm 1491 là hoàng tử thứ hai con vua
Enricô VII, và là vị vua thứ hai thuộc triều đại nhà Tudor. Chỉ có ba trong số
6 người anh em của Enricô sống sót là Arturo hoàng tử vùng Galles, Marguerita
hoàng hậu Êcốt và Maria hoàng hậu Pháp. Năm 1494 Enrricô trở thành công tước
York. Năm 1501 Enricô hiện diện trong đám cưới của anh cả là Arturô với
Caterina Aragona, công chúa Tây Ban Nha, khi đó hai người mới 15 và 16 tuổi.
Nhưng Arturo chết ít lâu sau đó vì bị nhiễm trùng, và Enricô mới 11 tuổi trở
thành người nối ngôi cha.
Vì muốn kết thúc một giao ước hôn nhân giữa Anh quốc và
Tây Ban Nha, vua Enricô VII giàn xếp hôn nhân giữa con mình và con dâu là
Caterina Aragona. Nhưng để được như thế cần phải có phép chuẩn của Đức Giáo
Hoàng Giulio II, mặc dù hôn nhân trước chưa hoàn thành, nhưng cả hai bên đều
muốn có phép chuẩn của Đức Giáo Hoàng để loại trừ mọi nghi ngờ liên quan tới sự
hợp pháp của hôn nhân. Vì bị hoàng hậu Isabella, mẹ của Caterina thúc giục, Đức
Giáo Hoàng Giulio II công bố sắc chỉ ban phép chuẩn. Nhưng năm 1505 vua Enricô
VII không hứng thú đối với liên minh với Tây Ban Nha nên hôn nhân đã không được
cử hành trong các thời điểm dự định. Khi vua cha qua đời năm 1509, Enricô lên
ngôi lúc mới 18 tuổi với tên gọi là Enricô VIII. Nhà vua bắt đầu cải tổ guồng
máy cai trị, bằng cách giảm thiểu quyền lợi của các người thượng lưu có chức
lớn, và dựa trên sự ủng hộ của giới quyền quý tỉnh nhỏ, tức các đại điền chủ,
là những người tuy không thuộc giai cấp thượng lưu, nhưng có các tước hiệu và
quyền lợi đặc biệt của giới thượng lưu. Chín tuần sau, do sự thúc bách của
triều đình Tây Ban Nha Enricô VIII thành hôn với Caterina, đã được đính hôn với
mình trước đó. Đức Cha William Warham, Tổng Giám Mục Canterbury, nghi ngờ sự
hợp pháp của hôn nhân, mặc dù đã có phép chuẩn trước đó và các lời thề lập đi
lập lại của Caterina là hôn nhân trước với hoàng tử Arturô đã không bao giờ
hoàn thành, vì hai người đã không ăn ở với nhau. Tuy nhiên, lễ nghi đội
triều thiên đăng quang hai người đã được cử hành ngày 24 tháng 6 cùng
năm.
Là người cao lớn đẹp trai, rất thể thao, vui vẻ và hào
hiệp, được định nghĩa là “hoàng tử đẹp nhất của Kitô giáo” vua
Enricô VIII có một nền văn hóa nhân bản rộng rãi, hiểu biết thông thạo các thứ
tiếng Latinh, Tây Ban Nha và Pháp, lại ưa thích thần học, vì đã nhận được nền
giáo dục tôn giáo từ bé, và là con trai thứ hai nên đã được chỉ định làm giáo
sĩ. Ngoài ra nhà vua cũng có tài âm nhạc. Ban đầu nhà vua chống lại phong trào
Cải Cách do Luther khởi xướng nên được ban tước hiệu là “ông hoàng
bảo vệ Giáo Hội”.
Nhưng vấn đề nỗi dõi tông đường nảy sinh và theo đuổi nhà
vua suốt đời. Hoàng hậu Caterina mang thai lần đầu tiên một người con trai
nhưng chết năm 1510; đứa con trai thứ hai sinh năm 1511 chết sau hai tháng.
