SÁCH GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

˜ X ™

 

ĐỜI SỐNG

TRONG ĐỨC KITÔ

I

(LƯU HÀNH NỘI BỘ)

 

 

 
ĐOẠN THỨ NHẤT

ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI

SỐNG TRONG THẦN KHÍ

1699. Đời sống trong Thánh Khí hoàn thành ơn gọi của con người (chương một). Đó là sống trong tình yêu mến Thiên Chúa và liên đới với mọi người (chương hai). Đời sống này được trao ban cách nhưng không như ơn cứu độ (chương ba).

CHƯƠNG MỘT

PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ

1700. Phẩm giá con người bắt nguồn từ việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (Mục 1). Phẩm giá này được hoàn thành trong ơn gọi đến hưởng vinh phúc thần linh (Mục 2). Trách nhiệm của con người là tự nguyện hướng tới sự hoàn thành đó (Mục 3). Bằng những hành vi có ý thức của mình (Mục 4), nhân vị sống phù hợp hay không phù hợp với điều thiện hảo mà Thiên Chúa đã hứa và lương tâm chứng nhận (Mục 5). Người ta tự xây dựng bản thân mình và tăng trưởng nội tâm: họ sử dụng toàn bộ đời sống cảm và tinh thần của họ làm chất liệu cho sự tăng trưởng của mình (Mục 6). Nhờ ân sủng trợ giúp, họ tăng trưởng về nhân đức (Mục 7), xa lánh tội lỗi và nếu đã phạm tội, họ sẽ như người con hoang đàng (x.Lc 15,11-31), phó thác cho lòng thương xót của Cha chúng ta trên Trời (Mục 8). Như vậy, con người đạt tới sự trọn hảo của đức  mến.


MỤC 1:

CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA

1701. “Đức Kitô,…chính khi mặc khải về mầu nhiệm Chúa Cha về tình yêu của Người, đã biểu lộ cho con người cách rất đầy đủ về chính họ và cho họ thấy ơn gọi rất cao cả của họ” (x. GS 22,1). Trong Đức Kitô “Thánh Tử là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15) (x. 2Cr 4,4), con người  được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Đấng tạo hóa. Trong Đức Kitô. Đấng Cứu Chuộc và Cứu Độ, hình ảnh thần linh, đã bị biến dạng nơi con người vì nguyên tội, nay được phục hồi trong vẻ đẹp nguyên thủy của nó và còn được nên cao trọng nhờ ân sủng của Thiên Chúa (x. GS, 2).

1702. Hình ảnh thần linh hiện diện trong từng con người. Hình ảnh đó rực sáng trong sự hiệp thông của các nhân vị,  giống như sự duy nhất giữa các Ngôi vị thần linh với nhau (x. chương hai).

1703. Được phú ban một “linh hồn thiêng liêng và bất tử” (x. GS 14), nhân vị là “thụ  tạo duy nhất nơi trần thế mà  Thiên Chúa đã muốn vì chính nó” (x. GS 24,3). Ngay từ lúc tượng thai của mình, nhân vị được định hướng tới vinh phúc vĩnh cửu.

1704. Nhân vị được tham dự vào ánh sáng và sức mạnh của Thần khí Thiên Chúa. Nhờ lý trí, nó có khả năng để hiểu biết trật tự muôn loài do Đấng tạo hóa thiết lập. Nhờ ý chí, nó có khả năng để hướng mình tới điều thiện hảo thật của mình. Nó theo đuổi sự trọn hảo của mình bằng cách tìm kiếm và yêu mến những gì là thiện hảo đích thực” (x. GS 15,2).

1705. Vì có linh hồn và các tài năng tinh thần là lý trí và ý chí, con người được phú ban sự tự do, “là dấu chỉ tuyệt hảo của hình ảnh thần linh” (x. GS 17 )

1706. Nhờ lý trí, con người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa thúc đẩy mình “làm điều tốt và tránh điều xấu” (x.GS 16). Mỗi người phải vâng theo lề luật này, một lề luật đang vang vọng trong lương tâm, một lề luật được chu toàn trong sự mến Chúa yêu người. Việc thực thi đời sống luân lý chứng tỏ phẩm giá của nhân vị.

1707. “Tuy nhiên, ngay từ lúc khởi đầu lịch sử, con người bị thần dữ cám dỗ, nên đã lạm dụng tự do của mình” (x.GS 13,1). Họ đã sa chước cám dỗ làm điều xấu. Con người vẫn còn khao khát điều tốt, nhưng bản tính con người đã mang vết thương của nguyên tội. Con người trở thành bị nghiêng chiều về điều xấu và dễ bị sai lầm:

“Con người đã bị chia rẻ trong chính bản thân mình. Vì vậy, toàn bộ đời sống con người, cả cá nhân tập thể, đều biểu hiện như một cuộc chiến bi thảm, giữa điều tốt và điều xấu, giữa ánh sáng và tối tăm” (x. GS 13,2).

1708. Bằng cuộc khổ nạn của Người, Đức Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi Satan và tội lỗi. Người lập công cho chúng ta có sự sống mới trong Chúa Thánh Thần. Ân sủng của Người phục hồi những gì tội lỗi đã làm hư hỏng nơi chúng ta.

1709. Ai tin vào Đức Kitô thì trở nên con cái Thiên Chúa. Ơn được làm nghĩa tử này biến đổi con người ấy, giúp họ sống theo mẫu gương Đức Kitô. Ơn này ban cho họ khả năng hành động đúng đắn và thực thi điều tốt. Được kết  hiệp với Đấng Cứu Độ của mình, người môn đệ đạt tới sự trọn hảo của đức mến, là sự thánh thiện. Được hoàn thiện trong ân sủng, đời sống luân lý sẽ được triển nở thành sự sống vĩnh cửu  trong vinh quang Nước Trời.

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Nền tảng phẩm giá con người là gì?

T. Phẩm giá con người bắt nguồn trong việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Được phú bẩm một linh hồn thiêng liêng và bất tử, lý trí và ý chí tự do, con người được quy hướng về Thiên Chúa và được mời gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cả hồn lẫn xác.

 

 


MỤC 2

ƠN GỌI CHÚNG TA

LÀ ĐẾN HƯỞNG VINH PHÚC

I. CÁC MỐI PHÚC

1716. Các mối phúc là trung tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu. Việc công bố các mối phúc là lặp lại các lời hứa đã được ban cho dân Chúa chọn khởi từ Tổ phụ Abraham. Các mối phúc kiện toàn các lời hứa này bằng cách không còn chỉ hướng đến việc thừa hưởng một mảnh đất nữa, nhưng là hướng đến Nước Trời.

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo  khó,

 vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành,

 vì họ sẽ được Đất Hứa  làm gia nghiệp.

Phúa thay ai sầu khổ,

vì họ sẽ được Thiên Chúa  ủi an.

Phúc thay ai khát khao nên người  công chính,

 vì họ sẽ được Thiên Chúa  cho thỏa lòng.

Phúc thay ai xót thương người, 

 vì họ sẽ được Thiên Chúa  xót thương.

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, 

 vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên  Chúa.

Phúc thay ai xây dựng hoà bình, 

 vì họ sẽ được gọi là con  Thiên Chúa.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống  công chính,

 vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị  người ta sỉ vả, bách hại và vu  khống đủ điều xấu xa.

Anh em hãy vui mừng hớn  hở,

vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn  lao

(Mt 5,3-12).

1717. Các mối phúc phác họa dung mạo của Chúa Giêsu  Kitô và mô tả tình yêu của Người. Chúng diễn tả ơn gọi của các tín hữu, những người được đồng phận trong vinh quang của cuộc khổ nạn và phục sinh của Người, chúng minh họa những hành động và thái độ đặc trưng của đời sống Kitô giáo. Chúng là những lời hứa nghịch lý, nâng đỡ niềm hy vọng trong những lúc gian truân. Chúng loan báo cho các môn đệ những phúc lành và ân thưởng đã được quyết định tuy còn ẩn khuất. Chúng đã được khởi đầu trong đời sống của Đức Trinh Nữ Maria và của tất cả các thánh.

II. KHAO KHÁT HẠNH PHÚC

1718. Các mối phúc đáp ứng khao khát tự nhiên là được hạnh phúc. Khao khát này có nguồn gốc thần linh. Thiên Chúa đã đặt niềm khao khát đó trong trái tim con người  để lôi kéo họ đến với Người, Đấng duy nhất có thể làm thỏa mãn khát vọng này :

“Chắc chắn mọi người chúng ta đều muốn sống hạnh phúc, và trong dòng giống loài người, không ai không đồng ý điều này, cả trước khi nó được phát biểu cách rõ ràng” (Thánh Augustino, luân lý Hội Thánh Công Giáo 1,3,4).

“Lạy Chúa, con phải tìm Chúa thế nào? Quả thật khi con tìm Chúa là Thiên Chúa của con, là con tìm đời sống hạnh phúc. Con muốn tìm Chúa để linh hồn con được sống. Vì thân xác con sống nhờ linh hồn con và linh hồn con sống nhờ Chúa” (Thánh Augustino, tự thuật 10,29)

“Chỉ có Thiên Chúa mới làm no thỏa” (Thánh Tôma Aquinô, kinh Tin Kính 1)

1719. Các mối phúc cho thấy mục tiêu của sự hiện hữu của đời sống nhân linh: mục đích tối hậu của hành vi nhân linh: Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đến hưởng vinh phúc riêng của Người. Ơn gọi này được gửi cho từng người một cách cá vị, nhưng cũng cho toàn Hội Thánh, là dân mới của những người đón nhận lời hứa và sống trong lòng tin vào lời hứa đó.

III. VINH PHÚC KITÔ GIÁO

1720. Tân Ước dùng nhiều kiểu nói để diễn tả vinh phúc mà Thiên Chúa kêu gọi con người đến hưởng: sự ngự đến của Nước Thiên Chúa (x.Mt 4,17 ); sự nhìn thấy Thiên Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8); (x.1Ga 3,2; 1Cr 13,12 ); vào hưởng niềm vui của Chúa (Mt 25,21.23 ); vào chốn an nghỉ của Thiên Chúa (Dt 4,7-11).

“Ở đó chúng ta sẽ an nghỉ và chiêm ngắm, chúng ta sẽ chiêm ngắm và yêu mến, chúng ta sẽ yêu mến và ca ngợi. Đó sẽ là cùng đích vô tận, vậy chúng ta còn có cùng đích nào khác, nếu không phải đạt tới nước vô cùng vô tận”? (Thánh Augustino, Thành Đô Thiên Quốc).

1721. Thiên Chúa đã đặt chúng ta ở trần gian để chúng ta nhận biết Ngài, phục vụ Ngài, và yêu mến Ngài để như vậy chúng ta đạt tới Thiên Đàng. Vinh phúc làm cho chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (2 Pr 1,4) và sự sống muôn đời (x. Ga 17,3); Với vinh phúc này, con người bước vào trong vinh quang của Đức Kitô và vào vui hưởng sự sống của Chúa Ba Ngôi.

1722. Vinh  phúc như vậy vượt quá sự hiểu biết và sức lực riêng của con người. Vinh phúc đó được ban do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Vì vậy, nó được gọi là siêu nhiên, cũng như ân sủng chuẩn bị con người vào vui hưởng Thiên Chúa.

Phúc thay những người có trái tim trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa’. Nhưng vì sự cao cả và vinh quang khôn tả của Ngài, nên ‘không ai trông thấy Ngài mà còn sống được’, tuy nhiên, Chúa Cha là Đấng không thể đạt thấu. Do tình yêu và lòng nhân hậu của Ngài, và bởi vì Ngài có thể làm được mọi sự, cũng đã ban cho những ai yêu mến Ngài điều này, là được nhìn thấy Người. Vì ‘những gì đối với loài người là không thể được thì đối với Thiên Chúa lại là có thể”. (Thánh Irênê, chống lạc giáo 4,20,5).

1723. Vinh phúc được hứa ban đặt chúng ta trước những lựa chọn luân lý có tính quyết định, vinh phúc đó mời gọi ta thanh luyện trái tim khỏi những bản năng xấu và tìm kiếm tình yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự. Nó dạy chúng ta biết rằng hạnh phúc thật không ở nơi của cải trần thế hoặc tiện nghi, cũng không phải trong vinh quang nhân loại hay quyền lực, cũng không phải trong công trình nhân loại nào, cho dù là hữu ích, như khoa học kỹ thuật và nghệ thuật, cũng không ở trong bất cứ tạo vật nào, nhưng duy chỉ ở nơi Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi điều thiện hảo và mọi tình yêu:

“Ngày nay, giàu sang là vị thần vĩ đại, nhiều người, hàng lớp người tự nguyện sùng bái vị thần này. Họ đo lường hạnh phúc bằng tài sản; họ đo lường cả sự đáng kính cũng bằng tài sản....điều đó phát sinh do sự xác tín của chúng ta: theo đó thì có tiền mọi sự đều có thể. Vì vậy giàu sang là một trong những ngẫu tượng của thời đại ngày nay, và danh tiếng là một ngẫu tượng khác.....Danh tiếng, được người ta biết đến, có tiếng  tăm ở trần gian, đưa đến chỗ chính danh được coi là điều thiện hảo, là điều thiện hảo cao cả, là đối tượng cho người ta kính trọng… đó có thể được coi là sự nổi tiếng trên báo chí” (Newman, diễn văn về sự thánh thiện, 5 ).

1724. Mười điều răn, Bài giảng trên núi và giáo lý của các Tông Đồ mô tả cho chúng ta những con đường dẫn đến Nước Trời. Chúng ta tiến từng bước trên những con đường này qua những hành vi hằng ngày. Được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Được sinh sôi nảy nở bằng lời Đức Kitô, chúng ta từ từ mang lại hoa trái trong Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa (x.dụ ngôn người gieo giống Mt 13,3-23).

TÓM LƯỢC 

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Làm thế nào con người đạt tới hạnh phúc ?

T. Con người đạt được diễm phúc nhờ ân sủng của Đức Kitô, ân sủng này cho họ được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Kitô chỉ cho các môn đệ của mình con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu: đó là các Mối Phúc. Ân sủng của Đức Kitô cũng hoạt động trong tất cả những ai, dựa theo lương tâm ngay thẳng, tìm kiếm và yêu mến chân lý và điều thiện, và tránh điều ác.

2. Tại sao các Mối Phúc lại quan trọng đối với chúng ta?

T. Các Mối Phúc nằm ở trung tâm lời rao giáng của Chúa Giêsu, nhắc lại và hoàn thành các lời hứa mà Thiên Chúa đã trao ban từ thời ông Abraham. Các Mối Phúc phát hoạ chính diện mạo của Chúa Giêsu, nêu lên những đặc tính đích thực của đời sống người Kitô hữu và mạc khải cho con người cùng đích hoạt động của họ: đó là hạnh phúc đời đời.

3. Đâu là mối liên hệ giữa các Mối Phúc và lòng khao khát hạnh phúc của con người?

T. Các Mối Phúc đáp lại lòng khao khát bẩm sinh về hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn con người, để lôi kéo họ về với Ngài và chỉ mình Ngài mới có thể lấp đầy lòng khao khát ấy.

4. Hạnh phúc đời đời là gì?

T. Đó là việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu, ở đó chúng ta sẽ được trọn vẹn “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thông phần vinh quang của Đức Kitô và niềm vui của đời sống Ba Ngôi. Hạnh phúc đời đời vượt quá khả năng của con người. Đó là một hồng ân siêu nhiên và Thiên Chúa ban không, cũng như ân sủng dẫn đưa chúng ta đến đó. Hạnh phúc được hứa ban đặt chúng ta trước những lựa chọn luân lý có tính quyết định về của cải trần thế, thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.


MỤC 3

SỰ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI

1730. Thiên Chúa đã tạo dựng con người có lý trí khi ban cho họ phẩm giá của một ngôi vị có khả năng khởi xướng và điều khiển các hành vi của mình. “Thiên Chúa đã muốn con người tự quyết định lấy, để chính họ tự nguyện tìm kiếm Đấng Tạo hóa của mình và tự do đạt tới sự hoàn hảo sung mãn và hạnh phúc bằng việc kết hợp với Người” (x. GS 17).

“Con người có lý trí, và do đó giống như Thiên Chúa; con người được dựng nên có tự do trong sự quyết định và có quyền trên chính mình” (Thánh Irênê, chống lạc giáo 4,4,3).

I. TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM

1731. Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí, có thể hành động hay không hành động, có thể làm việc này hoặc việc khác; và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Nhờ có ý chí tự do, mỗi người tự quyết định về chính bản thân mình. Trong con người sự tự do là sức mạnh để tăng trưởng và trưởng thành trong chân lý và điều thiện. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo khi nó được quy hướng về Thiên Chúa, là vinh phúc của chúng ta.

1732. Bao lâu sự tự do chưa được xác định cách vĩnh viễn nơi sự thiện tối thượng là Thiên Chúa, thì nó vẫn còn có khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu; nghĩa là có thể tiến tới sự trọn hảo hoặc có thể sai lỗi và phạm tội. Tự do là nét đặc trưng của hành vi nhân linh. Tự do là nguồn mạch để được ca tụng, hoặc bị khiển trách, nguồn mạch của công trạng hoặc tội trạng.

1733. Ai càng làm điều tốt, người đó càng trở nên tự do. không có tự do đích thực nếu không phục vụ điều thiện và chân lý. Chọn sự bất tuân và điều xấu, là lạm dụng tự do và sự lựa chọn này đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội lỗi (x.Rm 6,17).

1734. Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ các hành vi này do chính họ muốn. Sự tiến tới về nhân đức, sự nhận biết điều thiện, và sự khổ chế làm gia tăng việc làm của ý chí đối với các hành vi của mình.

1735. Việc quy tội và trách nhiệm của một hành động nào đó có thể được giảm thiểu và thậm chí được loại bỏ vì lý do không biết, không chủ ý, do áp lực, do sợ hãi, do thói quen, do quá gắn bó, do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội.

1736. Mọi hành vi được muốn cách trực tiếp đều trách nhiệm về tác giả hành vi đó:

Chẳng hạn, Chúa hỏi ông Ađam sau khi ông phạm tội trong vườn địa đàng, “Ngươi đã làm gì thế:?” (St 3,13). Cũng một cách đó Chúa hỏi Cain (x.St 4,10). Tiên tri  Nathan cũng hỏi như vậy với vua Đavít. Sau khi Vua phạm  tội ngoại tình với vợ Uria và ra lệnh giết ông này. (x. 2V 12,7-15)

Một hành vi có thể chủ ý cách gián tiếp, khi nó là hậu quả của sự chểnh mảng đối với điều phải biết hay phải làm; ví dụ: gây ra một tai nạn vì không biết luật giao thông.

