Bài
2 :
THIÊN CHÚA MẶC KHẢI
LỜI
CHÚA :
“Thuở
xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn
sứ; nhưng vào thời sau hết này,Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.”
(Dt 1,1-2)
BÀI
HỌC :
Thiên Chúa tỏ mình
qua nhiều giai đoạn trong lịch sử dân Do Thái, nhưng cuối cùng, Thiên Chúa tỏ
bày cho nhân loại qua chính Con của Ngài khi sai Chúa Con xuống làm người.
Mặc khải là việc
Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho chúng ta biết Ngài là ai, và Ngài muốn gì nơi
chúng ta.Mặc khải được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
I
. THÁNH KINH LÀ GÌ ?
Thánh Kinh là
những mặc khải của Thiên Chúa (Lời Chúa) được con người ghi chép lại thành sách
dưới sự linh hứng (soi sáng) của Chúa Thánh Thần (2Pr 1,21 ; 2Tm 3,16).
Bộ sách Thánh Kinh
(73 cuốn) có 2 phần : Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là những Lời Thiên Chúa bày
tỏ cho tổ phụ người Do Thái trước khi Đức Giêsu Kitô chào đời dưới hình thức
Giao Ước, gồm 46 cuốn. Tân Ước (Giao Ước Mới) là những Lời Thiên Chúa nói với
loài người từ khi Đức Giêsu Kitô ra đời, gồm 27 cuốn. Ngày nay, mỗi cuốn Sách
thánh được đánh dấu số chương và số câu để dễ tra cứu.
II.
THÁNH TRUYỀN LÀ GÌ ?
Thánh Truyền chứa
đựng lời Thiên Chúa mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ
và lưu truyền toàn vẹn cho những người kế vị các ngài,để nhờ Chúa Thánh Thần
soi sáng,họ trung thành gìn giữ và phổ biến qua lời rao giảng.
Trước khi có Thánh
Kinh Tân Ước đã có Thánh Truyền. Thánh Truyền thời Hội Thánh ban đầu là toàn bộ
đời sống Hội Thánh : Lời rao giảng của các tông đồ,cách cầu nguyện, phượng tự
và các tổ chức sinh hoạt của các tín hữu. Dần dần những lời giảng dậy được ghi
thành văn dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, các sách Thánh kinh
chỉ được coi là bản văn linh hứng khi được Hội Thánh nhìn nhận. Các chân lý
được mặc khải trong Thánh Kinh, nhưng để hiểu được các chân lý ấy thì phải dựa
vào Thánh Truyền (Truyền thống của Hội Thánh).
III.
THIÊN CHÚA MẶC KHẢI QUA TỪNG GIAI ĐOẠN
1)
Giao ước với Abraham :
Vào khoảng thế kỷ
19 (–1850) trước Đức Giêsu Kitô (AC), Thiên Chúa hiện ra với Abraham, tổ tiên
của người Do Thái, bày tỏ cho ông biết Ngài là Đấng Tối Cao. Nếu Abraham chọn
tôn thờ Thiên Chúa thì Chúa sẽ ban cho dòng dõi ông trường tồn trong đất hứa;
và đó là Giao Ước đầu tiên.
St 12,1-2a.4.7
(sách Sáng Thế)
12,1 Đức Chúa phán
với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất
Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho
ngươi..."… 4Ông Áp-ram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông. Ông Áp-ram được
bảy mươi lăm tuổi khi ông rời Kha-ran. … 7Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ram và
phán: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi." Tại đây ông dựng một
bàn thờ để kính Đức Chúa, Đấng đã hiện ra với ông.”
2)
Giao ước với Mô-sê :
Con cháu của
Abraham di cư xuống đất Ai Cập (khoảng năm 1700 trước Đức Kitô) để tránh nạn
đói, và họ đã sinh sôi nảy nở thành một gia tộc rồi một dân tộc. Dân tộc này bị
nô lệ đày đoạ ở Ai Cập và nhiều người trong số họ cũng chẳng còn biết Thiên
Chúa là ai; nhưng Thiên Chúa lại cứu họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vào khoảng thế
kỷ 13 trước khi Chúa Giêsu chào đời, Thiên Chúa đã hiện ra với Môsê (-1250),
mặc khải cho ông biết Ngài là Thiên Chúa (Giavê) của tổ phụ người Do Thái và
Ngài muốn giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ để vào Đất Hứa.
Qua Môsê, Thiên Chúa đã giao ước với dân Do Thái: nếu họ tôn thờ Thiên Chúa và
tuân giữ 10 giới răn (Giao ước Sinai), thì Thiên Chúa sẽ cho dòng dõi họ trường
tồn trong Đất Hứa.
Xh
3,7-8 (sách Xuất hành)
3,7Đức Chúa phán:
"Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng
kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. 8Ta xuống
giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất
tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an.”
Xh
20,1.3-4.7-8.12-17 : Giao Ước Si-nai
20,1Thiên Chúa
phán tất cả những lời sau đây: …3Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch
với Ta. 4Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao,
cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.
….7Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất
xứng, vì ĐỨC CHÚA không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. 8Ngươi
hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. …12Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để
được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
13Ngươi không được giết người. 14Ngươi không được ngoại tình. 15Ngươi không
được trộm cắp. 16Ngươi không được làm chứng gian hại người. 17Ngươi không được
ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ,
con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."