Trong hai năm đầu của triều đại quyền bính được thi hành bởi Đức Cha Richard
Foxe, Giám Mục Winchester và Đức Cha William Warham. Từ năm 1511 trở đi quyền
bính nằm trong tay Đức Hồng Y Thomas Wolsey, là người có ảnh hưởng lớn trên nhà
vua. Vua Enricô VIII gia nhập Liên Minh Thánh, do Đức Giáo Hoàng Giulio II phát
động nhằm loại trừ chính sách bành trướng của vua Louis XII của Pháp. Thuộc
Liên Minh cũng có hoàng đế Massimiliano I và vua Ferdinando II vua Tây Ban Nha.
Năm 1514 vua Ferdinando II bỏ Liên Minh và giải hoà với Pháp. Biến cố vua
François I lên ngôi khiến cho hai nước Anh và Pháp lại có các lập trường
đối nghịch nhau. Năm 1516 hoàng hậu Caterina sinh công chúa Maria khiến cho vua
Enricô VIII hy vọng mình sẽ có con trai nối ngôi. Năm 1516 vua Ferdinando II
qua đời và người cháu là Carlo V lên ngôi cũng là cháu của hoàng hậu Caterina.
Năm 1519 vua Massimiliano I cũng qua đời. Các ông Hoàng bầu vua Carlo V làm
hoàng đế của Đế quốc Roma thánh. Sự cạnh tranh giữa vua François I của Pháp và
hoàng đế Carlo V của Tây Ban Nha khiến cho vua Enricô VIII trở thành kim của
cán cân chính trị Âu châu. Cả hai bên đều tìm liên minh với Anh quốc, nhưng sau
năm 1521 ảnh hưởng của Anh suy giảm bên Âu châu, vua Enricô VIII liên minh với
hoàng đế Carlo V trong chiến tranh với Pháp.
Vua Enricô VIII đợi mãi mà không có con trai nên lo
sợ cho triều đại của mình, vì dân Anh không muốn bị cai trị bởi một hoàng hậu.
Cho tới nay chỉ có công chúa Maria là sống sót. Truớc đó nhà vua cũng đã có nhiều
người yêu trong đó có Maria Bolena và Elizabeth Blount. Con trai của bà
Elizabeth là Henry Fitzroy chết năm 17 tuổi. Trong khi có người nói là hai con
của bà Bolena là Caterine Carey và Henry Carey rất giống nhà vua là con của vua
Enricô VIII, nhưng nhà vua không làm gì để thừa nhận chúng như con riêng của
mình.
Năm 1526 sức khỏe của hoàng hậu Caterina suy giảm và bà
bắt đầu vào thời kỳ tắt kinh, nhà vua bắt đầu ve vãn em gái của Maria Bolena là
Anna Bolena, được giáo dục bên Pháp, đã là mỹ nữ của hoàng hậu Caterina và đã
lấy Henry Percey Phó quận công Northumberland. Vua Enricô muốn có hoàng tử kế
vị nên nghĩ với việc xin hủy bỏ hôn nhân với hoàng hậu Caterina dựa trên hôn
nhân trước của hoàng hậu với người anh đã chết. Đức Hồng Y Wolsey và Đức Tổng Giám
Mục William Warham bắt đầu cho điều tra, nhưng nhận thấy khó mà qua mặt giáo
luật. Năm 1527 Vua Enricô yêu cầu thẳng lên Toà Thánh. Viên bí thư của nhà vua
là William Knight cho rằng sắc chỉ của Đức Giáo Hoàng Giulio II đã có được là
nhờ một sự đánh lừa, vì thế nên không có giá trị. Do đó nhà vua cho rằng phép
chuẩn này không có giá trị và hôn nhân với hoàng hậu Caterina cũng không có giá
trị Năm 1527 vua Enricô cũng xin Đức Giáo Hoàng Clemente VII ban phép chuẩn cho
nhà vua thành hôn với bà Anna Bolena. Nhưng câu chuyện lại liên quan tới lợi
lộc của hoàng gia Tây Ban Nha, vì Carlo V, hoàng đế của Đế quốc Roma thánh, là
cháu của hoàng hậu Caterina. Ảnh hưởng của hoàng đế khiến cho Đức Giáo Hoàng
Clemente VII từ chối lời xin của vua Enricô VIII, không hủy bỏ sắc chỉ của Đức
Giáo Hoàng Giulio II. Vì thật ra Đức Giáo Hoàng Clemente cũng lo sợ gia đình
của hoàng hậu Caterina và hoàng đế Carlo V nổi giận với mình.