1737. Một hậu quả, do tác giả không chủ ý gây nên, có thể được dung thứ; ví dụ: người mẹ bị kiệt sức vì chăm sóc đứa con đau yếu. Một hậu quả xấu sẽ không bị quy lỗi nếu nó không phải là mục đích hay phương tiện của một hành động cố ý; ví dụ: một người bị thiệt mạng vì cứu người đang gặp nguy hiểm. Để một hậu quả xấu bị quy tội, hậu quả này phải có thể được thấy trước và tác giả có khả năng tránh được hậu quả đó; ví dụ: trường hợp làm chết người do lái xe trong tình trang say rượu.

1738. Sự tự do được thực thi trong các tương quan giữa người với người. Mỗi nhân vị được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, có quyền tự nhiên được công nhận như một hữu thể tự do và có trách nhiệm. Mọi người có bổn phận tôn trọng quyền đó của mỗi người. Quyền sử dụng tự do là một đòi hỏi không thể tách biệt khỏi phẩm giá nhân vị, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo. Quyền này phải được luật dân sự công nhận và bảo vệ, trong giới hạn của công ích và trật tự công cộng chính đáng. (x. CĐ Vaticano II Dignitatis hummanae: 7 AAS 58 (1966) 934-935)

II. SỰ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI TRONG NHIỆM CỤC CỨU ĐỘ

1739. Sự tự do và tội lỗi. Sự tự do của con người thì có giới hạn và có thể lầm lạc. Quả thật, con người đã sa ngã, con người đã phạm tội cách tự do. Khi từ chối kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, con người đã tự lừa dối mình và trở thành nô lệ của tội lỗi. Sự tha hóa đầu tiên này đã sinh ra nhiều sự tha hóa khác. Lịch sử  nhân loại, ngay từ những lúc khởi đầu, làm chứng rằng những tai họa và áp bức phát sinh từ trái tim con người, như một hậu quả của việc sử dụng sai tự do.

1740. Những nguy hiểm đe dọa sự tự do. Việc thực thi sự tự do không bao hàm quyền được nói mọi sự và làm mọi sự. Thật là sai lầm khi cho rằng “con người  một chủ thể tự do, là một cá nhân tự đủ cho mình, và mục tiêu tối hậu của cá nhân đó, là thỏa mãn các sở thích của mình bằng cách hưởng thụ các của cải trần thế” (CDF, tự do tín ngưỡng). Ngoài ra, những điều kiện về trật tự kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa phải có để thực thi tự do cách chính đáng, rất thường không được biết tới và bị vi phạm. Những tình trạng đen tối và bất công này làm băng hoại đời sống luân lý và cám dỗ kẻ mạnh cũng như người yếu phạm tội nghịch đức ái. Con người khi tách biệt khỏi luật luân lý, làm thương tổn sự tự do riêng của mình, tự trói buộc mình, cắt đứt tình huynh đệ với đồng loại và nổi loạn chống lại chân lý thần linh.

1741. Sự giải thoát và cứu độ. Đức Kitô nhờ thập giá vinh quang của Ngài, đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi  người. Người cứu chuộc họ khỏi tội lỗi đang cầm giữ họ làm nô lệ. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Trong Người, chúng ta được hiệp thông với “chân lý giải thoát” (Ga 8,32). Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta và như thánh tông đồ dạy: “Ở đâu có Thần Khí của Chúa thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17). Ngay từ bây giờ,  chúng ta được vinh dự về “Sự tự do của con cái Thiên Chúa” (Rm 8,21).

1742. Sự tự do và ân sủng. Ân sủng của  Đức Kitô không hề đối nghịch với sự tự do của chúng ta, khi sự tự do này phù hợp với ý nghĩa của chân lý và điều thiện mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim con người. Trái lại, như kinh nghiệm Kitô giáo chứng tỏ, nhất là trong việc cầu nguyện: chúng ta càng ngoan ngoãn đối với những thúc đẩy của ân sủng, thì càng gia tăng sự tự do nội tâm của chúng ta và sự vững vàng của chúng ta trong các thử thách, cũng như trước những áp lực, và cưỡng bách của thế giới bên ngoài. Bằng tác động của ân sủng, Chúa Thánh Thần giáo dục chúng ta về sự tự do thiêng liêng để chúng ta trở thành những cộng sự viên tự nguyện cho công trình của Ngài trong Hội Thánh và trong trần gian :

“Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin đẩy xa những gì cản bước tiến của chúng con trên  đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng con được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa” (x.SLMR, Lời nguyện CN 32).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Tự do là gì?

T. Tự do là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để hành động hay không hành động, để làm việc này hay làm việc khác, và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Tự do là nét đặc trưng của các hành vi nhân linh. Càng làm điều thiện, người ra càng tự do hơn. Tự do hướng đến sự hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, Đấng là sự thiện tối thượng và là hạnh phúc của chúng ta. Tự do cũng bao hàm khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu. Sự lựa chọn điều xấu là một lạm dụng tự do, đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội lỗi.

2. Đâu là mối tương quan giữa tự do và trách nhiệm?

T. Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ các hành vi này do chính họ muốn, cả khi việc quy trách và trách nhiệm về một hành động có thể bị giảm thiểu hoặc đôi khi bị loại bỏ, vì lý do không biết, không chú ý, do áp lực, do sợ hãi, do quá gắn bó, hoặc do các thói quen.

3. Tại sao mọi người có quyền thực thi tự do của mình?

T. Mỗi người đều có quyền sử dụng tự do của mình, vì tự do không thể tách rời khỏi phẩm giá con người. Vì thế, quyền này phải luôn được tôn trọng, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo. Quyền tự do này phải được quyền bính dân sự công nhận và bảo vệ, trong các giới hạn của công ích và trật tự công cộng chính đáng.

4. Sự tự do của con người có chỗ đứng nào trong kế hoạch cứu độ?

T. Sự tự do của chúng ta bị suy yếu vì tội nguyên tổ. Sự suy yếu này càng trầm trọng hơn vì các tội lỗi sau đó. Nhưng “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Nhờ ân sủng của Người, Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đến sự tự do thiêng liêng, để làm cho chúng ta thành những cộng tác viên tự do của Người, trong Hội Thánh và trong thế giới.


MỤC 4

TÍNH LUÂN LÝ CỦA CÁC HÀNH VI NHÂN LINH

1749. Sự tự do làm cho con người thành một chủ thể luân lý. Con người khi hành động một cách có chủ ý, có thể nói được là cha đẻ các hành vi của mình. Các hành vi nhân linh, nghĩa là đã được lựa chọn cách tự do theo phán đoán của lương tâm, đều có tính luân lý: chúng là những hành vi tốt hoặc xấu.

I. NGUỒN GỐC CỦA TÍNH LUÂN LÝ

1750. Tính luân lý của các hành vi nhân linh tùy thuộc vào:

- Đối tượng được lựa chọn;

- Mục đích nhắm tới hoặc ý hướng;

- Các hoàn cảnh của hành động.

Đối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh tạo nên các “nguồn mạch”, còn gọi là các yếu tố cấu thành, của tính luân lý của các hành vi nhân linh

1751. Đối tượng được lựa chọn là một điều thiện được ý chí chủ ý nhắm tới. Đó là chất liệu của hành vi nhân linh. Đối tượng được lựa chọn xếp loại hành vi của ý chí về mặt luân lý, theo lý trí nhận biết và phán đoán đối tượng ấy phù hợp hay không phù hợp với điều thiện đích thực. Những quy tắc khách quan của tính luân lý vạch cho thấy trật tự hợp lý về điều tốt và điều xấu, một trật tự được lương tâm xác nhận.

1752. Đối diện với đối tượng, ý hướng thuộc ở về phía chủ thể hành động. Ý hướng từ nguồn mạch chủ ý của một hành động và xác định hành động đó nhờ mục đích, nên nó là một yếu tố căn bản trong việc đánh giá tính luân lý của hành động. Mục đích là điểm đầu tiên của ý hướng, và đưa ra mục tiêu mà hành động theo đuổi. Ý hướng là động thái của ý chí hướng đến mục đích, nhắm đến đích điểm của hành động, ý hướng là việc nhắm tới điều thiện được mong đợi khi bắt đầu hành động. Ý hướng không bị thu hẹp vào việc định hướng cho từng hành động riêng lẻ, nhưng có thể quy hướng nhiều hành động nhắm đến cùng một mục tiêu. Ý hướng đó có thể định hướng cả cuộc đời nhắm đến mục đích tối hậu. Chẳng hạn: một việc phục vụ có mục đích là giúp đỡ người lân cận, nhưng đồng thời nó có thể được linh hướng bởi tình yêu Thiên Chúa xét như một mục đích tối hậu của mọi hành động của chúng ta. Cùng một hành động cũngcó thể được gợi hứng do nhiều ý hướng, như phục vụ để nhận một đặc ân hoặc để khoe khoang.

1753. Một ý hướng tốt (ví dụ: giúp đỡ người lân cận) không thể làm cho một hành động tự nó là sai trái (như nói dối, nói xấu), trở thành tốt hay đúng. Mục đích không biện minh cho phương tiện. Như thế, việc kết án một người vô tội không thể được biện minh như phương tiện hợp pháp để cứu dân. Trái lại, một ý hướng xấu được thêm vào (như tìm hư danh x. Mt 6,2-4) có thể làm cho một hành vi tự nó có thể là tốt (như bố thí trở thành xấu).

1754. Các hoàn cảnh, gồm cả những hậu quả, là những yếu tố phụ thuộc của một hành vi luân lý. Chúng góp phần làm gia tăng hay giảm thiểu tính chất tốt hay xấu về mặt luân lý của những hành vi nhân linh (Ví dụ: số lượng của vụ cắp nào đó), Chúng cũng có thể giảm thiểu hay gia tăng trách nhiệm của tác giả (như hành động vì sợ chết). Tự chúng, các hoàn cảnh không thể thay đổi phẩm chất luân lý của chính các hành vi. Chúng không thể làm cho một hành vi tự nó là xấu, trở nên tốt hay đúng.

II. HÀNH VI TỐT VÀ HÀNH VI XẤU

1755. Một hành vi tốt về mặt luân lý đồng thời giả thiết đối tượng, mục đích và các hoàn cảnh đều phải tốt. Mục đích xấu làm hư hoại hành động, mặc dù đối tượng của hành động tự nó là tốt (như cầu  nguyện và ăn chay như là “để người  khác trông thấy”).

Đối tượng được lựa chọn có thể mình nó làm cho toàn bộ hành động trở nên xấu. Có những hành động cụ thể, như tội tà dâm, mà việc lựa chọn chúng luôn luôn là sai lầm, bởi vì việc lựa chọn chúng đã bao hàm một sự lệch lạc của ý chí, nghĩa là một điều xấu luân lý.

1756. Vì vậy, là sai lầm, nếu thẩm định tính luân lý của các hành vi nhân linh mà chỉ quan tâm đến ý hướng gợi hứng cho các hành vi đó các hoặc hoàn cảnh như là “sân khấu” của các hành vi đó (môi trường, áp lực xã hội, cưỡng bách hoặc nhu cầu phải hành động....). Có những hành vi tự nó và trong nó, hoàn toàn độc lập khỏi các hoàn cảnh và các ý hướng, luôn là bất hợp pháp một cách nghiêm trọng do đối tượng của chúng; chằng hạn lộng ngôn, thề gian, sát nhân và ngoại tình. Không được phép làm điều xấu, để từ đó đạt tới điều tốt.

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Đâu là nguồn gốc tính chất luân lý của các hành vi nhân linh?

T. Tính chất luân lý của các hành vi nhân linh dựa trên ba nguồn:

- Đối tượng được lựa chọn, nghĩa là một điều thiện đích thực hay có vẻ như thế.

- Ý hướng của chủ thể hành động, nghĩa là mục đích khiến cho chủ thể hành động.

- Các hoàn cảnh của hành động, bao gồm cả các hậu quả của hành động.

2. Khi nào hành vi là tốt xét về phương diện luân lý?

T. Xét về phương diện luân lý, hành vi là tốt khi đồng thời đối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh đều tốt. Đối tượng được chọn có thể tự nó có thể làm cho hành vi trở thành xấu, dù có ý hướng tốt. Không được phép làm một điều xấu để đạt được một điều tốt. Một mục đích xấu có thể làm cho hành vi ra xấu cho dù đối tượng tự nó là tốt. Ngược lại, một mục đích tốt không thể làm cho một hành động mà đối tượng của nó là xấu, trở thành tốt được, vì mục đích không biện minh cho các phương tiện. Các hoàn cảnh có thể làm giảm thiểu hay gia tăng trách nhiệm của tác giả hành vi, nhưng chúng không thể làm thay đổi phẩm chất luân lý của chính các hành vi. Các hoàn cảnh không bao giờ làm cho một hành vi tự nó là xấu trở thành tốt được.

3. Có phải có những hành vi luôn luôn không được phép làm hay không?

T. Có những hành vi luôn luôn là không được phép lựa chọn, vì đối tượng của chúng (chẳng hạn lộng ngôn, giết người và ngoại tình). Việc lựa chọn những hành vi này bao hàm một sự lệch lạc của lòng muốn, nghĩa là một điều xấu luân lý; điều xấu này không thể biện minh bằng việc xét đến những hậu quả tốt có thể phát xuất từ đó.

 


MỤC 5

TÍNH LUÂN LÝ CỦA CÁC ĐAM MÊ

1762. Nhân vị được quy hướng tới vinh phúc nhờ những hành vi chủ ý của mình: các đam mê hay tình cảm mà nó cảm nghiệm, có thể chuẩn bị và góp phần giúp nó đạt tới vinh phúc đó.

I. CÁC ĐAM MÊ

1763. Thuật ngữ “các đam mê” nằm trong di sản Kitô giáo. Các tình cảm hay đam mê là những cảm xúc, những chuyển biến hay những rung động của sự nhạy cảm, chúng thúc đẩy con người hành động hay không hành động, theo điều được cảm nhận hay tưởng tượng là tốt hoặc xấu.

1764. Các đam mê là những yếu tố tự nhiên của tâm lý con người. Chúng tạo thành nơi chuyển tiếp và bảo đảm mối liên kết giữa đời sống cảm giác và đời sống tinh thần. Chúng ta coi trái tim con người như là nguồn mạch từ đó phát xuất các chuyển biến của đam mê (x. Mc 7,21).

1765. Có nhiều thứ đam mê. Đam mê căn bản nhất là tình yêu được gợi lên do sự hấp dẫn của điều thiện. Tình yêu gây nên sự khao khát điều thiện mình chưa có và niềm hy vọng đạt được điều thiện đó. Động thái này được hoàn thành trong việc thưởng thức điều thiện đã sở hữu và trong sự vui mừng về điều thiện đó. Sự hiểu biết điều ác, gây lên lòng thù ghét, ghê tởm và sợ hãi điều ác sắp đến. Động thái này được hoàn thành trong sự buồn sầu khi điều ác hiện diện, và trong sự phẫn nộ chống lại điều ác đó.

1766. “Yêu là muốn điều tốt  cho ai đó”. (Thánh Tôma Aquinô, Tổng  Luận Thần Học 1-2, 26,4). Tất cả những  tình cảm khác đều bắt nguồn từ động thái gốc này của trái tim con người về điều tốt. Không gì khác được yêu mến trừ điều tốt (Thánh Augustino, Chúa Ba Ngôi 8,3,4). “Vì vậy các tình cảm là xấu, nếu là tình yêu xấu, các tình cảm là tốt nếu tình yêu tốt” (Thánh Augustino, Thành Đô Thiên Quốc 14,7).

II. CÁC ĐAM MÊ VÀ ĐỜI SỐNG LUÂN LÝ

1767. Các đam mê tự chúng thì không tốt cũng không xấu. Chúng được đánh giá về mặt luân lý tùy thật sự vào lý trí hoặc ý chí. Các đam mê được coi là có chủ ý “hoặc khi chúng được điều khiển bởi ý chí hoặc chúng không bị ngăn cản bởi ý chí (T.Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học 1-2,24,1). Muốn đạt tới sự hoàn hảo của điều thiện về mặt luân lý hay nhân linh, các đam mê phải được điều khiển bởi lý trí.

1768. Những cảm giác mạnh mẽ của tâm hồn không quyết định tính luân lý hay sự thánh thiện của các nhân vị; chúng chỉ là kho chứa vô tận những hình ảnh và tình cảm trong đó đời sống luân lý được diễn tả. Về mặt luân lý, các đam mê là tốt khi đưa đến một hành động tốt, và xấu trong trường hợp ngược lại. Ý chí ngay thẳng quy hướng các động thái giác quan, mà nó đảm nhận về điều tốt và về vinh phúc, còn ý chí xấu ngả theo các đam mê hỗn loạn và làm cho chúng thêm tồi tệ. Các cảm xúc và cảm giác có thể được thăng hoa thành các nhân đức, hoặc bị thoái hóa thành các thói xấu.

1769. Trong đời sống Kitô hữu, chính Chúa Thánh Thần kiện toàn công trình của Ngài, khi động viên toàn bộ nhân vị, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền của họ, như ta thấy trong cơn hấp hối và cuộc khổ nạn của Chúa. Trong Đức Kitô, những tình cảm nhân loại có thể được hoàn tất trong đức mến và vinh phúc thần linh.

1770. Sự trọn hảo về mặt luân lý là con người được động viên hướng tới điều thiện không những bằng ý chí của mình mà còn sự thích thú giác quan nữa, theo như lời  thánh vịnh: “Cả tấm thân con cùng là tấc dạ, những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84,3)

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Các đam mê là gì?

T. Đam mê là những cảm xúc, những chuyển biến hay những rung động của sự nhạy cảm, đó là những yếu tộ tự nhiên của tâm lý con người, chúng thúc đẩy con người hành động hay không hành động, theo điều được cảm nhận là tốt hoặc xấu. Những đam mê căn bản là yêu và ghét, ước muốn hoặc sợ hãi, vui buồn và phẫn nộ. Đam mê quan trọng nhất là tình yêu, được hấp dẫn bởi điều thiện. Người ta chỉ yêu điều thiện hảo, hoặc là điều thiện hảo thực sự hoặc là điều người ta tưởng là thiện hảo.

2. Xét về khía cạnh luân lý, đam mê là tốt hay xấu?

T. Vì là những rung động của sự nhạy cảm, đam mê tự chúng không tốt cũng chẳng xấu. Đam mê tốt khi đưa đến những hành động tốt, và là xấu trong trường hợp nghịch lại. Các đam mê có thể được thăng hoa thành các nhân đức hay thoái hoá thành các thói xấu.