3)
Giao ước với Đavit :
Dân Do Thái đã vào
đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ của họ là đất Palestine. Trong các ông
vua của họ, nổi bật nhất là vua Đavit ở thế kỷ 11 trước Chúa Giêsu (-1010).
Thiên Chúa đã hứa ban cho dân một Đấng Kitô, đấng cứu tinh của dân tộc, qua
hoàng tộc Đavit. Song con cháu của Đavit lên làm vua cũng chẳng thực hiện được
điều mà dân mong ước, vì thế cho đến ngày hôm nay, họ vẫn cứ chờ đợi Đấng Kitô
đến; còn những ai tin vào Đức Giêsu thì gọi Ngài là Giêsu Kitô.
St
49,10 (sách Sáng Thế)
“Chi tộc Giuđa sẽ
chẳng mất ngôi vua, dòng dõi ấy sẽ không mất quyền trị nước, cho tới khi vị
Thiên Sai đến, ấy là Đấng muôn dân trông đợi”
4)
Giao ước qua các ngôn sứ :
Vào khoảng thế kỷ
VIII trước Chúa Giêsu (–721), dân Do Thái bị lưu đày, mất nước, mất vua, mất
đền thờ. Thiên Chúa lại nói qua các ngôn sứ rằng họ đã lỗi Giao Ước, cần phải
thanh tẩy Giao Ước, đi sâu vào nội tâm chứ đừng sống vị hình thức để đón chờ
Đấng Kitô sẽ đến. Các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa chọn để truyền đạt
ý định của Thiên Chúa cho dân Do Thái biết cách thay đổi đời sống thì sẽ được
cứu độ. Các ngôn sứ, hay còn được gọi là tiên tri, rao giảng Lời Chúa bằng lời
nói, hành động và đời sống.
Is
7,14b (sách ngôn sứ I-sai-a)
“Này đây Trinh Nữ
sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, đặt tên là Em-ma-nu-en”.
Gr
19,10-11 (sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a)
19,10Ngươi sẽ đập
vỡ cái bình trước mặt những người cùng đi với ngươi, 11rồi nói với chúng: ĐỨC
CHÚA các đạo binh phán thế này: Cũng vậy, Ta sẽ đập tan dân này và thành này
như người ta đập vỡ cái vò của thợ gốm, mà không thể hàn gắn lại được nữa.
Am
5,23-24 (sách ngôn sứ A-mốt)
5, 23Hãy dẹp bỏ
tiếng hát om sòm của ngươi, Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. 24Ta
chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào,
cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn.”
5)
Giao ước trong Đức Giêsu Kitô :
Vào năm –538 trước
Chúa Giêsu, dân Do Thái hồi hương, nhưng rồi họ lại bị đế quốc Hy Lạp thống trị
từ năm –332 đến –142. Thời gian độc lập chẳng được bao lâu thì lại bị đế quốc
Rôma đô hộ từ năm –63 trước Chúa Giêsu; và đến năm 70 sau Chúa Giêsu (PC) thì
người Do Thái bị lưu đày khắp thế giới, mãi đến năm 1949 mới trở về tái lập quốc
gia Israel.
Cuối cùng, Thiên
Chúa muốn mặc khải qua chính Con của Ngài. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa giáng
sinh làm người, rao giảng Tin Mừng cứu độ trong bối cảnh đất nước Do Thái (xứ
Palestine) bị đô hộ bởi Rôma. Vào thế kỷ VI sau Chúa Giêsu, một tu sĩ đã quy
định niên hiệu Kitô giáo, lấy năm Đức Giêsu sinh ra làm năm thứ nhất, (Lc 3,1)
song cách tính của ông bị sai lệch mất 6 năm, dù vậy niên lịch quốc tế hiện
thời vẫn theo cách tính niên biểu ấy và hiểu năm thứ nhất là năm Đức Giêsu chào
đời.
CẦU
NGUYỆN :
“Trời cao xin đổ
sương xuống, mây hãy mưa Đấng Cứu Độ ! Giống như dân Do Thái ngày xưa trông đợi
đấng Kitô mà Chúa hứa ban qua hoàng tộc Đavit, con cũng đang tìm kiếm Chúa. Xin
Chúa hãy tỏ mình ra cho con được nhận biết Chúa là cùng đích của cả nhân loại.”
Bài
hát : Lắng nghe Lời Chúa,
trang 193
TÓM
LƯỢC :
1* Mặc khải là gì ?
-Mặc Khải là việc
Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho chúng ta biết Ngài là ai, và Ngài muốn gì.
2* Mặc khải được lưu giữ ở đâu ?
-Mặc khải được lưu
giữ ở trong sách Thánh Kinh và trong truyền thống của Hội Thánh gọi là Thánh
Truyền.
3* Thánh Kinh là gì ?
- Thánh Kinh là
Lời Thiên Chúa được con người ghi chép lại thành sách dưới sự linh hứng của
Chúa Thánh Thần.
4* Tin Mừng cứu độ của Chúa đã được thể hiện như thế nào
?
-Tin Mừng cứu độ được chuẩn bị trong Giao Ước
cũ qua dân tộc Do Thái gần 2000 năm, để rồi trong Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng ấy
được loan báo cho toàn thể nhân loại đến chúng ta ngày hôm nay, gọi là Giao Ước
mới.
QUYẾT
TÂM :
Tôi tập lắng nghe
Lời Chúa nói qua các tạo vật của Người, đặc biệt là qua những người có trách
nhiệm hướng dẫn tôi.