Tuy nhiên, lương tâm bối rối hợp với sức quyến rũ của bà
Anna Bolena khiến cho vua Enrico VIII nhất quyết loại trừ hoàng hậu Caterina.
Và đây là lý do làm nảy sinh ra Anh giáo, khi vua Enricô VIII bẻ gẫy liên hệ
với Giáo Hội Công Giáo Roma, không thừa nhận quyền của Đức Giáo Hoàng nữa, và
tuyên bố mình là giáo chủ tối cao của Giáo Hội tại Anh.
Năm 1529 quốc hội Anh nhóm họp để thảo luận việc hủy bỏ
hôn nhân cũ, quy tụ mọi người ước mong có một cuộc cải cách nhưng đã không có
sự đồng thuận liên quan tới hình thức thực hiện. Nhiều người chống lại đặc
quyền của hàng giáo sĩ có thể triệu vời giáo dân ra trước toà án đạo. Có người
chịu ảnh hưởng của phong trào cải cách của Luther chống lại thần học công giáo.
Cũng có những người ủng hộ quyền tối thượng của nhà vua trên Giáo Hội của Anh
quốc. Thomas More thay thế Đức Hồng Y Wolsey vừa muốn có cải cách vừa muốn có
các luật lệ mới chống lại lạc giáo.
Thủ tướng mới của vua Enricô VIII là Thomas Cromwell, dân
biểu quốc hội và là người theo Tin Lành, biết phải lèo lái quốc hội ra sao để
nhà vua có quyền tối thượng trên Giáo Hội. Năm 1530 khi một uỷ ban gồm các nhà
luật pháp và giáo sĩ cho biết không thể cho phép Đức Tổng Giám Mục hành động
chống lại một lệnh cấm của Đức Giáo Hoàng, nhà vua bắt đầu bách hại giới giáo
sĩ. Sau khi kết án Đức Hồng Y Wolsey, vua Enricô tố cáo hàng giáo sĩ “tội vâng
lời các thế lực nước ngoài” với mục đích bắt ép họ phải đồng ý
hủy bỏ hôn nhân cũ của ông với hoàng hậu Caterina. Đây là luật có từ năm 1392.