MỤC 6

LƯƠNG TÂM

1776. “Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không tự đặt ra cho mình, nhưng con người vẫn phải tuân theo lề luật đó. Tiếng nói của lề luật đó luôn luôn kêu gọi con người yêu mến và làm điều tốt cũng như tránh điều xấu. Vào lúc cần thiết tiếng nói ấy âm vang lên trong trái tim con người... Quả thật, con người có một lề luật được Thiên Chúa khắc ghi trong trái tim họ. Lương tâm là hạt nhân bí ẩn nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người ở một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thẳm sâu lòng họ” (GS 16).

I. PHÁN ĐOÁN CỦA LƯƠNG TÂM

1777. Lương tâm hiện diện trong trái tim của nhân vị (x. Rm 2, 14-16), ra lệnh cho nó vào đúng lúc phải làm lành lánh dữ. Lương tâm cũng phán đoán các lựa chọn cụ thể là chuẩn y những lựa chọn tốt, phản đối những lựa chọn xấu (x.Rm 1, 32). Lương tâm chứng nhận thẩm quyền về chân lý liên quan đến Đấng là sự thiện tối thượng, mà nhân vị cảm nghiệm được sự lôi kéo của Ngài và đón nhận các lệnh truyền của Ngài. Người khôn ngoan khi nghe tiếng lương tâm, có thể nghe tiếng Thiên Chúa nói.

1778. Lương tâm là một phán đoán của lý trí; nhờ đó, nhân vị nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi cụ thể mình sắp làm, đang làm hay đã làm, con người, trong mọi điều mình nói hoặc làm, buộc phải trung thành theo điều mình biết là chính đáng và trung thực. Con người, nhờ phán đoán lương tâm của mình, cảm thấy và nhận biết những quy định của lề luật thần linh.

“Lương tâm là một lề luật của tinh thần chúng ta, nhưng lại vượt quá tinh thần chúng ta, nó đưa ra cho chúng ta những quy định, nó nói lên trách nhiệm và bổn phận, sự sợ hãi và niềm hy vọng. Lương tâm là sứ giả của Đấng, trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật tự ân sủng, nói với chúng ta sau một bức màn, dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta. Lương tâm là vị đại diện của Đức Kitô” (Newman, thư  gởi quận công Norfolk )

1779. Điều quan trọng là mỗi người phải hiện diện với chính mình, để lắng nghe và tuân theo tiếng lương tâm của mình. Sự đòi hỏi sống nội tâm rất cần thiết, vì đời sống thường dẫn chúng ta đến nguy cơ là chúng ta bị lôi kéo khỏi mọi suy tư, kiểm điểm hay hồi tâm:

“Bạn hãy quay về với lương tâm của bạn, hãy tự vấn lương tâm....thưa anh em, hãy quay về với nội tâm và trong mọi sự anh em làm, hãy nhìn lên chứng nhân là Thiên Chúa”. ( T. Augustino)

1780. Phẩm giá của nhân vị bao hàm và đòi hỏi sự ngay chính của lương tâm. Lương tâm gồm có việc nhận thức các nguyên tắc luân lý việc áp dụng các nguyền tắc vào những hoàn cảnh cụ thể nhờ phân định thực tiễn các lý lẽ và các lợi ích, và cuối cùng việc phán đoán về các hành vi cụ thể phải làm hay đã làm. Chân lý về điều thiện luân lý, đã được lý trí nêu lên, được nhận biết cách thực tiễn và cụ thể nhờ phán đoán khôn ngoan của lương tâm. Người chọn theo phán đoán này được gọi là kẻ khôn ngoan.

1781. Lương tâm cho phép đảm nhận trách nhiệm về những hành vi đã thực hiện. Nếu con người làm điều xấu, phán đoán ngay chính của lương tâm nơi người đó có thể là chứng nhân cho chân lý phổ quát của điều tốt, đồng thời cũng là chứng nhân cho sự xấu xa của việc lựa chọn riêng của người đó. Án lệnh do phán đoán của lương tâm cũng là bảo chứng cho niềm hy vọng và lòng thương xót. Khi xác nhận lỗi lầm đã phạm, lương tâm nhắc nhở chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ, phải làm điều tốt và phải không ngừng vun trồng nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa:

Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta,và Người biết hết mọi sự” (1Ga 3,19-20)

1782. Con người có quyền hành động cách tự do theo lương tâm, để có thể đảm nhận những quyết định luân lý một cách cá vị. “Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, nhất là trong vấn đề tôn  giáo” (DH 3)

II. VIỆC HUẤN LUYỆN LƯƠNG TÂM

1783. Lương tâm phải được trở nên vững chắc hơn và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được huấn luyện tốt thì ngay chính và chân thật. Nó sẽ đưa ra những phán đoán theo lý trí, phù hợp với điều thiện đích thực mà Đấng sáng tạo khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm là cần thiết cho con người, vì họ đang bị chi phối bởi các ảnh hưởng tiêu cực và bị cám dỗ bởi tội lỗi, nên thích làm theo ý riêng hơn và khước từ những đạo lý được đưa ra một cách có thẩm quyền.

1784. Việc giáo dục lương tâm là nhiệm vụ của cả cuộc đời. Ngay từ những năm đầu tiên, việc giáo dục gợi lên cho trẻ em sự nhận biết và thực hành luật nội tâm đã được lương tâm công nhận. Một nền giáo dục khôn ngoan dạy nhân đức, đề phòng và chữa lành con người khỏi sợ hãi, khỏi yêu mình cách mù quáng (tính ích kỷ) và khỏi kiêu căng, khỏi những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, phát  sinh từ sự yếu đuối và những lỗi lầm của con người. Việc giáo dục lương tâm bảo đảm cho sự tự do và tạo nên sự bình an trong trái tim.

1785. Trong việc huấn luyện lương tâm, Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Chúng ta phải thấm nhuần Lời Chúa vào trong đức tin, và kinh nguyện, và phải đem ra thực hành; chúng ta cũng phải kiểm điểm lương tâm bằng cách nhìn lên Thập Giá của Chúa; các hồng ân của Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta, chúng ta còn được giúp đỡ bởi lời chứng và lời khuyên nhủ những người khác và được hướng dẫn bởi đạo lý của Hội Thánh được đưa ra một cách có thẩm quyền (DH 14).

III. CHỌN LỰA THEO LƯƠNG TÂM

1786. Lương tâm đứng trước một chọn lựa luân lý, có thể đưa ra, hoặc một phán đoán ngay chính phù hợp với lý trí và lề luật thần linh, hoặc trái lại, một phán đoán sai lầm, xa rời lý trí và lề luật thần linh.

1787. Con người đôi khi gặp những hoàn cảnh làm cho phán đoán luân lý không được chắc chắn và khó quyết định. Tuy nhiên, họ phải luôn tìm kiếm điều đúng và điều tốt, và phân định ra thánh ý của Thiên Chúa được diễn tả trong lề luật thần linh.

1788. Để đạt được điều này, con người phải cố gắng giải thích các dữ kiện của kinh nghiệm và các dấu chỉ của thời đại, nhờ đức khôn ngoan, nhờ những lời khuyên bảo của những người khôn ngoan và nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và của các hồng ân của Ngài.

1789. Một số quy tắc được áp dụng  trong mọi trường hợp:

- Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt tới  một điều tốt.

- Khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” ( Mt 7,12; x. Lc 6,31;Tb 4,15).

- Đức mến luôn đòi hỏi tôn trọng người lân cận và lương tâm của họ. “như vậy phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Kitô” (1Cr 8,12). “Tốt nhất là tránh những gì gây cớ cho anh em mình vấp ngã  (Rm 14,21).

IV. PHÁN ĐOÁN SAI LẦM

1790. Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán đó, con người tự kết án chính mình. Nhưng có thể lương tâm ở trong tình trạng thiếu hiểu biết và đưa ra những phán đoán sai lầm về các hành vi phải làm hoặc đã làm.

1791. Sự thiếu hiểu biết này thường có thể được quy cho trách nhiệm cá vị. Điều đó xảy ra: “khi con người ít lo tìm kiếm điều thật và điều tốt, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm hầu như bị mù quáng” (x.GS 16). Trong các trường hợp đó, nhân vị bị quy tội vì điều xấu nó đã làm.

1792. Sự thiếu hiểu biết Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài, các gương xấu của kẻ khác, sự nô lệ các đam mê; việc đòi hỏi một sự tự lập hiểu theo nghĩa xấu về lương tâm, việc khước từ thẩm quyền và đạo lý của Hội Thánh, sự thiếu hối cải và bác ái có thể là nguồn gốc của những lệch lạc của phán đoán trong thái độ luân lý.

1793. Trái lại, nếu sự thiếu hiểu biết không thể vượt thắng được, hoặc nếu phán đoán sai lạc không do trách nhiệm  của chủ thể luân lý, thì nhân vị không thể bị qui tội về điều xấu nó đã làm. Tuy nhiên, điều xấu ấy vẫn là điều xấu, một khiếm  khuyết, một sự vô trật tự. Vậy cần thiết là phải làm sao để lương tâm được sửa chữa khỏi những sai lầm của nó.

1794. Lương tâm tốt và trong sạch được soi sáng bởi đức tin chân chính, vì đức mến xuất phát từ “một tâm hồn trong sạch, một lương  tâm ngay thẳng và một đức tin không giả hình” (1Tm 1,5); (x. 1Tm 3,9; 1Tm 1,3; 1P 3,23; Cv 24,16).

“Lương tâm ngay thẳng càng chiếm ưu thế thì các nhân vị và các tập thể càng tránh được sự quyết định mù quáng và càng nỗ lực sống phù hợp với những quy định khách quan của luân lý” (x. GS 16 ).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Lương tâm là gì?

T. Hiện diện trong sâu thẳm lòng người, lương tâm là một phán đoán của lý trí, vào đúng lúc, thúc đẩy con người làm lành lánh dữ. Nhờ lương tâm, con người nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi sẽ làm hay đã làm, và đảm nhận trách nhiệm về hành vi đó. Khi lắng nghe tiếng nói của lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe được tiếng Thiên Chúa nói với mình.

2. Phẩm giá con người đòi buộc điều gì đối với lương tâm?

T. Phẩm giá của con người đòi hỏi sự ngay chính của lương tâm, có nghĩa là lương tâm phải phù hợp với cái gì là đúng và tốt theo lý trí và Lề luật của Thiên Chúa. Căn cứ vào phẩm giá nhân vị đó, con người không thể bị ép buộc phải hành động nghịch lại với lương tâm mình, cũng như không thể bị ngăn cản, trong các giới hạn của công ích, hành động theo lương tâm mình, nhất là trong lĩnh vực tôn giáo.

3. Làm thế nào để đào tạo lương tâm ngay thẳng và chân thật?

T. Lương tâm ngay thẳng và chân thật được đào tạo qua giáo dục, qua việc thấm nhuần Lời Chúa và các giáo huấn của Hội Thánh. Lương tâm được các hồng ân Chúa Thánh Thần nâng đỡ và được các lời khuyên bảo của những người khôn ngoan trợ giúp. Ngoài ra, việc cầu nguyện và xét mình cũng đóng góp rất nhiều vào việc đào tạo luân lý.

4. Đâu là những quy tắc mà lương tâm luôn phải theo?

T. Có ba quy tắc căn bản:

1. Không bao giờ được làm điều xấu để đạt tới điều tốt;

2. Khuôn vàng thước ngọc:Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12);

3. Đức ái Kitô giáo luôn đòi hỏi tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ, tuy vậy không có nghĩa là chấp nhận là tốt một điều theo khách quan vốn là xấu.

5. Lương tâm có thể đưa ra những phán đoán sai lầm không?

T. Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình; nhưng lương tâm cũng có thể đưa ra những phán đoán sai lầm, vì những nguyên nhân nhiều khi do lỗi của con người. Tuy nhiên, người ta không thể quy trách nhiệm cho người thực hiện điều xấu vì sự thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, cả khi đó là một điều xấu khách quan. Chính vì thế, con người phải vận dụng hết mọi khả năng để sửa lại những sai lầm của lương tâm.


MỤC 7

CÁC NHÂN ĐỨC

1803. Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).

Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện, nó khiến nhân vị không những thực hiện những hành vi tốt, mà còn cống hiến những điều tốt nhất của bản thân mình. Người nhân đức hướng về điều thiện với tất cả sức mạnh giác quan và tinh thần của mình; Họ theo đuổi và lựa chọn điều thiện bằng những hành động cụ thể của mình.

“Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (Thánh Grêgôriô thành Nicê, các mối phúc 1).

I. CÁC NHÂN ĐỨC NHÂN BẢN

1804. Các nhân đức nhân bản là những thái độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, những trọn hảo thường xuyên của lý trí và ý chí, nhằm điều khiển các hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê của chúng ta và hướng dẫn nếp sống của chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức này đem lại cho con người sự thoải mái, sự tự chủ và niềm vui, để sống một cuộc đời tốt lành về mặt luân lý. Người nhân đức là người thực thi điều thiện cách tự nguyện.

Các nhân đức luân lý được thủ đắc theo cách thức nhân loại. Chúng là hoa trái và mầm mống của những hành vi tốt về mặt luân lý; Chúng chuẩn bị mọi năng lực của con người  cho việc hiệp thông với tình yêu  của Thiên Chúa.

Nét đặc biệt của các nhân đức trụ

1805. Có bốn nhân đức giữ nhiệm “cột trụ”. Vì vậy, chúng được gọi là các nhân đức “trụ”, mọi nhân đức khác đều quy tụ quanh bốn nhân đức này. Đó là khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. “Con người mến chuộng đức công bằng ư? thì chính đức Khôn Ngoan sản sinh các nhân đức: Quả vậy, đức Khôn Ngoan dạy cho biết sống tiết  độ, cẩn trọng, công bằng và dũng mãnh” (Kn 8,7). Các nhân đức này còn được ca ngợi trong nhiều đoạn văn của Kinh Thánh bằng những danh xưng khác .

1806. Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định được điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó “Người khôn ngoan thì đắn đo từng bước” (Cn 14,15). ”Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu  nguyện được” (1 Pr 4,7). Sau ông Aristote, Thánh Tôma viết : “khôn ngoan là quy tắc  đúng đắn để hành động” (x. S.th 2-2, 47,2 ). Không được lẫn lộn đức khôn ngoan với tính nhút nhát hay sợ sệt, tráo trở hay lừa đảo. Đức Khôn ngoan được gọi là người hướng dẫn các nhân đức, thật vậy, nó hướng dẫn các nhân đức khác bằng cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng. Đức khôn ngoan trực tiếp hướng dẫn sự phán đoán của lương tâm. Người khôn ngoan quyết định và sắp đặt cách hành động của mình theo sự phán đoán này. Nhờ nhân đức này, chúng ta áp dụng các nguyên tắc luân lý vào những trường hợp cụ thể, mà không bị sai lầm và chúng ta vượt qua được những hồ nghi về điều tốt phải  làm và điều xấu phải tránh.

1807. Công bằng là nhân đức luân lý cốt tại một ý chí liên lỷ và vững chắc quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với  Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với công ích. Người công bằng thường được nhắc tới trong Thánh Kinh, có nét đặc biệt là sự ngay thẳng thường xuyên trong các ý nghĩ của mình và ngay thẳng trong cách hành động đối với người lân cận. “ngươi không được thiên vị với người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều  với các nô lệ, vì biết rằng  cả anh em nữa cũng có một Chủ trên  trời” (Cl 4,1).

1808. Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì  và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời. Nó củng cố sự quyết tâm chống lại các cám dỗ và vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý. Đức can đảm, giúp chúng ta có khả năng chiến thắng sự sợ hãi, thậm chí cả sự chết, đương đầu với sự thử thách và các cuộc bách hại. Nó giúp chúng ta đi đến chỗ từ bỏ và hy sinh mạng sống mình để bảo vệ lẽ phải. “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca  ngợi” (Tv 118,14). “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm  lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

1809. Tiết độ là nhân đức luân lý giúp chúng ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải trần thế. Nó giúp ý chí làm chủ các bản năng và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn của sự lương thiện. Người tiết độ quy hướng các thèm muốn giác quan của mình về điều thiện giữ được sự thận trọng lành mạnh, “không chiều theo sức mạnh của mình mà bước theo dục vọng của trái tim mình” (Hc 5,2). Đức tiết độ thường được ca tụng trong Cựu Ước: “Con đừng buông  theo các tham vọng của con, nhưng hãy kiềm chế các dục vọng” (Hc 18,30). Trong Tân Ước nhân đức nàyđược gọi là sự “chừng mực” hay sự ”điều độ”, chúng ta phải sống “chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” ( Tt 2,12).

“Sống tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trái tim, hết linh hồn và hết tâm trí mình,…. tình yêu này phải được gìn giữ trọn vẹn và không hư hoại, đó là phần của đức tiết độ, không bị suy yếu bởi một rối loạn nào, đó là phần của đức can đảm, không phục vụ một ai khác, đó là phần của đức công bằng, tỉnh thức khi phân định các sự việc kẻo dần dần sự lừa đảo hoặc phản bội lẻn vào, đó là phần của đức khôn ngoan” (Thánh Augustinô, De moribus Ecclesiae catholicae 1,25; 46: CSEL 90, 51)

Các nhân đức và ân sủng

1810. Các nhân đức nhân bản có được là nhờ sự giáo dục, nhờ các hành vi chủ ý và nhờ luôn cố gắng kiên trì, các nhân đức này được thanh luyện và nâng cao nhờ ân sủng thần linh. Nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, các nhân đức này tôi luyện tính tình và đem lai sự thoải mái trong việc thực thi điều thiện. Người nhân đức hạnh phúc khi thực thi các nhân đức đó.

1811. Con người bị tổn  thương vì tội lỗi, không dễ mà giữ được sự quân bình luân lý. Ơn cứu độ của Đức Kitô đem lại cho chúng ta ân sủng cần thiết để kiên trì trong việc tìm kiếm các nhân đức. Mỗi người phải luôn cầu xin ơn soi sáng và ơn sức mạnh, luôn chạy đến với các bí tích, luôn cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe theo lời kêu  gọi của Người để  yêu mến điều tốt và giữ mình khỏi điều xấu.

II. CÁC NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN

1812. Các nhân đức nhân bản được bén rễ trong các nhân đức đối thần. Là những nhân đức thích ứng các tài năng của con người để dự phần vào bản tính thần linh (2 Pr 1,4). Quả vậy, các nhân đức đối thần trực tiếp quy chiếu về Thiên Chúa, chúng giúp các Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức đối thần có Thiên Chúa nhất thể tam vị là nguồn gốc, động lực và đối tượng.

1813.Các nhân đức đối thần là nền móng, làm sinh động và là nét đặc thù của các hành vi luân lý của Kitô hữu. Chúng định hình và mạng lại sự sống cho tất cả các nhân đức luân lý, các nhân đức này được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn các tín hữu, giúp họ có khả năng hành động như con cái Ngài và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu. Các nhân đức đối thần là bảo chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người. Có ba nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy, đức mến  (x. 1Cr 13,13).

Đức tin

1814. Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa, và tất cả những gì Ngài đã nói và đã mặc khải cho chúng ta, và những gì Hội Thánh dạy chúng ta, vì Thiên Chúa chính là chân lý. “nhờ đức tin, con người tự nguyện phó thác toàn thân cho Thiên Chúa” (x. DV 5 ). Vì vậy ai tin, người đó cố gắng nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm1,17). Đức tin sống động “hành động nhờ đức mến” ( Gl 5,6 )

1815. Hồng ân đức tin tồn tại trong người không phạm tội nghịch với đức tin (x. Công đồng TrenTô: DS 1545). Nhưng “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Nếu thiếu đức  cậy và đức mến, đức tin sẽ không kết hợp đầy đủ người tín hữu với Đức Kitô và không làm cho họ trở nên chi thể sống động trong Thân Thể Người.

1816. Người môn đệ Đức Kitô không những phải gìn giữ đức tin và sống bởi đức tin, mà còn tuyên  xưng, can đảm làm chứng và truyền bá đức tin: “Mọi tín hữu phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt người ta và bước theo Người trên đường thập  giá, giữa những cuộc bách hại mà Hội Thánh luôn luôn gặp phải” (x.LG 42; DH 14). Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu độ. “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 10,32-33 ).     

Đức cậy

1817. Đức cậy là nhân đức  đối thần, nhờ đó, nhớ đó chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của chúng ta, khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự  trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức mạnh của chúng ta. “chúng ta hãy tiếp tục tuyên  xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23). “Thiên Chúa tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng  của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3, 6-7)

1818. Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim mỗi người, đảm nhận  những sự mong đợi đang gợi hứng cho các hoạt động của con người, thanh luyện những mong đợi đó để quy hướng về Nước Trời, bảo vệ khỏi sự nản chí của tâm hồn, nâng đỡ khi bị bỏ rơi, mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu sự thúc đẩy của đức cậy gìn giữ chúng ta khỏi tính ích kỷ và đưa chúng ta đến vinh phúc của đức mến.

1819. Đức cậy Kitô đảm nhận và kiện lòng trông cậy của dân Chúa chọn, nguồn gốc và mẫu gương lòng cậy trông đó là lòng trông cật của tổ phụ Abraham, người đã mãn nguyện với những lời hứa của Thiên Chúa nơi Ixaác, và đã được thanh luyện nhờ sự thử thách là cuộc hy tế (x. St 17,4-8; 22,1-18 ). “Ông ông vẫn trông cậy và vững tin; do đó, ông trở thành tổ phụ nhiều dân tộc  (Rm 4,18).

1820. Từ lúc khởi đầu việc giảng dậy của Đức Giêsu, đức cậy Kitô giáo được khai triển trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc nâng niềm hy vọng của chúng ta  hướng lên trời, như lên miền đất hứa mới, vạch đường tới đó qua những thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Đức Giêsu. Nhưng nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô và cuộc khổ nạn của Ngài, Thiên Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm hy vọng:  không  phải thất vọng” ( Rm 5,5). “chúng ta có niềm hy vọng như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, thả sâu vào nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho ta” (Dt 6,19-20). Đức cậy cũng là  vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến để được cứu độ: “mặc áo  giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho ta niềm vui, ngay trong thử thách: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân...” (Rm 12,12). Đức cậy được diễn tả và nuôi dưỡng trong kinh nguyện, nhất là trong lời kinh của Chúa, là bản toát yếu của tất cả những gì mà đức cậy khiến chúng ta ao ước.

1821. Vì vậy, chúng ta có thể trông cậy được hưởng vinh quang thiên quốc đã được Thiên Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài và thi  hành ý muốn của Ngài (x.Mt 7,21). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi người phải cậy trông nhờ ân sủng của Thiên Chúa sẽ “kiên trì đến cùng” (x. Mt 10,22; Công đồng Trentô; DS 1514 ) và đạt được niềm vui thiên quốc như phần thưởng vĩnh cửu Thiên Chúa  ban, vì các việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng Đức Kitô. Với đức cậy, Hội Thánh cầu nguyện cho “mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4), Hội Thánh mong được  kết hợp với Đức Kitô, Phu Quân của mình, trong vinh quang thiên quốc.

Trông cậy đi, hồn tôi hỡi, hãy cậy trông! Ngươi không biết ngày nào và giờ nào. Hãy chuyên cần tỉnh thức, vì mọi sự qua đi nhanh chóng, mặc dù vì quá nóng lòng nên ngươi hoài nghi điều chắc chắn và cảm thấy khoảng thời gian vắn vỏi lại quá dài. Hãy nhớ rằng, ngươi càng chiến đấu, càng chứng tỏ tình yêu của ngươi đối với Thiên Chúa, và một ngày kia, ngươi sẽ càng vui sướng hơn với Đấng lòng ngươi yêu mến, trong niềm hạnh phúc và say mê bất tận  (T.Têrêsa Hài Đồng Giê-su, tự thuật 15,3).

Đức mến

1822. Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính mình.

1823. Đức Giêsu lấy đức mến làm điều răn mới (Ga  13,34). Khi yêu thương những kẻ thuộc về Người  “đến cùng” (Ga 13, 1), Người biểu lộ tình yêu của Chúa Cha mà Người đã đón nhận. Khi yêu mến nhau, các môn đệ bắt chước tình yêu của Đức Giêsu, mà họ cũng đã đón nhận.  Vì vậy, Đức Giê-su nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). Và Người còn nói “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

1824. Là hoa trái của Thánh Thần và là sự viên mãn của lề luật. Đức mến giữ các điều răn của Thiên Chúa và của Đức Kitô: “Hãy ở trong  tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, thì anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9-10); (x. Mt 22,40; Rm 13,8-10).

1825. Đức Kitô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn là “thù nghịch”  (Rm 5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như Người, chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,44 ), rằng chúng ta phải trở thành người lận cận cho những kẻ ở xa nhất (x. Lc10, 27-37), chúng ta phải yêu thương trẻ em (x. Mc 9,37) và người nghèo như chính Người ( Mt 25,40-45).

Thánh tông đồ Phaolô đã mô tả cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều  bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng  tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).

1826. Thánh tông đồ còn nói: “không có đức mến, tôi cũng chẳng là gì...”. và bất cứ điều gì là đặc ân, công việc phục vụ thậm chí nhân đức…., nếu tôi “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-4). Đức mến cao trọng hơn mọi nhân đức, đức mến đứng đầu các nhân đức  đối thần. “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn  tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13).

1827. Việc thực thi các nhân đức được nên sinh động và được gợi hứng bởi Đức mến. Nhân đức này là “mối dây liên  kết tuyệt hảo” (Cl 3,14); là mô thể  của các nhân đức; liên kết và phối hợp các nhân đức; là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức Kitô giáo. Đức mến củng cố và thanh luyện khả năng yêu thương của con người. Đức mến nâng khả năng này lên mức trọn hảo siêu nhiên, của tình yêu Thiên Chúa.

1828. Việc thực hành đời sống luân lý được sinh động, nhờ đức mến mới đem lại cho người Kitô hữu sự tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa. Người đó đứng trước Thiên Chúa, không còn như một kẻ nô lệ sống trong sợ hãi tôi đòi, hay người làm công ăn lương, nhưng là người con đáp lại tình yêu của “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19).

Nếu chúng ta xa lánh điều xấu vì sợ hình phạt, chúng ta sẽ sống trong tâm trạng của người nô lệ. Nếu chạy theo sự cám dỗ của phần thưởng, chúng ta sẽ giống như người làm thuê. Nhưng nếu vì chính sự đáng kính và vì yêu của Đấng ban hành lề luật, chúng ta mới thực sự sống trong tâm tình của con cái (Thánh  Baxiliô Cả khảo luận thêm về luật sống 3).

1829. Niềm vui, sự bình an và lòng thương xót là hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Đức mến thì nhân hậu, nó khơi dậy sự tương thân tương ái không tìm tư lợi và quảng đại, đức mến là tình bằng hữu và sự hiệp thông.

 Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc của chúng ta. Đó là mục đích chúng ta chạy vì đó chúng ta chạy đến đó, và khi tới đó, chúng ta sẽ an nghỉ (Thánh Augustino, thư Gioan 10,4).

III. HỒNG ÂN VÀ HOA TRÁI CỦA THÁNH THẦN

1830. Đời sống luân lý của các Kitô hữu được nâng đỡ bởi các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Đó là những xu hướng thường xuyên giúp con người dễ dàng tuân theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

1831. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần là: ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn hiểu biết,  ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa. Các ơn này đạt tới sự sung mãn của chúng nơi Đức Kitô, Con Vua Đavít (x. Is 11,1-2); các ơn này hoàn thành các nhân đức của những người lãnh nhận chúng; và đưa các nhân đức đó tới mức trọn hảo. Các ơn này, giúp các tín hữu  dễ dàng vâng phục cách mau mắn những linh hứng của Thiên Chúa.

Xin Thần Khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu” (Tv 143,10).

Phàm ai được Thánh Khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái  Thiên Chúa ... vậy đã là con thì cũng  là thừa kế; mà Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô (Rm 8, 14.17).

1832. Các hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống  Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quãng đại, nhân từ, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Nhân đức là gì?

T. Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện. “Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (Thánh Grêgôriô thành Nyssa). Có những đức tính nhân bản và những nhân đức đối thần.

2. Các nhân đức nhân bản là gì?

T. Các nhân đức nhân bản là xu hướng thường xuyên và kiên trì của lý trí và ý chí nhằm điều chỉnh hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Nhờ đạt được và củng cố thường xuyên bằng các hành vi luân lý tốt, các nhân đức nhân bản được ân sủng Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao.

3. Các nhân đức nhân bản chính là gì?

T. Đó là các nhân đức được gọi là các nhân đức “căn bản.” Tất cả các nhân đức khác đều quy tụ quanh các nhân đức này và các nhân đức này là nền tảng cho đời sống đạo đức. Đó là: khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.

4. Khôn ngoan là gì?

T. Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó. Sự khôn ngoan hướng dẫn các nhân đức khác, bằng cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng.

5. Công bằng là gì?

T. Công bằng là nhân đức luân lý thể hiện qua quyết tâm trả cho người khác những gì thuộc về họ. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”.

6. Can đảm là gì?

T. Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời; can đảm để có thể đưa đến khả năng dám hy sinh chính mạng sống để bảo vệ lẽ phải.

7. Tiết độ là gì?

T. Tiết độ là đức tính luân lý giúp ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui, giúp ý chí làm chủ các bản năng và giúp ta biết sử dụng chừng mực các của cải trần thế.

8. Các nhân đức đối thần là gì?

T. Các nhân đức đối thần là những nhân đức có chính Thiên Chúa là nguồn gốc, động lực và đối tượng trực tiếp. Các nhân đức này được phú bẩm trong con người cùng với ân sủng thánh hóa, giúp con người có khả năng sống trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhân đức đối thần tạo nền móng và động lực cho hành vi luân lý của người Kitô hữu, làm sinh động các nhân đức nhân bản. Các nhân đức này là bảo chứng cho sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người.

9. Các nhân đức đối thần là những nhân đức nào?

T. Các nhân đức đối thần gồm có: đức tin, đức cậy và đức ái.

10. Đức tin là gì?

T. Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta và những gì Hội Thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa là chính Chân lý. Nhờ đức tin, con người phó thác bản thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế người tin tìm biết và tìm thi hành ý muốn của Ngài, vì “đức tin hoạt động nhờ đức ái” (Gl 5,6).

11. Đức cậy là gì?

T. Đức cậy là nhân đức đối thần nhờ đó chúng ta khao khát và mong chờ Thiên Chúa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu là hạnh phúc của chúng ta, khi tin tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ơn Chúa Thánh Thần để xứng đáng hưởng đời sống vĩnh cửu và kiên trì cho đến hết cuộc đời trần thế.

12. Đức ái là gì?

T. Đức ái là nhân đức đối thần giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu lấy đức ái làm điều răn mới, là sự viên mãn của lề luật. Đức ái là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14), là nền tảng của các nhân đức khác mà nó làm cho sinh động, gợi hứng và phối hợp. Không có đức ái, “tôi sẽ chẳng là gì cả và … chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3).

13. Các ơn Chúa Thánh Thần là gì?

T. Các ơn Chúa Thánh Thần là những xu hướng thường xuyên giúp cho con người dễ dàng tuân theo những soi sáng của Thiên Chúa. Có bảy ơn Chúa Thánh Thần: khôn ngoan, thông minh, biết lo liệu, can đảm, hiểu biết, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa.

14. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là gì?

T. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là những điều thiện hảo được hình thành trong chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Chúa Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, an bình, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).

MỤC 8

TỘI LỖI

I. LÒNG THƯƠNG XÓT NGƯỜI TỘI LỖI

1846. Tin Mừng là sự mạc khải trong Đức Giêsu Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Thiên thần loan báo cho Thánh Giuse: “Ông phải đặt \ tên con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21). cũng chính điều đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của ơn cứu chuộc. “Đây là máu Thầy, máu giao ước, sẽ đổ ra cho mọi người được tha tội” (Mt 26,28).

1847. “Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng bạn không cần có bạn; không công chính hóa bạn nếu không có bạn” (T. Âu tinh bài giảng169, 11,13). Việc đón nhận lòng thương xót của Người đòi hỏi chúng ta phải thú nhận tội lỗi của chúng ta. “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận  tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1Ga 1, 8-9).

1848. Cũng như Thánh Phaolô quả quyết: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội”. Nhưng để thực hiện công trình của mình, ân sủng phải vạch trần tội lỗi nhằm hối cải trái tim chúng ta và “làm cho chúng ta nên công chính, để được sống đời đời nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5,20-21). Cũng như thầy thuốc xem xét vết thương trước khi chữa lành nó, Thiên Chúa, nhờ Ngôi lời của Ngài và Thần khí  của Ngài chiếu ánh sáng sống động vào tội lỗi.

Sự hối cải đòi buộc phải xác tín về tội lỗi của; nó bao hàm một  phán đoán từ bên trong của lương  tâm. Và điều này là bằng chứng về sự hành động của Thần chân lý trong hữu thể thẳm sâu của con người, và đồng thời cũng là  khởi điểm của việc ban tặng mới của ân sủng tình yêu: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”. Như vậy, trong việc xác tín về tội lỗi, chúng ta nhận ra một hồng ân kép: hồng ân về chân lý của lương  tâm, và hồng ân về sự chắc chắn của ơn cứu chuộc. Thần  chân lý là Đấng an ủi (DV  31).

II. ĐỊNH NGHĨA TỘI LỖI

1849. Tội là một lỗi phạm đối nghịch với lý trí, chân lý, lương tâm ngay thẳng, tội là sự thiếu tình yêu đích thực đối  với Thiên Chúa và đối với người lân cận, vì sự quyến luyến lệch lạc với một số điều tốt đẹp nào đó. Tội làm tổn thương bản tính con người và vi phạm đến tình liên đới nhân loại. Tội được định nghĩa là: “Một hành vi lời nói, hoặc ước muốn trái nghịch với lề luật vĩnh cửu” (T. Âu-tinh, chống Faust 22,27; T.Tôma aquinô, Tổng Luận  Thần Học 1-2, 71,6 ).

1850. Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51,6). Tội chống lại tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta và đưa trái tim chúng ta xa lìa khỏi tình yêu đó. Cũng như đầu tiên, tội  là một sự bất tuân, một sự nổi loạn chống Thiên Chúa, vì ao ước  muốn “sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác” (St 3, 5). Để nhận biết và quyết định điều tốt và điều xấu. Như thế, tội là ”yêu mình  đến mức khinh chê Thiên Chúa” ( T.Âu-tinh  14,28). Vì sự tự tôn kiêu căng này, nên tội đối nghịch hẳn với sự tuân phục của Đức Giêsu, sự tuân phục đó đã hoàn thành ơn cứu  độ (x. Pl 2,6-9 ).

1851. Chính trong cuộc khổ nạn, trong đó lòng thương xót của Đức Kitô chiến thắng tội lỗi, mà tội lỗi biểu lộ cách rõ nhất tính hung bạo và đa dạng của nó: sự cứng lòng tin, sự căm thù đến mức giết người, sự chối bỏ và nhạo báng của các thủ lãnh và của dân chúng; sự hèn nhát của quan Philatô; sự tàn bạo của binh lính; sự phản bội của ông Giuđa quá cay đắng cho Chúa Giêsu; việc chối bỏ của ông Phêrô, và sự bỏ rơi của các môn đệ. Tuy nhiên, chính vào giờ của bóng tối và thủ lãnh thế gian này (x. Ga 14,30), cuộc hy tế của Đức Kitô đã âm thầm trở nên nguồn mạch, từ đó tuôn tràn cách không bao giờ cạn ơn tha thứ tội lỗi chúng ta.

III. CÁC TỘI LỖI KHÁC NHAU

1852. Tội lỗi rất đa dạng. Thánh Kinh đã đưa ra nhiều danh sách các tội lỗi. Thư tín hữu Galáta đối chiếu các công việc của xác thịt với hoa trái của Thần khí. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôm, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5,19-21;  x. Rm 1,28-32).

1853. Tội lỗi được phân biệt theo đối tượng của chúng, cũng như đối với mọi hành vi nhân linh, hoặc theo các nhân đức mà chúng đối  nghịch do thái quá hay do bất cập, hoặc theo các điều răn mà chúng phạm. Tội lỗi cũng có thể phân loại theo tương quan của chúng với Thiên Chúa, với người lân cận hoặc với chính  bản thân; chúng có thể được phân chia thành các tội về tinh thần và các tội về thể xác hoặc tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và bỏ sót không làm. Cội rễ của tội là ở trong trái tim con người, trong ý chí tự do của họ, theo lời Chúa dạy “tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội  giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế” (Mt 15,19-20). Đức mến cũng cư ngụ trong trái tim con người, đó là nguyên lý của các việc tốt lành và thanh sạch, nên tội cũng làm tổn thương đức mến.