Sau khi tố cáo các vị bênh vực hoàng hậu Caterina nhà vua trải dài việc tố cáo
chống lại tất cả hàng giáo sĩ và bắt phải nộp 100.000 bảng Anh trong hội nghị
của hàng giáo sĩ nhóm tại Canterbury để được nhà vua tha tội. Hàng giáo sĩ chấp
nhận bắt đầu trả vào ngày 24 tháng giêng năm 1531, nhưng xin được kéo dài trong
vòng 5 năm. Nhà vua từ chối. Khi đó hàng giáo sĩ yêu cầu có các bảo đảm trước
khi nộp tiền, nhà vua từ chối mọi điều kiện, nhưng chấp nhận cho kéo dài việc
trả tiền trong 5 năm và thêm vào 5 khoản mà hàng giáo sĩ Anh phải chấp nhận:
Thứ nhất hàng giáo sĩ thừa nhận vua như người bảo hộ duy nhất và là thủ lãnh
tối cao của Giáo Hội và hàng giáo sĩ Anh quốc. Thứ hai, nhà vua có nhiệm vụ
tinh thần. Thứ ba, các đặc ân của Giáo Hội bị hủy bỏ, nếu vi phạm các
quyền lợi của nhà vua và luật lề của vương quốc. Thứ tư, vua tha tội cho hàng
giáo sĩ vi phạm luật cấm vâng lời các thế lực và nhân vật nước ngoài. Thứ năm,
cả các giáo dân cũng được tha tội này. Trong quốc hội Đức Cha John Fischer, đã
là người ủng hộ hoàng hậu Caterina và hàng giáo sĩ, thêm vào khoản thứ nhất các
lời này: “Nếu lời Chúa cho phép”. Trong hội nghị Đức Tổng Giám Mục
William Warham mở đầu cuộc thảo luận, nhưng khi thấy mọi người đều thinh lặng,
thì nói: “Ai thinh lặng là đồng ý”. Hội nghị chấp nhận 5 khoản do nhà
vua đưa ra và nộp tiền phạt ngày mùng 3 tháng 3 năm 1531. Không ai dám phản đối
vì sợ bị kết án là phản bội và bị tử hình.
Việc ly khai với quyền bính của Đức Giáo Hoàng xảy ra từ
từ. Năm 1532 thủ tướng Cromwell đưa ra trước quốc hội một thỉnh cầu gọi
là “Yêu cầu chống lại Trật tự của thánh lễ” kê khai ra 9
lời than phiền chống lại Giáo Hội bao gồm cả việc lạm dụng quyền bính và quyền
ra luật mà không có sự đồng ý của Hội nghị giáo sĩ.
Ngày mùng 10 tháng 5 năm 1532 nhà vua yêu cầu Giáo Hội
khước từ quyền ra luật. Hàng giáo sĩ ký nhận ngày 15 tháng 5. Qua đó Giáo Hội
thừa nhận quyền tối thượng của nhà vua trên Giáo Hội, và không có quyền
ra luật mà không có phép của nhà vua. Đây đã là hành động hủy bỏ hoàn
toàn chủ thể làm luật của Giáo Hội. Việc quy phục này được quốc hội chấp nhận
năm 1534 và năm 1536. Sự kiện này khiến cho Thomas More là một vị quan công
giáo, từ chức, nhường chính trường cho Cromwell làm chủ.
Tiếp theo đó là một loạt các luật quốc hội. Luật “Giữ lại
các lợi tức hàng năm vô điều kiện” cấm hàng giáo sĩ trả hơn 5%
lợi tức cho Giáo Hội Roma. Nó đã gây ra các phản đối mạnh mẽ, và nhà vua phải
hiện diện ba lần và với sự đe đọa của quốc hội nó mới được bỏ phiếu thông qua.
Luật này cũng đe dọa rằng nếu các nhà thờ chính toà từ chối việc chỉ định các
Giám Mục từ phía nhà vua, thì sẽ có nguy cơ bị tố cáo là thuộc các quyền bính
nước ngoài và bị trừng phạt.
“Luật hạn chế các lời kháng án” cấm không được kêu về Roma liên quan tới các vấn đề
giáo hội. Luật khẳng định rằng: “Vương quốc Anh là một đế quốc, như được chấp nhận
trên thế giới và nó được cai trị bởi một thủ lãnh tối cao, là nhà vua, có tước
hiệu và hàng vương giả của triều thiên hoàng đế của đất nước, một ngoại giao
đoàn, một tổng thể cá nhân thuộc mọi điều kiện và tầng lớp, nhân danh tinh thần
tu đức và tinh thần đời, có bổn phận vâng phục nhà vua một cách tự nhiên và
khiêm tốn, sau Thiên Chúa”. Ngoài ra, luật cũng nhấn mạnh rằng Anh
quốc là một quốc gia độc lập trên tất cả mọi phương diện.