IV. MỨC ĐỘ NGHIÊM TRỌNG CỦA TỘI: TỘI TRỌNG VÀ TỘI NHẸ

1854. Phải đánh giá các tội theo mức độ nghiêm trọng của chúng. Sự phân biệt giữa tội trọng và tội nhẹ, như đã thấy Thánh Kinh, là khá phổ biến trong truyền thống Hội Thánh. Kinh nghiệm  của con người xác nhận điều này.

1855. Tội trọng phá hủy đức  mến trong trái tim con người do vi phạm nghiêm trọng lề luật của Thiên Chúa. Tội trọng làm cho con người quay lưng lại với Thiên Chúa là mục đích tối hậu của mình và vinh phúc của mình, khi dành ưu tiên cho một điều tốt thấp kém hơn Ngài.

Tội nhẹ vẫn còn để đức mến tồn tại, mặc dù có xúc phạm và gây tổn thương cho đức mến  .

1856. Tội trọng đánh vào nguyên lý sống còn trong chúng ta là đức mến, nên cần phải có một khởi đầu mới của lòng xót thương của Thiên Chúa và sự hối cải của trái tim, điều này được thực hiện một cách thông thương trong bí tích Giao Hòa:

Khi ý chí chiều theo một điều tự nó nghịch lại với đức mến là nhân đức nhờ đó con người được quy hướng về mục đích tối hậu, thì do đối tượng của nó, tội này là tội trọng... khi nghịch với lòng mến Chúa, như lộng ngôn, bội thề,v.v... hay nghịch với lòng yêu người, như sát nhân, ngoại tình, v.v... còn khi ý chí của tội nhân chiều về một điều tự  nó là một sự vô trật tự nào đó nhưng không nghịch với tình yêu đối với Thiên Chúa và người lận cận, thí dụ như ăn nói bừa bãi, cười cợt lố lăng v.v... Đó là những tội nhẹ (T. Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học 1-2,88 ).

1857. Để một tội là tội trọng đòi phải có đồng thời ba điều kiện: Tội trọng là tội mà “đối tượng của nó là một chất liệu nghiêm trọng, và ngoài ra tội đó được chấp nhận với đầy đủ ý thức và với sự ưng thuận chủ ý” (x. RP: Tông Huấn Sám hối và Hòa giải 17).

1858. Chất liệu nghiệm trọng được xác định trong Mười Điều Răn, theo câu trả lời của Đức Giêsu với người thanh niên giàu có: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ” (Mc 10,19). Tính nghiêm trọng của tội có thể nhiều hơn hay ít hơn: tội giết người thì nghiêm trọng hơn tội trộm cắp, cũng phải xét đến cả phẩm chất của những người bị xúc phạm: tội hành hung người thân thì tự nó nặng hơn tội hành hung một  người lạ.

1859. Tội trọng đòi phải có nhận thức đầy đủ và ưng thuận hoàn toàn. Điều này giả thiết phải có sự hiểu biết đặt tính tội lỗi của hành vi hiểu biết sự đối nghịch của hành vi đối với lề luật của Thiên Chúa. Tội trọng cũng bao hàm một sự ưng thuận chủ ý đủ để làm một lựa chọn cá. Sự làm bộ không biết và sự chai đá của trái tim. Không giảm thiểu nhưng gia tăng tính cách cố ý của tội.

1860. Sự không hiểu biết ngoài ý muốn có thể được giảm thiểu và thậm chí xóa bỏ. Tính cách qui tọi của một lỗi phạm nặng. Nhưng không ai được coi là không biết những nguyên tắc của luật luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm mỗi người. Những thúc đẩy của cảm giác, các đam  mê, và cả các áp lực bên ngoài, hoặc những rối loạn do bệnh tật, cũng có thể giảm thiểu tính cách cố ý và tự do của lỗi phạm. Tội do ác tâm, do sự chủ ý lựa chọn điều xấu, là nghiêm trọng nhất.

1861. Tội trọng là một khả năng căn bản của sự tự do nhân loại. Cũng như chính tình yêu, tội trọng phá hủy đức mến, làm mất ơn thánh hóa, nghĩa là mất tình trạng ân sủng. Nếu tội trọng không được chuộc lại bằng việc thống hối và ơn tha thứ của Thiên Chúa, nó sẽ đưa tới việc bị loại khỏi nước Thiên Chúa và cái chết muôn đời trong hỏa ngục, vì tự do của chúng ta có khả năng thực hiện những lựa chọn vĩnh viễn, không thể hồi lại được. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể phán đoán một hành vi nào đó là một lỗi nặng, chúng ta vẫn phải phó thác việc phán xét các nhân vị cho sự công bằng và lòng thương xót của Thiên Chúa.

1862. Người ta phạm tội nhẹ khi không tuân giữ những tiêu chuẩn được quy định bởi luật luân lý trong điều nhẹ, hay cả khi không tuân theo luật luân lý trong điều nặng nhưng không có sự nhận thức đầy hay không có sự ưng thuận hoàn toàn.

1863. Tội nhẹ làm suy yếu đức  mến, nó diễn tả sự quyến luyến vô trật tự đối với của cải trần thế, nó ngăn cản sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành các nhân đức và trong việc thực thi điều thiện luân lý. Tội nhẹ đáng chịu  những hình phạt tạm thời. Tội nhẹ có chủ ý và nhất định không thống hối khiến chúng ta dần dần đi đến chỗ phạm tội trọng. Tuy nhiên, tội nhẹ không phá vỡ giao ước với Thiên Chúa, với ân sủng của Thiên Chúa, tội nhẹ có thể được con người sửa chữa lại. “Tội nhẹ không làm mất ơn thánh hóa, sự thân nghĩa với Thiên Chúa, đức mến và vinh phúc vĩnh cửu”.

Bao lâu còn mang thân xác, con người không thể không có ít là các tội nhẹ. Nhưng các tội mà chúng ta gọi là nhẹ, bạn chớ coi thường nếu bạn coi là nhẹ khi bạn cân chúng, thì bạn hãy run sợ khi bạn đếm chúng. Nhiều vật nhỏ hợp thành một khối lớn, nhiều giọt nước làm đầy một con sông, nhiều hạt lúa làm thành một đống lúa. Vậy thì còn hy vọng gì? Trước hết đi xưng tội đã...(T. ÂuTinh, Thư Gioan)

1864. Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm thượng đến Thần Khí sẽ chẳng được tha” (Mt 12, 31); (x.Mc 3,29; Lc 12,10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình  từ chối lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc thống hối thì người đó cũng khước từ ơn tha tội lỗi cho mình và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban tặng (x. DV 46). Sự cứng lòng như vậy có thể đưa tới chỗ không thống hối trong giờ sau hết và bị án phạt muôn đời.  

V. TỘI LỖI SINH SÔI NẢY NỞ

1865. Tội tạo nên xu hướng về tội; và do việc lặp đi lặp cùng một hành vi, sẽ sinh ra thói. Từ đó phát sinh những nghiêng chiều lệch lạc làm mờ tối lương tâm và làm hư hỏng sự đánh giá cụ thể về điều tốt và điễu xấu. Như vậy, tội lỗi có khuynh hướng sinh sôi nảy nở và mạnh lên thêm, nhưng  không thể phá hủy tận căn cảm thức luân lý.

1866. Các thói xấu có thể được xếp loại dựa theo các nhân đức mà chúng đối nghịch hay được quy vào các mối tội đầu như kinh nghiệm Kitô giáo đã phân biệt dựa thánh Gioan Casianô và Grêgôriô Cả (x. Mor. 31,45). Chúng được gọi là  các mối tội đầu vì chúng sinh ra những tội khác, những thói xấu khác. Các mối tội đầu là : kiêu  ngạo, hà tiện, mê dâm dục, ghen ghét, hờn giận, mê ăn uống, làm biếng.

1867. Truyền thống dạy giáo lý cũng nhắc đến các “tội kêu thấu đến trời”, kêu thấu đến trời đó là: máu của Aben (x. St 4,10), tội của dân Sôđôma (x.St 18,20;19,13); tiếng kêu than của dân bị áp bức ở Ai Cập (x. Xh 3,7-10); tiếng rên siết của người ngoại kiều, của các cô nhi quả phụ (x. Xh 22,20-22); sự  bất công về lương bổng (x. Đnl 24,14-15; Gc 5,4).

1868. Tội là một hành vi cá vị. Ngoài ra, chúng ta có trách nhiệm trong các tội do những người khác  phạm, khi chúng ta cộng tác vào các tội đó,  bằng cách :

- Tham gia cách trực tiếp và tự nguyện vào các tội đó;

- Ra lệnh, xúi giục, khen ngợi, hoặc tán thành các tội đó;

- Không tố cáo hoặc không ngăn cản các tội đó, khi có bổn phận phải can ngăn;

- Che chở những người làm điều xấu.

1869. Như vậy, tội làm cho người ta trở thành đồng phạm với nhau, và làm cho dục vọng, bạo lực, bất công  thống trị nơi họ. Tội lỗi tạo nên những hoàn cảnh xã hội và những cơ chế nghịch lại với lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Các “cơ cấu tội ác” vừa diễn tả vừa là hậu quả của các tội cá vị. Chúng xúi giục các nạn nhân của chúng đến lượt mình cũng làm điều xấu. Hiểu nghĩa loại suy, chúng làm thành “tội xã hội” (x. RP 16).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải làm gì?

T. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa chúng ta  phải nhìn nhận và thống hối các tội lỗi của mình. Chính Thiên Chúa, qua Lời và Thánh Thần của Ngài, giúp chúng ta thấy rõ tội lỗi của mình, ban cho chúng ta lương tâm ngay thẳng và niềm hy vọng vào ơn tha thứ.

2. Tội là gì?

T. Tội là “một lời nói, hành vi hoặc ước muốn trái nghịch với Luật vĩnh cửu” (thánh Augustinô). Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, không vâng phục tình yêu của Ngài. Tội gây thương tích cho bản tính của con người và làm thương tổn tình liên đới giữa nhân loại. Qua cuộc Khổ nạn, Đức Kitô cho thấy rõ ràng tính chất trầm trọng của tội và đã chiến thắng nó bằng lòng thương xót của Người.

3. Có nhiều loại tội hay không?

T. Có rất nhiều loại tội. Có thể được phân biệt các tội theo đối tượng của chúng hoặc theo các nhân đức hay các giới răn, mà tội đối nghịch. Cũng có thể phân biệt các tội theo tương quan trực tiếp của chúng với Thiên Chúa, với tha nhân hoặc với chính bản thân. Ngoài ra, người ta cũng có thể phân biệt tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và việc bỏ sót không làm.

4. Người ta phân biệt tội theo tính chất trầm trọng của chúng như thế nào?

T. Người ta phân biệt tội trọng và tội nhẹ.

5. Khi nào người ta phạm tội trọng?

T. Người ta phạm tội trọng khi cùng lúc có chất liệu nặng, ý thức đầy đủ, và tự ý ưng thuận. Tội trọng phá hủy đức mến trong chúng ta, làm chúng ta mất ân sủng thánh hóa và dẫn chúng ta đến cái chết đời đời trong hỏa ngục nếu không sám hối. Tội trọng được tha thứ cách thông thường nhờ Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thống Hối, còn gọi là Bí tích Giao Hòa.

6. Khi nào người ta phạm tội nhẹ?

T. Khác biệt cách triệt để với tội trọng, người ta phạm tội nhẹ khi chất liệu là nhẹ, hoặc cả khi chất liệu là nặng, nhưng không có đầy đủ ý thức hay không hoàn toàn ưng thuận. Tội nhẹ không cắt đứt tương quan với Thiên Chúa, nhưng làm suy yếu đức mến. Tội nhẹ biểu lộ lòng quyến luyến lệch lạc đối với của cải trần thế, ngăn cản sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành nhân đức và trong việc thực thi điều thiện luân lý. Tội nhẹ đáng chịu những hình phạt tạm thời để thanh luyện.

7. Tội sinh sôi nảy nở nơi chúng ta như thế nào?

T. Tội tạo nên xu hướng về tội, và do việc lặp đi lặp lại cùng một hành vi, sẽ sinhnên thói xấu.

8. Các thói xấu là gì?

T. Đối nghịch với các nhân đức, các thói xấu là những thói quen lệch lạc làm mờ tối lương tâm và hướng chiều về điều xấu. Các thói xấu có thể được liên hệ bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, ganh tị, nóng giận, dâm dục, mê ăn uống và lười biếng.

9. Chúng ta có trách nhiệm gì đối với tội người khác không?

T. Chúng ta có trách nhiệm đối với tội của người khác, khi chúng ta cộng tác cách có lỗi vào tội đó.

10. Các cơ cấu tội lỗi là gì?

T. Các cơ cấu tội lỗi là những hoàn cảnh xã hội hay những tổ chức nghịch lại với Luật Thiên Chúa; chúng là những biểu lộ và hậu quả của các tội cá nhân.


CHƯƠNG HAI

CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI

1877. Ơn gọi của nhân loại là biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa và được biến đổi thành một hình ảnh Con một của Chúa Cha. Ơn gọi này mang một hình thức cá vị, bởi vì mỗi người đều được kêu gọi tiến vào vinh phúc thần linh, ơn gọi này cũng liên quan đến toàn thể cộng đồng nhân loại.

MỤC 1

CÁ VỊ VÀ XÃ HỘI

I. TÍNH CÁCH CỘNG ĐỒNG CỦA ƠN GỌI NHÂN LINH.

1878. Mọi người đều được kêu gọi tiến đến một cùng đích chung là chính Thiên Chúa. Có một sự tương tự nào đó giữa sự hiệp thông các Ngôi vị Thiên Chúa với tình huynh đệ mà con người phải thiết lập với nhau trong chân lý và tình yêu. Tình yêu đối với người lân cận không thể tách rời khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa.

1879. Nhân vị cần đời sống xã hội. Đời sống này không phải là điều gì từ bên ngoài được thêm vào cho nhân vị, nhưng là một đòi hỏi của bản tính của nhân vị. Con người, nhờ trao đổi với những người khác, nhờ phục vụ lẫn nhau và nhờ đối thoại với anh em, phát triển mọi tài năng của mình; như vậy,  họ đáp lại ơn gọi của mình (GS 25,1).

1880. Xã hội là một tổng thể những cá vị được liên kết với nhau một cách hữu cơ theo một nguyên lý hợp nhất nào đó, vượt quá mỗi cá vị. Là một cộng đồng vừa hữu hình, vừa tinh thần, xã hội tồn tại trong thời gian: nó tiếp nhận quá khứ và chuẩn bị tương lai. Nhờ xã hội, mỗi người trở thành “người  thừa tự”, lãnh nhận các “nén bạc” làm phong phú căn tính của mình và họ phải làm cho chúng tăng thêm hoa trái” (x. Lc 19.13.15). Theo lẽ phải, mỗi người phải tận tâm với các cộng đồng mà mình là thành viên, và phải tôn trọng các người cầm quyền có nhiệm vụ mưu cầu công ích.

1881. Mỗi cộng đồng được định nghĩa băng mục tiêu của mình; do đó, phải tuân theo những quy tắc đặc thù, nhưng “nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định chế xã hội là và phải là nhân vị” (x. GS 25,1).

1882. Một số xã hội, như gia đình và cộng đồng dân sự, phù hợp một cách trực tiếp hơn với bản tính con người. Chúng là cần thiết cho con người. Để khuyến khích nhiều người tham gia vào đời sống xã hội, phải ủng hộ việc thành lập các hiệp hội và các tổ chức, được tự do lựa chọn về các vấn đề kinh tế, xã hội, về văn hoá, giải trí, về các sinh hoạt thể thao, về nghề nghiệp của các nghệ thuật khác nhau, về các vấn đề chính trị.. .trên bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế” (x. MM :Thông  điệp Mẹ và Thầy. 60). Việc “xã hội hóa” đồng thời diễn tả một xu hướng tự nhiên thúc đẩy con người hợp tác với nhau, để theo đuổi những mục tiêu vượt quá khả năng cá nhân. Công cuộc này làm tăng thêm các phẩm chất của con người, nhất là óc sáng kiến và tinh thần trách nhiệm. Nó cũng giúp bảo đảm các quyền của con người  (x.GS 25; CA 12 ).

1883. Việc xã hội hóa cũng cho thấy những nguy cơ. Sự can thiệp quá đáng của Nhà Nước có thể đe dọa tự do và các sáng kiến cá vị. Giáo huấn của Hội Thánh đề ra nguyên tắc được gọi là nguyên tắc bổ trợ: theo đó “một tổ chức ở cấp cao hơn không được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một tổ chức ở cấp dưới, và tước mất những nhiệm vụ riêng của cấp dưới, mà tốt hơn phải nâng đỡ tổ chức cấp dưới những khi cần, và trợ giúp để hành động của họ được phối hợp với các thành phần liên hệ khác khác, nhằm phục vụ công ích” (x. CA 48; Đức Pi-ôXI).

1884. Thiên Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thực thi mọi quyền hành. Ngài trao lại cho mỗi thụ tạo những nhiệm vụ mà nó có khả năng thực thi, theo những khả năng của bản tính riêng của mình. Cách cai quản này phải được bắt chước trong đời sống xã hội. Cách Thiên Chúa hành động trong việc cai quản trần gian chứng tỏ Ngài rất quan tâm đến sự tự do nhân loại. Điều này phải gợi hứng khôn ngoan cho những người cai quản các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác viên của sự quan phòng của Thiên Chúa.

1885. Nguyên tắc bổ trợ đối nghịch với mọi hình thức duy tập thể, nó vạch ra những giới hạn cho việc can thiệp của Nhà Nước, nó tìm cách hòa hợp các tương quan giữa cá nhân với các xã hội, nó hướng tới việc thiết lập một trật tự quốc tế đích thực.

II. SỰ HỐI CẢI VÀ XÃ HỘI

1886. Xã hội là cần thiết để ơn gọi nhân linh được thực hiện. Để đạt tới mục tiêu này, phải tôn trọng bậc thang đúng đắn của các giá trị: “là những gì thuộc vật chất và tự nhiện được đặt ở dưới những gì thuộc nội tâm và tinh thần” (x. CA 36).

Vì vậy, xã hội của con người trước hết phải được coi như một thực tại tinh thần đặc biệt liên quan đến tâm hồn. Nhờ xã hội. Người ta thông chuyển cho nhau những kiến thức kiến thức trong  ánh sáng của chân lý. Người có thể khẳng định và chu toàn các bổn phận, người ta khích lệ nhau tìm kiếm những điều thiện hảo cho tâm hồn, người ta chia sẻ cho nhau sự thưởng thức mọi thú vui lành mạnh, người ta luôn cố gắng trao cho người khác những gì tốt đẹp nhất của mình. Người ta chăm chú học hỏi để những phong phú tinh thần của người khác trở thành của mình. Những điều tốt đẹp này vừa có ảnh hưởng, vừa hướng dẫn, tất cả những gì liên quan đến học thuyết, các vấn đề về kinh tế, các tổ chức xã hội, các trào lưu và thể chế chính trị, pháp chế, và sau cùng, các tổ chức khác, tất cả những gì thiết lập nên và không ngừng làm phát triển cộng đồng nhân loại từ bên ngoài (x. PT 36).

1887. Việc đảo lộn các phương tiện với mục đích (x. CA 41) dẫn tới việc coi phương tiện như mục đích tối hậu, hay xem những cá vị chỉ  là phương tiện để đạt mục  đích. Điều này sinh ra những cơ cấu bất công “làm cho cách sống Kitô giáo phù hợp với các giới răn của Đấng làm Luật tối thượng, trở nên khó khăn, hoặc hầu như là không thể” (x. Đức Piô XII, bài giảng ngày 1-6-1941).

1888. Vì vậy, để đạt được những cải tổ xã hội thực sự giúp phục vụ con người, phải chạy với đến với các khả năng tinh thần và luân lý của cá vị, và với sự đòi hỏi thường xuyên là sự hối cải nội tâm của cá vị. Việc ưu tiên hối cải trái tim không hề loại trừ. Nhưng trái lại, còn bắt buộc đem lại những lành mạnh hóa thích hợp cho các cơ chế và điều kiện sống. Khi các cơ chế và điều kiện sống đó đưa đến tội lỗi, để chúng trở thành phù hợp với các quy tắc của đức công bằng, không chống đối nhưng củng cố điều thiện hảo (x. LG 36 ).

1889. Không có sự trợ giúp của ân sủng, con người không biết ”khám phá ra con đường, thường là nhỏ hẹp, giữa một bên là sự hèn nhát muốn nhượng bộ điều xấu và một bên là sức mạnh, tự lừa dối mình rằng mình có thể chiến thắng điều xấu, nhưng thật sự lại làm cho điều xấu nhân rộng thêm” (x. CA 25). Con đường đó là con đường của đức mến, nghĩa là của lòng mến Chúa và yêu người. Đức mến là điều răn mang tính xã hội cao nhất. Đức mến tôn trọng người khác và các quyền lợi của họ, Đức mến đòi hỏi sự thực thi công bằng và chỉ có đức mến mới làm cho chúng ta có khả năng thực hiện điều đó đức mến gọi hứng cho một cuộc đời tự hiến: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được cho mạng  sống” (Lc 17, 33).


TÓM LƯỢC 

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Chiều kích xã hội của con người là ở chỗ nào?

T. Con người không những được kêu gọi theo từng cá nhân để hưởng hạnh phúc, nhưng còn có một chiều kích xã hội, tạo thành một yếu tố căn bản của bản chất cũng như ơn gọi của mình. Thật vậy, tất cả mọi người đều được kêu gọi đến một cùng đích chung là chính Thiên Chúa. Có một sự tương tự nào đó giữa sự hiệp thông các ngôi vị Thiên Chúa mà con người phải thiết lập với nhau, trong chân lý và tình yêu. Tình yêu đối với tha nhân không thể tách rời khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa.

2. Đâu là mối tương quan giữa cá nhân với xã hội?

T. Nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định chế xã hội là và phải là con người. Một số xã hội, Chẳng hạn như gia đình và cộng đồng dân cư, rất cần thiết cho con người. Các hiệp hội khác cũng hữu ích cho con người, cả trên bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế, nhưng phải tôn trọng nguyên tắc hỗ trợ.

3. Nguyên tắc hỗ trợ là gì?

T. Nguyên tắc này có nghĩa là một xã hội ở cấp độ cao hơn không được thâu tóm các phận vụ thuộc xã hội ở cấp độ thấp hơn, và cướp mất thẩm quyền của xã hội cấp thấp này. Đúng hơn, xã hội cấp cao phải nâng đỡ xã hội cấp thấp nhất là trong trường hợp cần thiết.

4. Một cuộc chung sống đích thực của con người còn đòi buộc điều gì khác nữa?

T. Một cuộc chung sống đích thực của con người đòi buộc phải tôn trọng sự công bằng, và bậc thang đúng đắng của các giá trị, do đó các chiều kích thể lý và bản năng phải lệ thuộc các chiều kích nội tâm và tinh thần. Đặc biệt, nơi nào tội lỗi làm băng hoại môi trường xã hội, phải kêu gọi sám hối tâm hồn và kêu cầu đến ân sủng của Thiên Chúa, để có thể thay đổi xã hội hầu thực sự phục vụ cho mỗi con người và toàn bộ con người  . Đức ái là giới răn cao cả nhất mang tính xã hội, vì đòi buộc sự công bằng và giúp thực hiện sự công bằng.


MỤC 2

THAM GIA VÀO ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

I. QUYỀN BÍNH

1897. “Xã hội loài người sẽ không thể được tổ chức tốt, cũng không thể thịnh vượng nếu không có những người được trao quyền bính hợp pháp để gìn giữ các cơ chế và làm mọi điều tích cực bảo trợ cho ích lợi của mọi phần tử” (x. PT 46). Được gọi là quyền bính là tư cách nhờ đó những cá vị, hay những cơ chế đưa ra những luật lệ và lệnh truyền cho người ta, và mong đợi người ta tuân phục.

1898. Mọi cộng đoàn nhân loại đều cần có một quyền bính để quản trị nó (x. T.Lêô XIII thông điệp “Immortale Dei”, thông điệp “Diuturnum illud”). Quyền bính này đặt nền tảng trên bản tính nhân loại. Quyền bính cần thiết cho sự thống nhất của cộng đồng dân sự. Nhiệm vụ của nó cốt tại việc bảo đảm tối đa cho công ích của xã hội.

1899. Quyền bính, theo trật tự luân lý đòi hỏi, phát xuất từ Thiên Chúa: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án  phạt” (Rm 13,1-2)  (x. 1Pr 2, 13-17).

1900. Bổn phận vâng phục đòi buộc mọi người phải tôn trọng quyền bính cho xứng hợp; đối với những người đang thực thi nhiệm vụ, phải tôn trọng và tùy công trạng của họ mà tỏ lòng biết ơn và quí mến.

Hội Thánh còn giữ được bản kinh của thánh Giáo Hoàng Clêmentê thành Rôma có một lời kinh cổ xưa nhất cầu cho chính quyền (x. 1Tm 2,1-2):

“Lạy Chúa, xin ban cho họ sức  khỏe, bình an, hòa thuận và bền vững, để họ thực thi đúng đắn quyền  hành Chúa đã trao cho họ. Lạy Chúa là Chủ tể, là Vua trời vĩnh cửu, chính Chúa ban cho con cái loài người vinh quang, danh dự và quyền bính trên mọi vật trần thế. Lạy Chúa, xin hướng dẫn kế hoạch của họ theo điều gì là tốt là đẹp trước mặt Chúa để thi hành một cách đạo đức nhiệm vụ mà Ngài đã trao cho, trong an bình và quảng đại, họ nhận được ơn Chúa phù hộ” (Clémente de Rome, Cor 61,1-2).

1901. Một khi quyền bính thuộc về trật tự do Thiên Chúa ấn định, thì “việc xác định thể chế và việc chỉ định những người điều hành, phải được dành cho ý muốn tự do của các công dân” (x. GS 74,3).

Sự khác nhau của các thể chế chính trị có thể được chấp nhận về mặt luân lý miễn là các thể chế này phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng đã thừa nhận chúng. Các thể chế có bản chất trái ngược với luật tự nhiên, với trật tự công cộng và với các quyền căn bản của con người, thì không thể đem lại công ích cho những quốc gia bị áp đặt phải theo thể chế đó.

1902. Quyền không rút ra tính hợp pháp luân lý tự chính mình. Họ không được xử sự  cách chuyên chế, nhưng phải hành động vì công ích với tư cách là “một  sức mạnh luân lý đặt nền tảng trên sự tự do và ý thức trách nhiệm” (x. GS 74,2):

“Luật pháp nhân loại chỉ có tính cách khi phù hợp với lẽ phải; và theo đó, rõ ràng là nó xuất phát từ “lề luật vĩnh cữu”; khi xa lìa lẽ phải, nó được gọi là luật bất công, nó không còn có tính cách là luật, nhưng đúng hơn nó mang tính cách bạo lực (T.Tôma aquinô, Tổng Luận Thần Học 1-2,93,3.2).

1903. Quyền bính chỉ được thực thi một cách hợp pháp khi mưu cầu công ích của tập thể liên hệ và dùng những phương tiện được phép về mặt luân lý để đạt được công ích đó. Nếu các nhà lãnh đạo đưa ra những luật bất công hay sử dụng những biện  pháp trái luân lý, thì những mệnh lệnh đó không thể bắt buộc lương tâm. “Trong trường hợp  này, quyền bính không còn hiệu lực và trở thành một lạm dụng đáng xấu hổ” (x. PT 51).

1904 . “Vì vậy, tốt hơn là mọi quyền hành phải được quân bình với những quyền hành khác và những thẩm quyền khác, để gìn giữ những giới hạn của nó. Đó là nguyên tắc ‘Nhà Nước pháp chế’; trong đó luật pháp là tối thượng chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người” (x. CA  44).

II. CÔNG ÍCH

1905. Theo tính xã hội của con người, lợi ích cá nhân tất nhiên được liên kết với công ích. Công  ích chỉ có thể được định nghĩa trong tương quan với nhân  vị :

“Các bạn đừng sống cô lập hay khép kín nơi mình, như thể các bạn đã được công chính hóa rồi, nhưng hãy hợp lại nên một để cùng tìm kiếm điều hữu ích cho mọi người” (x. Thư Banabê  4,10).

1906. Phải hiểu “công ích” là “toàn thể những điều kiện của đời sống xã hội giúp cả những tập thể, cả những phần tử riêng rẽ, đạt tới sự hoàn hảo riêng của mình một cách đầy đủ và dễ dàng hơn (x. GS 26,1; 74,1)”. Công ích liên quan đến đời sống của mọi người, nó đòi hỏi mỗi người phải khôn ngoan, nhất là những ai đang cầm quyền. Công ích gồm ba yếu tố căn  bản:

1907. Trước hết, công ích giả thiết phải tôn trọng cá vị theo đúng nghĩa. Vì công ích, các nhà cầm quyền phải tôn trọng các quyền căn bản và bất khả nhượng của nhân vị. Xã hội phải để cho mỗi thành viên thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, công ích nằm trong những điều kiện để thực thi các sự tự  do tự nhiên, các sự tự do đó cần thiết để ơn gọi nhân linh được phát triển “như quyền hành động theo qui tắc ngay thẳng  của lương tâm mình, quyền bảo vệ  đời tư và quyền tự do chính đáng, cả trong vấn đề tôn giáo” (x. GS 26,2).

1908. Thứ hai, công ích đòi hỏi sự thịnh vượng xã hội và sự phát triển của chính tập thể. Sự phát triển tóm kết tất cả mọi trách nhiệm xã hội. Vì công  ích, quyền bính có nhiệm vụ phân xử giữa các quyền lợi riêng tư khác nhau; nhưng quyền bính phải giúp mỗi người có được những gì cần thiết để có được một cuộc sống thực sư nhân bản: lương thực, áo quần, sức khỏe, việc làm, giáo dục và văn hóa, được thông tin đầy  đủ, quyền xây dựng một gia đình  v.v...

1909. Cuối cùng, công ích bao hàm hòa bình, nghĩa là sự bền vững, sự an ninh của một trật tự chính đáng. Vì vậy, công ích giả thiết rằng quyền bính bằng những phương tiện trung thực, phải bảo đảm an ninh cho xã hội và cho các thành viên của xã hội. Công ích thiết lập quyền tự vệ chính đáng của cá vị và tập thể.

1910. Nếu mỗi cộng đồng nhân loại đều có một công ích cho phép mình nhận biết mình theo đúng nghĩa, thì người ta thấy sự hoàn thành đầy đủ nhất của một công ích như vậy trong cộng đồng chính trị. Nhà Nước có nhiệm vụ bảo vệ và thăng tiến  công ích của xã hội dân sự,  của các công dân và các tổ chức trung gian.

1911. Những lệ thuộc giữa nhưng con người với nhau trở nên chặt chẽ hơn. Những lệ thuộc đó dần dần được mở rộng khắp thế giới. Sự hơp nhất của gia đình nhân loại, khi quy tụ những thành viên có cùng một phẩm giá theo bản tính, đòi hỏi một công ích phổ quát. Công ích này đòi sự tổ chức của cộng đồng các quốc gia, “có khả năng đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con người trong các lãnh vực của đời sống xã hội như thực phẩm, sức khỏe, giáo dục...cũng như trong một số hoàn cảnh đặc biệt có thể xảy ra nơi này nơi khác, như làm nhẹ bớt những khốn khổ của những người tị nạn rải rác khắp thế giới hoặc giúp đỡ cho những người di cư và gia đình họ...” (x. GS 84,2).

1912. Công ích luôn hướng tới việc thăng tiến con người: “trật tự của các sự vật phải lệ thuộc vào trật tự của các cá vị chứ không ngược lại” (x. GS 26,3). Trật tự này đặt nền tảng trong chân lý, được thiết lập trong công bằng, được có sự sống bởi  tình yêu.


III. TRÁCH NHIỆM VÀ SỰ THAM GIA

1913. Tham gia là sự dấn thân tự nguyện và quảng đại của cá vị vào những giao dịch xã hội. Cần thiết là, tất cả mọi người phải tham gia vào việc mưu cầu công ích, mỗi người theo địa vị và vai trò mình đảm nhận. Bổn phận này gắn với phẩm giá của nhân vị.

1914. Trước hết sự tham gia được thể hiện bằng việc đảm nhận nhiệm vụ trong các phần việc thuộc trách nhiệm cá vị: khi quan tâm chăm sóc gia đình mình, khi làm việc của mình một cách có lương tâm, là con người tham gia vào công ích của những người khác và của xã hội.

1915. Các công dân phải tích cực tham gia càng nhiều càng tốt vào đời sống cộng đồng. Cách tham gia có thể khác nhau từ nước này đến nước khác, hoặc từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác “Phải khen ngọi đường lối hành động của những  quốc gia đang để cho các công dân được tham gia tối đa vào việc nước trong sự tự do đích thực” (x. GS 31,3).

1916. Cũng như mọi bổn phận đạo đức, sự tham gia của mọi người trong việc hoạt động cho công ích, bao hàm sự hối cải không ngừng được canh tân của các thành viên của xã hội. Phải kết án sự gian lận và những mánh lới khác mà một số người dùng để trốn tránh các đòi buộc của luật pháp và các quy định của bổn phận xã hội, vì chúng không thể đi đôi với những đòi hỏi của đức công bằng. Phải quan tâm phát triển những cơ chế giúp cải thiện các điều kiện của đời sống con người (x. GS 30,1).

1917. Những người cầm quyền đang thực thi nhiệm vụ của quyền bính có bổn phận khẳng định những giá trị đem lại sự tín nhiệm nơi các thành viên của tập thể, và khuyến khích họ tham gia phục vụ đồng loại của mình. Sự tham gia bắt đầu từ việc giáo dục và văn hóa. Chúng ta có lý do chính đáng để nghĩ rằng: “tương lai nhân loại nằm trong tay những người có khả năng trao cho các thế hệ đến sau những lý do để sống và để  hy vọng” (x. GS 31,3).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Quyền bính trong xã hội được đặt trên nền tảng nào?

T. Mọi cộng đồng nhân loại đều cần có một quyền bính hợp pháp để đảm bảo trật tự và góp phần vào việc phục vụ công ích. Quyền bính này đặt nền tảng trên bản tính con người, vì phù hợp với trật tự được Thiên Chúa thiết lập.

2. Khi nào quyền bính được thực thi hợp pháp?

T. Quyền bính được thực thi cách hợp pháp khi hoạt động vì công ích và sử dụng các phương tiện được phép về mặt luân lý để đạt được công ích ấy. Vì thế, các thể chế về chính trị phải được thiết lập do quyết định tự do của các công dân và họ phải tuân giữ nguyên tắc “Nhà nước pháp chế”, trong đó luật pháp là tối thượng chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người. Các luật lệ bất công và các biện pháp trái nghịch với trật tự luân lý không bó buộc lương tâm con người.


3. Công ích là gì?

T. Công ích được hiểu là toàn thể những điều kiện của đời sống xã hội cho phép các nhóm và cá nhân đạt tới sự hoàn hảo của mình.

4. Công ích bao gồm những điều gì?

T. Công ích bao gồm: sự tôn trọng và phát huy các quyền lợi căn bản của con người, việc phát triển các lợi ích tinh thần và vật chất của con người cũng như xã hội, hòa bình và an ninh cho tất cả mọi người.

5. Ở đâu công ích được thực hiện một cách đầy đủ nhất?

T. Công ích được thực hiện một cách đầy đủ nhất trong các cộng đồng chính trị nào bảo vệ phát huy thiện ích cho các công dân và các tổ chức trung gian, mà không quên thiện ích phổ quát của gia đình nhân loại.

6. Con người tham gia vào việc thực hiện công ích như thế nào?

T. Tùy theo địa vị và vai trò đảm nhận, mỗi người phải góp phần vào việc cổ vũ công ích: bằng việc tôn trọng các luật công bằng, và dấn thân vào những lĩnh vực mà cá nhân họ có trách nhiệm, như chăm sóc gia đình và dấn thân trong công việc của mình chừng nào có thể. Các công dân cũng phải tích cực tham gia vào đời sống cộng đồng.


MỤC 3

CÔNG BẰNG XÃ HỘI

1928. Xã hội bảo đảm công bằng xã hội khi tạo điều kiện để các đoàn thể và mỗi cá nhân có được những gì họ có quyền hưởng theo bản tính và ơn gọi của họ. Công bằng xã hội liên kết với công ích và với việc thực thi quyền bính.

I. TÔN TRỌNG NHÂN VỊ

1929. Không thể có công bằng xã hội, nếu không có sự tôn trọng phẩm giá siêu việt của con người. Nhân vị là mục đích tối hậu của xã hội, vì xã hội được quy hướng về nhân vị :

“Việc bảo vệ và thăng tiến phẩm giá nhân vị được Đấng Tạo Hóa ủy thác cho chúng ta và bất cứ ở thời đại nào trong lịch sử, các người nam và người nữ đều mắc nợ về điều đó, vì nhiệm vụ đã lãnh nhận” (x. SRS 47).