Sau cùng năm 1534 vua Enricô VIII ban hành “Luật về
quyền tối thượng” khiến cho nhà vua trở thành “Thủ lãnh tối
cao của Giáo Hội Anh, loại trừ tất cả mọi thói quen, tập tục, luật lệ, quyền
bính hay các điều luật đến từ nước ngoài. Tuớc hiệu này sẽ được hoàng hậu
Elíabeth I đổi thành “Thống đốc tối cao của Giáo Hội Anh”.
Sau một tuần trăng mật tại Pháp vua Enricô VIII và bà Anna
Bolena thành hôn vào tháng giêng năm 1533 tại nhà thờ chính toà Wesminster. Lễ
thành hôn được dễ dàng vì cái chết của Đức Tổng Giám Mục Warham, là người chống
lại hôn nhân của nhà vua. Đức Tổng Giám Mục Thomas Cranmer lên thay thế và là
người đồng ý hủy bỏ hôn nhân trước của nhà vua với hoàng hậu Caterina. Ba tháng
sau hoàng hậu Anna sinh một công chúa sau này sẽ là hoàng hậu Elisabeth I.
Tháng 7 năm 1533 Đức Giáo Hoàng Clemente VII ra vạ tuyệt thông cho nhà vua và
Đức Tổng Giám Mục Cranmer. Ngày 17 tháng 12 năm 1538 nhà vua bị Đức Giáo Hoàng
Phaolo III ra vạ tuyệt thông lần thứ hai. Vạ tuyệt thông này cũng sẽ được ra
cho hoàng hậu Elisabeth I, khi tình hình cuộc ly giáo không thể cứu vãn được
nữa. Trong cùng năm 1533, “Luật các của đầu mùa và thuế thập phân” khiến
cho mọi tiền thuế của Giáo Hội trả cho Đức Giáo Hoàng chạy vào quỹ của nhà vua.
Nó liên quan tới “đồng tiền thánh Phêrô và các khoản tha” mà
giới điền chủ đóng góp cho Đức Giáo Hoàng. Luật này nhấn mạnh rằng: “Anh quốc
không có thủ lãnh nào khác ngoài Thiên Chúa và Đức vua và triều thiên hoàng đế
của vua Enricô đã được bảo toàn khỏi các vụ tiếm quyền và các thuế khóa bất
công và ít bác ái của Đức Giáo Hoàng”.
Để tránh tất cả mọi chống đối các điều này năm 1534 Quốc
hội bỏ phiếu “Luật phản bội” coi việc khước từ quyền tối thượng của
nhà vua là phản bội có thể bị tử hình. Sau cùng năm 1536 Quốc hội bỏ
phiếu “Luật chống lại quyền bính của Đức Giáo Hoàng” hủy bỏ
phần còn lại của quyền giáo hoàng, nghĩa là quyền đưa ra một phán quyết liên
quan tới Thánh Kinh trên nước Anh.
Việc bẻ gẫy với Giáo Hội Roma vẫn chưa đích thật là một
cuộc Cải Cách nảy sinh với việc phổ biến các tư tưởng mới. Các ý kiến của
Martin Luther và các đồ đệ đã được biết tới và thảo luận nhiều bên Anh quốc,
nơi khuynh hướng thần học triệt để vẫn luôn hiện diện. Nó đuợc biểu hiện với
phong trào Lollardi, gồm những người được gợi hứng từ các bút tích của John
Wycliff, dịch giả Thánh Kinh, nhấn mạnh quyền ưu tiên của Thánh Kinh. Tuy bị
đàn áp nhưng phong trào này vẫn tồn tại và tìm cách thay đổi Giáo Hội bằng cách
dành chỗ nhất cho Lời Chúa và chỉ coi bí tích Thánh Thể là một nghi lễ tưởng
niệm đơn sơ. Họ bi ảnh hưởng bởi các tư tưởng của Luther chủ trương chỉ có
Thánh Kinh và việc công chính hóa nhờ đức tin chứ không nhờ các hành động tốt.
Người ta cũng chỉ nhận ba bí tích Rửa Tội, Thánh Thể và Giải Tội. Năm 1536 và
1538 đã có nhiều điều khác được thêm vào trong đó có việc hủy bỏ nhiều ngày lễ
bị coi như dịp cho các thói xấu và sự lười biếng phát triển. Các dâng cúng và
đốt nến trước các hình tượng, cũng như các cuộc hành hương đều bị cấm cản.
Trong nhiều trường hợp các ảnh tượng bị đập phá hay đốt cháy, viện cớ chúng
diễn tả một niềm tin mê tín dị đoan; tín hữu chỉ đuợc mua các sách Thánh Kinh
bằng tiếng Latinh hay bằng tiếng Anh.
Năm 1534 Cromwell viếng thăm các đan viện để lượng định
gia tài tôn giáo trước khi tịch thu. Viện cớ các đan viện là nơi các đan sĩ nam
nữ có cuộc sống tính dục vô luân và các hoạt động tài chánh bất hợp pháp, ông
hủy bỏ và tịch thu các đan viện và đất đai phụ thuộc. Vào thời đó Giáo Hội sở
hữu từ một phần năm tới một phần ba đất đai trên toàn nước. Năm 1536 triều đình
hủy bỏ các đan viện nhỏ trước. Nhà vua đã sử dụng số tiền có được để xây các
chiến lũy phòng thủ chống các cuộc xâm lăng. Tất cả đất đai của các tu viện
thuộc nhà vua. Nhưng dân chúng nổi loạn chống lại hành động này của triều đình
và tấn công quan quân. Năm 1539 cả các đan viện lớn cũng bị hủy bỏ. Nhiều đan
viện chịu trận, nhiều đan viện khác tìm cách trả tiền để sống còn. Đan sĩ các
đan viện bị đóng cửa tìm tới các đan viện lớn hơn còn mở cửa. Một số khác trở
thành linh mục triều. Những người chống đối bị giết. Việc hủy bỏ quyền của Đức
Giáo Hoàng đã gây ra các bất đồng và bạo lực. Các vụ đập phá tượng ảnh thánh,
các cãi vã phản đối và hành động bạo lực xảy ra hàng ngày, nhưng đều bị dấu
nhẹm nhà vua. Năm 1538 khi biết chuyện, vua Enricô VIII ra luật cấm tranh luận
liên quan tới Thánh Thể, và cấm các linh mục lập gia đình, nếu không sẽ bị xử
tử. Năm 1539 quốc hội bỏ phiếu “Sáu Khoản” xác nhận kinh tin kính
công giáo, việc truyền phép, luật độc thân linh mục, tầm quan trọng của việc
xưng tội riêng, và các hình phạt cho tất cả nhũng ai từ chối các điều
này. Với “Luật tiến tới đích thật của tôn giáo” ban hành năm
1543 vua Enrricô hạn chế quyền đọc Thánh Kinh cho giới quyền quý.
Năm 1547 vua Enricô VIII qua đời, vua Eduardo VI lên ngôi
khi mới 9 tuổi và là một thiếu niên đuợc giáo dục trong niềm tin Tin Lành. Dưới
quyền nhiếp chính của người bác là Edwart Seymour các luật lệ chống lại tượng
ảnh được áp dụng triệt để. Tất cả mọi thứ tuợng ảnh, thánh tích, kể cả các kính
mầu trong các nhà thờ đều bị đập phá, làm hư hại, các thánh giá, các lan can,
các cửa sắt đều bị phả hủy, các chuông nhà thờ bị gỡ bỏ. Các phẩm phục thánh bị
bán hay đốt cháy. Các bình xin tiền bị nung chảy hay bán đi. Luật độc thân linh
mục bị hủy bỏ. Cấm các cuộc rước kiệu; hủy bỏ ngày thứ tư lễ tro và Chúa Nhật
lễ lá. Hủy bỏ các hội hát lễ mồ. Năm 1550 các bàn thờ bằng đá được thay thế
bằng các bàn thờ bằng gỗ thường. Năm 1551 chức giám mục được rập khuôn với việc
chỉ định các mục sư. Cuộc cải cách từ đó tiến rất nhanh.