1930. Sự tôn trọng nhân vị bao hàm các quyền phát xuất từ  phẩm giá của nhân vị xét như một thụ tạo. Các quyền đó có trước xã hội và được ấn định cho xã hội. Các quyền bính đó đặt nền cho tính hợp pháp về mặt luân lý của mọi quyền bính. Khi khinh miệt hay phủ nhận các quyền đó trong  luật thiết định của mình là xã hội phá hủy tính hợp pháp về mặt luân lý của chính mình (x. PT 65). Không có sự tôn trọng như vậy, quyền bính chỉ có thể dựa trên sức mạnh hay bạo lực, để bắt buộc những người dưới quyền mình phải tùng phục. Hội thánh có bổn phận nhắc nhở những người thiện chí về những quyền này và phân biệt chúng với những yêu sách thái quá hoặc sai lầm.

1931. Để tôn trọng nhân vị phải tôn trọng nguyên tắc này: “Mỗi người phải coi người lân cận, không trừ một ai, như “cái tôi thứ hai” của mình, nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và những phương tiện cần thiết giúp họ sống xứng đáng với nhân phẩm” (x. GS 27,1). Không một luật pháp nào tự mình có thể xóa bỏ được các nỗi sợ hãi,  những thành kiến, những thái độ kiêu căng và ích kỷ, vẫn ngăn trở việc xây dựng những xã hội thực sự huynh đệ. Những thái độ đó chỉ chấm dứt nhờ đức mến là nhân đức nhận ra mỗi người đều là người “lân cận”, là anh em.

1932. Bổn phận “trở nên người lân cận” của người khác và tích cực phục vụ họ lại càng khẩn thiết hơn, khi họ nghèo khổ hơn trong về bất cứ phương diện nào. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x.  Mt 25,40).

1933. Bổn phận này được mở rộng tới những người suy nghĩ hay hành dộng khác với chúng ta. Giáo huấn của Đức Kitô đòi buộc phải tha thứ mọi xúc phạm. Giáo huấn đó còn mở rộng giới răn yêu thương, là nét độc đáo của lề luật mới đến tất cả các kẻ thù. (x.Mt 5,43-44). Sự giải phóng theo tinh thần Tin Mừng không đi đôi với với sự oán ghét kẻ thù, xét như một cá vị, nhưng phải oán ghét điều xấu mà người, xét như kẻ thù đã làm.

II. SỰ BÌNH ĐẲNG VÀ NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CON NGƯỜI

1934. Tất ca mọi người được  tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa duy nhất, được phú ban một linh hồn có lý trí như nhau, nên có cùng một bản tính và cùng một nguồn gốc, được cứu chuộc nhờ hy tế của Đức Kitô, mọi người được mời gọi tham dự cùng một vinh phúc thần linh, vì vậy mọi người đều được hưởng cùng một  phẩm giá.

1935. Sự bình đẳng giữa con người với nhau chủ yếu dựa trên nhân phẩm cá vị và các quyền phát xuất từ phẩm giá đó:

“Trong những quyền căn bản của cá vị, phải vượt lên trên và loại bỏ mọi cách thức kỳ thị hoặc xã hội hoặc văn hóa, phái tính, chủng tộc, màu da, địa vị xã hội, ngôn ngữ hoặc tôn giáo, vì như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa” (x.  GS 29,2).

1936. Khi chào đời, con người không có tất cả những gì  cần thiết để phát triển đời sống thể xác và tinh thần của mình. Con người cần đến những người khác. Những khác biệt đã xuất hiện về tuổi tác, về những khả năng thể lý, về những khả năng trí tuệ và luân lý, về những trao đổi mà mỗi người đã có thể có được, về sự phân phối của cải. Những “nén bạc” không được phân phối một cách bằng nhau. (x.Mt 25,14-3; Lc 19,11-27)

1937. Những khác biệt này nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Đấng muốn người này đón nhận những gì mình cần từ người khác. Và muốn những ai lãnh được  những “nén bạc” đặc biệt, phải biết thông truyền chúng cho những người cần đến chúng. Các khác biệt khuyến khích và nhiều khi đòi buộc các cá vị sống quảng đại nhân hậu và chia sẻ, chúng cũng thúc đẩy các nền văn hóa làm phong phú lẫn nhau:

“Taị sao cha lại ban những nhân đức khác nhau như vậy, mà không ban mọi nhân đức cho một người, nhưng ban nhân đức này cho người này, nhân đức kia cho kẻ khác? … Cha đặc biệt sẽ ban cho người này đức mến; người khác đức công bằng; kẻ này đức khiêm nhường, kẻ kia đức tin sống động…. Và như vậy Cha đã ban nhiều hồng ân và ân sủng, cả thiêng liêng cả trần thế … Cha đã ban mọi sự cách rất không đồng đều, Cha không ban mọi sự cho một người, để các con nhất thiết có cơ hội thực thi bác ái, người này đối với người kia; … Cha đã muốn có người này cần đến người khác và là thừa tác viên của Cha để phân phát các ân sủng và hồng ân mà họ đã lãnh nhận từ nơi Cha” (Thánh Catarina Siêna, Il dialogo della Divina provvidenza, 7: ed. G. Cavallini (Roma 1995) 23-24).

1938. Nhưng cũng có những sự bất bình đẳng bất công mà hàng triệu người nam và nữ phải gánh chịu. Những bất bình đẳng đó rõ ràng nghịch lại với Tin Mừng:

Phẩm giá bình đẳng của các cá vị đòi hỏi rằng điều kiện của đời sống phải trở nên nhân bản hơn và bình đẳng. Thật vậy, những bất bình đẳng thái quá về kinh tế và xã hội giữa những thành phần hay giữa những dân tộc của một gia đình nhân loại duy nhất là một cớ vấp phạm, và đi ngược với sự công bằng xã hội, công lý, phẩm giá của nhân vị và nền hòa bình xã hội và quốc tế” (CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 29: AAS 58 (1966) 1049).

III. TÌNH LIÊN ĐỚI NHÂN LOẠI

1939. Nguyên tắc liên đới, còn được gọi là nguyên tắc của “tình thân nghĩa” hay ”bác ái xã  hội”, là một đòi hỏi trực tiếp của tình huynh đệ nhân bản và Kitô giáo (x. SRS 38-40;CA 10 ).

“Điều sai lầm đầu tiên, mà ngày nay đang phổ biến một cách rộng rãi và nguy hiểm, là người ta quên mất quy luật của tình liên đới nhân loại và của đức mến, quy luật này được thiết đặt và bắt buộc vừa do nguồn gốc chung của chúng ta và do sự bình đẳng của bản tính có lý trí của mọi người, dù thuộc bất cứ dân tộc nào, vừa do hy tế cứu chuộc Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha vĩnh cửu, nơi bàn thờ thập giá, vì nhân loại tội lỗi (ĐGH  Pi-ô XII, thông điệp Summi Pontificatus).

1940. Tình liên đới trước hết được biểu lộ qua việc phân phối của cải và việc trả lương lao động. Tình liên đới cũng bao hàm sự nỗ lực cho một trật tự xã hội công bằng hơn, trong đó những căng thẳng có thể được giải quyết tốt hơn và chúng có thể gặp được giải pháp liên kết dễ dàng hơn.

1941. Những vấn đề xã hội và kinh tế không thể được giải quyết nếu không có sự trợ giúp của mọi hình thức liên đới: liên đới giữa những người nghèo với nhau, giữa người giàu với người nghèo, giữa những người lao động với nhau, giữa chủ và thợ trong xí nghiệp, liên đới giữa các quốc gia và giữa các dân tộc. Tình liên đới quốc tế là một đòi hỏi của trật tự luân lý. Hòa bình thế giới cũng một phần tùy thuộc tình liên đới này.

1942. Nhân đức liên đới vượt quá phạm vi các của cải vật chất. Khi phân phát các của cải tinh thần của đức tin, Hội Thánh đã giúp phát triển những của cải trần thế nhiều hơn nữa, Hội Thánh đã thường mở ra những con đường mới cho cuộc phát triển này. Như vậy, qua dòng thời gian, Lời Chúa đã được thực hiện: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6, 33) :

“Hai ngàn năm qua, trong linh hồn Hội Thánh, vẫn có một tâm tình sống động  đã và đang thúc đẩy nhiều người sống đời bác ái đến mức anh hùng các đan sĩ cày sâu cuốc  bẫm, những nhà giải phóng nô lệ, những người chữa trị bệnh nhân, các sứ giả mang đức tin, văn minh và khoa học đến với mọi thế hệ và dân tộc, nhằm tạo ra những điều kiện xã hội có khả năng  giúp mọi người có được một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người và phẩm giá Kitô hữu ( x. Pi-ô  XII, diễn từ ngày 1-6-1991).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Làm thế nào để xã hội bảo đảm được công bằng xã hội?

T. Xã hội bảo đảm được công bằng xã hội khi tôn trọng phẩm giá và những quyền lợi con người; đó chính là mục đích thực sự của xã hội. Ngoài ra, xã hội tìm kiếm công bằng xã hội, là điều liên hệ đến công ích và việc thực thi quyền hành, khi xã hội tạo điều kiện để các hiệp hội và các cá nhân đạt được những gì thuộc về quyền lợi của họ.

2. Đâu là nền tảng sự bình đẳng giữa người và người?

T. Mọi người đều được hưởng sự bình đẳng về phẩm giá và những quyền lợi căn bản, vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa duy nhất và được phú cho một linh hồn có lý trí. Họ có chung một bản tính và một nguồn gốc, và trong Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất được mời gọi chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.

3. Chúng ta đánh giá những bất bình đẳng giữa con người như thế nào?

T. Có những sự bất bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội ảnh hưởng trên hàng triệu con người. Những bất bình đẳng này đi ngược lại cách công khai với Phúc Âm và đối nghịch với công bằng, với phẩm giá con người và với hòa bình. Nhưng cũng có những khác biệt giữa con người, do những nhân tố khác nhau thuộc kế hoạch của Thiên Chúa. Thật vậy, Thiên Chúa muốn rằng người này nhận ở người kia những gì họ cần thiết và những ai có những “nén bạc” đặc biệt, nên chia sẻ với những người khác. Những sự khác biệt này khuyến khích và nhiều khi bắt buộc con người phải sống hào hiệp, nhân từ và chia sẻ. Chúng cũng thúc đẩy các nề văn hóa làm phong phú lẫn nhau.

4. Tình liên đới nhân loại được biểu lộ như thế nào?

T. Xuất phát từ tình huynh đệ nhân bản và Kitô giáo, tình liên đới trước hết được biểu lộ trong việc phân phối hợp lý các của cải, trong việc trả lương lao động một cách công bằng và trong việc dấn thân cho một trật tự xã hội công bằng hơn. Nhân đức liên đới được thực hiện qua việc chia sẻ các của cải tinh thần của đức tin, điều này còn quan trọng hơn là các của cải vật chất.

 

 


CHƯƠNG BA

ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG

1949. Con người, được kêu gọi tới hưởng vinh phúc, nhưng bị tổn thương bởi tội lỗi, nên cần ơn cứu độ của Thiên Chúa. Sự trợ giúp thần linh đến với con người trong Đức Kitô, nhờ Lề luật để hướng dẫn họ, và trong ân sủng để nâng đỡ  họ :

 Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Ngài” (Pl 2,12-13).

MỤC 1

LUẬT LUÂN LÝ

1950. Luật luân lý là công trình của đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Theo nghĩa Thánh Kinh, luật này có thể được định nghĩa như lời dạy dỗ của một người cha, như một khoa sư phạm của Thiên Chúa. Luật luân lý quy định cho con người những con đường, những quy tắc hành động dẫn đưa họ tới vinh phúc Thiên Chúa đã hứa, và ngăn cấm những con đường dẫn đến sự dữ khiến con người xa lìa Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Luật luân lý đồng thời vừa kiên định trong các mệnh lệnh của nó, vừa đáng mến trong các lời hứa của nó.

1951. Luật là một quy tắc hành động được quyền bính có thẩm quyền công bố vì công ích. Luật luân lý giả thiết một trật tự hữu lý được thiết lập giữa các thụ tạo, vì lời ích của chúng và nhằm vào mục đích của chúng, do quyền năng, sự khôn ngoan và sự tốt lành của Đấng Tạo Hóa. Mọi luật đều gặp được chân lý đầu tiên và tối hậu của mình trong Lề Luật vĩnh cửu. Luật được công bố và thiết lập bởi lý trí, xét như việc tham gia vào sự quan phòng của Thiên Chúa hằng sống, là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc mọi người. “Luật được mệnh danh là chỉ thị của lý trí” (Lê-ô  XIII ).

“Trong tất cả các sinh linh, chỉ con người được vinh dự, là chỉ con người xứng đáng đón nhận Lề Luật từ Thiên Chúa, và như một sinh vật có lý trí, có khả năng để hiểu biết và nhận định, con người phải dùng chính sự tự do có lý trí mà suy phục Đấng đã bắt mọi sự suy phục mình” (Tertullien, Marc. 2,4).

1952. Có những cách diễn tả khác nhau của Luật luân lý, và thật sự, tất cả đều liên kết với nhau: Lề luật vĩnh cửu, là nguồn mạch của mọi luật trong Thiên Chúa; luật tự nhiên; Luật được mạc khải gồm Luật cũ và Luật mới hoặc Luật Tin Mừng; sau cùng là các dân luật và giáo luật.

1953. Luật luân lý gặp được sự viên mãn và sự thống nhất của mình trong Đức Kitô. Chúa Giêsu Kitô là con đường của sự trọn hảo. Chính Người là mục đích của Lề Luật, bởi vì chỉ có Người dạy dỗ và ban sự công chính của Thiên Chúa. “Cứu cánh của lề luật là Đức Kitô, khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính” (Rm 10,4).

I. LUẬT LUÂN LÝ TỰ NHIÊN

1954. Con người được tham dự vào sự khôn ngoan và sự tốt lành của Đấng Tạo Hóa, Đấng đã cho họ quyền làm chủ mọi hành vi của họ và khả năng tự hướng đến chân lý và điều thiện. Luật tự nhiên diễn tả cảm thức luân lý nguyên thủy,  nhờ đó con người dùng lý trí mà phân định điều gì là tốt và điều gì là xấu, điều gì là chân lý và điều gì là dối trá:

“Luật tự nhiên đã được viết và được ghi khắc trong tâm hồn mỗi người, bởi vì chính lý trí con người ra lệnh hành động một cách ngay thẳng và tránh phạm tội. Nhưng quy định này của lý trí con người không thể có giá trị là luật, nếu nó không phải tiếng nói và thông dịch viên của một lý trí cao hơn, mà tâm trí và tự do của chúng  ta đều phải suy phục” (Lê-ô XIII ).

1955. Luật thần linh và tự nhiên (x. GS 89,I) vạch cho con người thấy con đường phải theo để thực thi điều tốt và đạt tới mục đích của mình. Luật tự nhiên nêu ra những mệnh lệnh đầu tiên và căn bản điều khiển đời sống luân lý. Luật tự nhiên có nền tảng là tâm tình khao khát và quy phục Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch và thẩm phán của mọi điều thiện hảo, và cũng có nền tảng là cảm thức về tha nhân như người bình đẳng với mình. Luật này được trình bày thành những điều răn chính trong Mười Điều Răn. Luật này được gọi là tự nhiên, không phải vì liên quan đến những hữu thể không có lý trí, nhưng bởi vì lý trí được công bố luật đó thuộc riêng về bản tính nhân linh:

“Các quy luật này được ghi chép ở đâu nếu không phải  là trong quyển sách của thứ ánh sáng được gọi là chân lý? Đó là nơi mọi lề luật chính đáng được viết ra, từ đó được chuyển vào trái tim con người để họ thực sự thi sự công chính. Luật này không phải di cư vào trái tim con người, nhưng như được in vào đó, cũng như hình ảnh từ một chiếc nhẫn ấn trên sáp mà không rời bỏ chiếc nhẫn” (T Âu-tinh, Chúa Ba Ngôi 14,15,21 ).

“Luật tự nhiên không gì khác là ánh sáng trí tuệ do Thiên Chúa đặt trong ta; nhờ đó, chúng ta nhận biết điều phải làm và điều phải tránh. Thiên Chúa đã ban ánh sáng này và luật này cho con người trong công trình tạo dựng” (T.Tô-ma A-qui-nô 1).

1956. Hiện diện trong trái tim mỗi người và được thiết lập bởi lý trí, luật tự nhiên có giá trị phổ quát trong các mệnh lệnh của nó, và quyền bính của nó trải rộng đến tất cả mọi người. Luật này diễn tả phẩm giá của nhân vị và đặt nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của nhân vị:

“Thật sự có một luật chân thật là lẽ phải, phù hợp với bản tính, được tuôn đổ trong mọi người, bền vững, vĩnh cửu, nó kêu gọi bổn phận phải thi hành, nó ngăn cản sự gian lận phải xa lánh…Thay luật này bằng một luật nghịch lại là phạm thánh, không được phép rút bỏ điều gì khỏi luật này, và cũng không thể hoàn toàn hủy bỏ luật này” (Cicéron 3,22,33).

1957. Việc áp dụng luật tự nhiên rất đa dạng; có thể suy nghĩ để thích ứng với những điều kiện đa dạng của đời sống, tùy theo nơi chốn, thời  đại và hoàn cảnh. Tuy nhiên, trong sự khác biệt của các nền văn hóa, luật tự nhiên vẫn là một quy tắc nối kết con người với nhau, ấn định những nguyên tắc chung, trừ những khác biệt không thể tránh khỏi.

1958. Luật tự nhiên là bất biến (x. GS 10) và trường tồn qua mọi thay đổi của lịch sử. Nó tồn tại qua những trào lưu tư tưởng và tập tục, và nâng đỡ sự phát triển của chúng. Những quy tắc diễn tả luật tự nhiên, về bản chất vẫn luôn có hiệu lực. Mặc dầu những nguyên lý của luật tự nhiên có bị chối bỏ, thì chính nó cũng không thể bị hủy diệt và không thể bị gạt ra khỏi trái tim con người. Luật tự nhiên luôn trỗi dậy trong đời sống của các cá nhân và các xã hội:

“Lạy Chúa, chắc chắn tội trộm cắp bị trừng phạt bởi Lề luật của Chúa, và bởi luật đã được ghi trong trái tim con người, luật mà chính sự gian ác cũng không xóa bỏ được” (T.Âu-tinh, tự thuật  2,4,9 ).