Sau đây là vài nét chính yếu về Giáo Hội Anh giáo. Thứ
nhất, Thánh Kinh là nền tảng đức tin Kitô chứa đựng tất cả những gì cần thiết
cho ơn cứu rỗi. Thứ hai Kinh Tin Kính là chứa đựng những điều cần thiết và đủ
cho việc trình bầy giáo lý Kitô. Thứ ba, các bí tích Rửa Tội và Thánh thể là
các phương thế bề ngoài hữu hình và đích thật của ơn thánh Chúa. Thứ tư, việc
kế vị các tông đồ liên tục và được các giáo hội chính thống và công giáo cổ
thừa nhận. Thứ năm, nhà vua là thủ lãnh của Giáo Hội. Thứ sáu, tuy khước từ
quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng người kế vị thánh Phêrô, nhưng Anh giáo vẫn
duy trì hàng giáo phẩm, có Giám Mục, linh mục và phó tế, nhưng không có luật
buộc độc thân. Thứ bẩy, phụng vụ anh giáo rất giống phụng vụ công giáo. Liên
quan tới Đức Maria Anh Giáo không chập nhận các tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên
tội và Hồn xác lên trời.
Các Giáo Hội Anh giáo quy tụ trong tổ chức Liên hiệp
anh giáo và nhóm họp trong Hội nghị Lambeth do Đức Tổng Giám Mục Canterbury chủ
tọa. Từ khi phụ nữ được phép làm linh mục có nhiều Giám Mục và linh mục Anh
giáo xin tái gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Vào thế kỷ XVIII sau cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ các Giáo
Hội Anh Giáo Hoa Kỳ và Canada trở thành các Giáo Hội tự trị có các Giám
Mục riêng và các cơ cấu tự quản. Nó trở thành kiểu mẫu của các Giáo Hội Anh
Giáo bên Phi châu, Australia và vùng Thái Bình Dương. Giáo Hội Anh Giáo bị chia
rẽ trầm trọng, sau khi một phụ nữ và một người đồng tính luyến ái được phong
chức Giám Mục. Sự kiện này khiến cho các Giáo Hội Anh Giáo Phi châu phản đối
rất mạnh mẽ và làm cho viễn tượng tìm về hiệp nhất gặp thêm chướng ngại. Một
trong những lý do là vi Anh giáo không có một quyền bính trung ương, cũng giống
như Giáo Hội Chính Thống.
Vào đầu thế kỷ XX các Giáo Hội Kitô cảm thấy nhu cầu đại
kết nên thành lập Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô quy tụ 349 Giáo Hội thành
viên gồm mọi khuynh hướng chính thống, tin lành, anh giáo và nhiều cộng đoàn
Kitô khác. Giáo Hội Công Giáo không là thành viên, nhưng hiện diện trong các uỷ
ban đối thoại thần học. Phong trào đại kết đã được đẩy mạnh sau Công Đồng Chung
Vatican II, đặc biệt dưới triều đại của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với Tông
thư “Ut unum sint Để chúng nên một”. Cuộc đối thoại song phương
của Giáo Hội Công Giáo với các Giáo Hội Kitô anh em vẫn tiếp tục trong tình bác
ái và chân lý, nhưng còn nhiều khó khăn cần được vượt thắng trước khi tìm lại
được sự hiệp nhất trọn vẹn.