1959. Luật tự nhiên là công trình tốt nhất của Đấng Tạo Hóa, mang lại những nền tảng vững chắc, trên đó con người có thể xây dựng tòa nhà là các quy luật luân lý hướng dẫn những chọn lựa của họ. Luật tự nhiên cũng đặt nền móng luân lý hết sức cần thiết để xây dựng cộng đoàn nhân loại. Và sau cùng, nó cung cấp nền móng cần thiết cho luật dân sự, luật này được quy chiếu về luật tự nhiên, hoặc bằng cách suy nghĩ để rút ra những kết luận từ các nguyên tắc của luật tự nhiên, hoặc bằng những bổ sung mang tính chất thiết định và pháp lý.

1960. Những mệnh lệnh của luật tự nhiên không được mọi người nhận thức một cách rõ ràng và trực tiếp. Trong điều kiện hiện tại, ân sủng và Mạc khải là cần thiết cho con người tội lỗi, để các chân lý tôn giáo và luân lý “có thể được nhận biết bởi mọi người một cách không chút trở ngại, một cách chắc chắn vững vàng, và không pha trộn một sai lầm nào” (Pi-ô XII, Humani  generis :DS 3876). Luật tự nhiên mang lại cho lề luật được mạc khải cho ân sủng một nền tảng, đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn và phù hợp với công cuộc của Thần Khí.

II. LUẬT CŨ

1961. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ của chúng ta, đã chọn Israel như dân riêng của Ngài, và đã mặc khải cho họ Lề Luật của Ngài và như vậy chuẩn bị  cho cuộc Ngự đến của Đức Kitô. Luật Môisen diễn tả nhiều chân lý mà lý trí có thể đạt tới một cách tự nhiên. Người ta gặp các chân lý này được công bố và được chứng thực trong Giao ước cứu độ.

1962. Luật cũ là cấp độ đầu tiên của Lề Luật được mạc khải. Các quy định luân lý của luật cũ được tóm lại trong Mười Điều Răn. Các mệnh lệnh của Mười Điều Răn đặt  nền tảng cho ơn gọi của con người, vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Các điều răn đó ngăn cấm những gì nghịch lại tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, và quy định những đòi hỏi căn bản của tình yêu đó. Mười Điều Răn là ánh sáng được ban tặng cho lương tâm của mỗi người, giúp họ nhận ra lời kêu gọi của Thiên Chúa, và những con đường Ngài biểu lộ cho họ, và bảo vệ họ khỏi điều xấu :

“Thiên Chúa đã viết trên bảng Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong trái tim mình” (FT. Âu-tinh, 57 ).

1963. Theo truyền thống Kitô giáo, Lề Luật thì thánh thiện (x.Rm 7,12), thiêng  liêng (x. Rm 7,14) và tốt lành (x. Rm 7,16) nhưng vẫn chưa trọn hảo. Như một nhà sư phạm (x. Gl 3,24), luật đó cho thấy điều phải làm, nhưng tự nó không ban sức mạnh, ân sủng của Thần Khí để người ta chu toàn nó. Vì không xóa được tội lỗi, nên luật cũ vẫn còn là luật của tình trạng nô lệ. Theo thánh Phao-lô, luật cũ  có nhiệm vụ tố cáo và vạch trần tội lỗi, vì tội lỗi tạo ra thứ ”luật của dục vọng” (x. Rm 7) trong trái tim con người. Tuy nhiên, Lề Luật vẫn là chặng đầu tiên trên  con đường dẫn đến Nước Trời. Nó chuẩn bị và giúp dân Chúa chọn và mỗi Kitô hữu sẵn sàng để hối cải và tin vào Thiên Chúa Cứu Độ. Với tính cách là lời của Thiên Chúa, Luật cũ đem lại đạo lý tồn tại đến muôn đời.

1964. Luật cũ là một sự chuẩn bị nào đó cho Tin Mừng.  “Lề Luật là môn sư phạm và lời tiên báo về các điều sẽ đến” (T. Irenê, chống lạc giáo 4,15,1). Luật cũ nói tiên tri và báo trước công trình giải phóng khỏi tội lỗi sẽ được hoàn thành với Đức Kitô, cung cấp cho Tân Ước những hình ảnh, “những tiên trưng”, những biểu  tượng, để diễn tả đời sống theo Thần Khí. Cuối cùng, luật được kiện toàn bởi đạo lý của các sách khôn ngoan và các Tiên Tri, các vị này quy hướng luật cũ tới Giao ước Mới và Nước Trời.

“Dưới chế độ của Giao Ước Cũ, nhiều  người đã có được đức mến và ân sủng của Chúa Thánh Thần và mong chờ những lời hứa thiêng liêng và vĩnh cửu. Và nhờ đó, họ đã được liên kết với Luật mới. Ngược lại, trong thời Giao Ước Mới, lại có những con người vẫn sống theo xác thịt, chưa đạt tới sự trọn hảo của Luật mới, vậy những người trong thời Giao Ước Mới này phải được dẫn tới các cộng việc nhân đức bằng sự sợ hãi các hình phạt, và bằng những lời hứa thần thế nào đó. Dù Luật cũ có dạy các điều răn của đức mến, nhưng Chúa Thánh Thần không được ban xuống nhờ luật đó, mà nhờ Chúa Thánh Thần, “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta” (Rm 5,5) (T.Tô-ma A-qui-nô 1-2, 107,1,2).

III. LUẬT MỚI HAY LUẬT TIN MỪNG

1965. Luật mới hay luật Tin Mừng là sự trọn hảo nơi trần thế của Luật thần linh, tự nhiên và được mạc khải. Đây là công trình của Đức Kitô, được trình bày cách đặc biệt trong Bài giảng trên núi. Đây cũng là công trình của Chúa Thánh Thần, và nhờ Ngài, nó trở thành luật nội tâm của đức mến: “Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Israel và nhà Giuđa...Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm  chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng còn chúng sẽ là Dân của Ta” (Dt 8,6-10) (x. Gr 31,31-34 ).

1966. Luật mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần được ban cho các tín hữu nhờ tin vào Đức Kitô. Luật này hoạt động nhờ đức  mến, và dùng Bài giảng trên núi của Chúa để dạy chúng ta điều phải làm, và dùng các bí tích để truyền thông ân sủng giúp chúng ta thực hiện điều đó:

“Nếu ai sốt sắng và bình tâm suy niệm bài giảng được Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô công bố trên núi, như chúng ta đọc trong sách Tin Mừng theo thánh Matthêu, tôi nghĩ rằng người đó sẽ gặp được ở đó, vì là những lời răn dạy tốt nhất, một quy luật trọn hảo của đời sống Kitô hữu. Bài giảng này chứa đựng tất cả những mệnh lệnh mà nhớ đó đời sống Kitô hữu được nặn đúc nên” (T. Âu-tinh bài giảng 1,1)

1967. Luật Tin Mừng hoàn thành (X.Mt 5,17-19), tinh luyện, vượt qua và kiện toàn Luật cũ. Trong các mối phúc, Luật mới hoàn thành các lời hứa thần linh khi nâng cao chúng lên và quy  hướng chúng về “Nước Trời”. Luật Tin Mừng dành cho những ai sẵn sàng đón nhận niềm hy vọng mới này với lòng tin: những người nghèo, người khiêm tốn, người đau khổ, người có trái tim trong sạch, người bị bách hại vì Đức Kitô, như vậy Luật Tin Mừng phác họa những con đường chưa từng thấy của Nước Trời.

1968. Luật Tin Mừng hoàn thành các mệnh lệnh của Lề Luật. Bài giảng của Chúa không hủy bỏ hay làm giảm giá trị các qui định luân lý của Luật cũ, nhưng rút ra những sức mạnh còn ẩn kín của chúng, và làm cho từ nơi chúng phát sinh những đòi hỏi mới: Luật Tin Mừng mạc khải toàn bộ chân lý thần linh và nhân linh của Luật cũ. Luật mới không thêm những mệnh lệnh mới từ bên ngoài, nhưng đi đến chỗ biến đổi gốc rễ của các hành vi, là trái tim, nơi con người chọn lựa giữa thanh sạch và ô uế (x. Mt 15,18-19), nơi hình thành đức tin, đức cậy, đức mến, và cùng với chúng, các nhân đức khác. Như vậy, Tin Mừng đưa Lề Luật tới sự viên mãn của nó nhờ bắt chước sự trọn hảo của Cha trên trời (x. Mt 5,48), nhờ việc tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại, giống như lòng quảng đại của Thiên  Chúa  (x. Mt 5 ,44).

1969. Luật mới thực thi các hành vi tôn giáo: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, khi quy hướng các việc đó về “Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”, khác với những người muốn “được người ta thấy” (x.  Mt 6,1-6, 16-18). Lời cầu nguyện của Luật mới là kinh “Lạy Cha”. (x. Mt 6,9-13)

1970. Luật Tin Mừng bao hàm sự chọn lựa dứt khoát giữa ”hai con đường” (x. Mt 7,13-14) và thực hiện các lời dạy của Chúa (x. Mt 7,21-27). Luật Tin Mừng  được tóm lược trong khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môisen và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12) (x. Lc 6,31).

Toàn bộ Luật Tin Mừng được chứa đựng trong điều răn mới của Chúa Giêsu (Ga 13,34), là chúng ta hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta (x. Ga 15,12).

1971. Phải thêm vào bài giảng của Chúa giáo lý luân lý trong giáo huấn của các Tông Đồ, như các đoạn Rm 12,15; 1Cr 12-13; Cl 3-4; Eph 4-5; v.v.... Giáo huấn này lưu truyền đạo lý của Chúa với quyền bính của các Tông đồ, đặc biệt trong việc trình bày các nhân đức xuất phát từ đức tin vào Đức Kitô và là các nhân đức được đức mến, hồng ân chủ yếu của Chúa Thánh Thần, làm cho sinh động. “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ... thương mến nhau với tình huynh đệ... Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp  gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12,9-13). Giáo lý này cũng dạy chúng ta giải quyết những vấn đề lương tâm dưới ánh sáng của mối tương quan giữa chúng ta với Đức Kitô và với Hội Thánh (x.  Rm 14; 1Cr 5-10).

1972. Luật mới được gọi là luật của tình yêu, bởi vì dạy chúng ta hành động vì tình yêu mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ, hơn là vì sợ hãi; Luật mới được gọi là luật của ân sủng, bởi vì mang lại sức mạnh của ân sủng để hành động nhờ đức tin và các bí tích; Luật mới là luật của sự tự do (x. Gcb 1,25; 2,12), bởi vì giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc về nghi thức và pháp lý của luật cũ, khiến chúng ta sẵn sàng tự nguyện hành động theo sự thúc đẩy của đức mến, và sau hết làm cho chúng ta chuyển từ thân phận tôi tớ “không biết việc chủ làm”, sang tình trạng là bạn hữu của Đức Kitô “vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15), hoặc còn tới địa vị là một người con thừa tự nữa (x.  Gl 4,1-7. 21-31; Rm 8,15).

1973. Luật Mới, ngoài các điều răn của mình, cũng bao gồm những lời khuyên Phúc  Âm. Sự phân biệt của truyền thống giữa các điều răn của Thiên Chúa với các lời  khuyên Phúc Âm được thiết lập liên quan đến đức mến, là sự trọn hảo của đời sống Kitô hữu. Các điều răn nhằm giúp tránh những gì không phù hợp với đức mến. Các lời khuyên có mục tiêu giúp tránh những gì, mặc dầu không đối nghịch, nhưng có thể ngăn cản sự phát triển của đức mến (T.Tô-ma Aquinô 2-2; 184,3).

1974. Các lời khuyên Phúc Âm biểu lộ sự sung mãn sống động của một đức mến không bao giờ hài lòng, vì đã không cho đi nhiều hơn nữa. Các lời  khuyên chứng tỏ sự thúc đẩy của đức mến và khích động sự sẵn sàng thiêng liêng của chúng ta. Luật mới chủ yếu cốt tại các điều răn là mến Chúa yêu người. Các lời khuyên chỉ ra những con đường trực tiếp hơn, những phương tiện dễ dàng hơn và phải được  thực thi tùy theo ơn gọi của mỗi  người :

“Thiên Chúa không muốn mỗi  người đều phải giữ tất cả các lời khuyên, nhưng chỉ giữ những lời khuyên nào thích hợp với sự khác biệt của các nhân vị, các thời đại, các hoàn cảnh và các sức lực, như đức mến đòi hỏi; thật vậy,chính đức mến, như là nữ hoàng của mọi nhân đức, mọi giới răn, mọi lời khuyên, và cuối cùng, mọi lề luật và mọi hành động Kitô giáo, nên đức mến ban cho tất cả những điều đó chỗ đứng, trật  tự, thời gian và giá trị của chúng” (T. Phanxicô  Xalêsiô, 8,6).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Luật luân lý là gì?

T. Luật luân lý là công trình khôn ngoan của Thiên Chúa, chỉ cho con người những con đường và quy luật sống, dẫn đến hạnh phúc Thiên Chúa đã hứa, và ngăn cấm những nẻo đường đưa con người xa lìa Thiên Chúa.

2. Luật luân lý tự nhiên hệ tại điều gì?

T. Được Đấng Tạo Hoá khắc ghi trong tâm hồn mọi người, luật tự nhiên hệ tại việc tham dự vào sự khôn ngoan và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Luật tự nhiên diễn tả cảm thức luân lý nguyên thủy, nhờ đó con người sử dụng lý trí để phân định điều tốt điều xấu. Luật tự nhiên mang tính phổ quát và bất biến, đặt nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của con người, cũng như của cộng đồng nhân loại và của chính luật dân sự.


3. Mọi người có nhận thức được luật tự nhiên không?

T. Vì tội lỗi, mọi người không thể nhận thức được luật tự nhiên cách rõ ràng và trực tiếp như nhau. Vì vậy, “Thiên Chúa đã viết trên các bảng Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong tâm hồn họ” (thánh Augustinô).

4. Tương quan giữa luật tự nhiên và Luật Cựu Ước như thế nào?

T. Luật Cựu Ước là cấp độ đầu tiên của Luật mạc khải, trình bày nhiều chân lý mà lý trí tự nhiên có thể đạt tới; những chân lý này được xác nhận và chính thức hóa trong các Giao ước cứu độ. Các quy luật luân lý của luật Cựu Ước được tóm lại trong Mười Điều Răn, đặt nền tảng cho ơn gọi của con người. Các quy định này ngăn cấm những gì nghịch lại tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân, và ấn định những đòi hỏi căn bản của tình yêu ấy.

5. Luật Cựu Ước có vị trí nào trong kế hoạch cứu độ?

T. Luật Cựu Ước giúp chúng ta nhận biết nhiều chân lý mà lý trí có thể đạt được. Luật Cựu Ước chỉ cho thấy điều người ta phải làm hay không được phép làm, và nhất là, như một nhà sư phạm khôn ngoan, chuẩn bị con người sám hối để đón nhận Tin Mừng. Tuy nhiên, dù thánh thiện, thiêng liêng và tốt lành, Luật Cựu Ước vẫn bất toàn, vì tự nó không ban sức mạnh và ân sủng của Chúa Thánh Thần để giúp người ta tuân giữ nó.


6. Luật Mới hay Luật Tin Mừng là gì?

T. Luật Mới hay Luật Tin Mừng được Đức Kitô rao giảng và thực hiện, là sự viên mãn và hoàn thành Luật Thiên Chúa, tự nhiên và mạc khải. Luật Mới được tóm kết trong giới răn mến Chúa yêu người, “yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta”. Luật Mới cũng là một thực tại trong thâm tâm con người, đó là ân sủng của Chúa Thánh Thần giúp chúng ta có thể thực hiện một tình yêu như thế. Đó là “luật tự do” (Gc 1,25), hướng dẫn chúng ta mau mắn hành động dưới sự thúc đẩy của tình yêu. “Trước tiên, Luật Mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần, được ban cho các tín hữu trong Đức Kitô” (thánh Tôma Aquinô).

7. Chúng ta gặp được Luật Mới ở đâu?

T. Chúng ta gặp được Luật Mới trong suốt cuộc đời và lời rao giảng của Đức Kitô, cũng như trong huấn giáo luân lý của các Tông đồ. Bài giảng trên núi là cách diễn tả chính yếu của luật này.


MỤC 2

ÂN SỦNG VÀ SỰ CÔNG CHÍNH HÓA

I. SỰ CÔNG CHÍNH HÓA

1987. Ân sủng của Chúa Thánh Thần có sức mạnh công chính hóa chúng ta, nghĩa là, rửa chúng ta sạch tội lỗi, và truyền thông cho chúng ta sự công chính của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Giêsu Kitô (Rm 3,22) và nhờ bí tích Rửa Tội (T. Tô-ma A-qui-nô 1-2; 90,4) :

“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: Đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết đối  tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 6, 8-11).

1988. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô khi chết cho tội lỗi, và được tham dự vào sự phục sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới;  chúng ta là những chi thể của Thân Thể Người là Hội Thánh (x. 1Cr 12), là những ngành nho được ghép vào Cây nho là chính Đức Kitô (x. Ga 15,1-4):

“Nhờ Thần Khí chúng ta được dự phần vào Thiên Chúa. Nhờ sự truyền thông Thần Khí, chúng ta được trở nên những người đồng phận với bản tính thần linh....Vì thế, những ai có Thần Khí ngự nơi mình, đều được thần linh hóa (T. A-ta-na-si-ô 1, 24).

1989. Công trình đầu tiên của ân sủng của Chúa Thánh Thần là sự hoán cải, việc này thực hiện sự công chính hóa theo lời rao giảng của Chúa Giêsu lúc khởi đầu Tin Mừng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17). Dưới tác động của ân sủng, con người quay về với Thiên Chúa và quay lưng lại với tội lỗi, và như vậy đón nhận ơn tha thứ và sự công chính từ trên cao. “Sự công chính hóa… không chỉ là sự tha tội, nhưng còn là sự thánh hóa và canh tân con người nội tâm”(Cđ Tren-tô: DS 1528). 

1990. Sự công chính hóa giải thoát con người khỏi tội lỗi là điều đối nghịch lại với tình yêu của Thiên Chúa, và thanh tẩy trái tim họ khỏi tội lỗi. Sự công chính hóa là do sáng kiến của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng ban ơn tha thứ. Nó giao hòa con người với Thiên Chúa. Nó giải thoát khỏi sự nô lệ tội lỗi và nó chữa lành.

1991. Sự công chính hóa đồng thời là việc đón nhận sự công chính của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Ở đây, sự công chính cho thấy sự ngay thẳng của  tình yêu của Thiên Chúa. Cùng với sự công chính hóa, đức tin, đức cậy và đức mến được đổ tràn vào trái tim chúng ta và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa được ban cho chúng ta.

1992. Sự công chính hóa là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô cho chúng ta, Người là Đấng đã tự hiến trên thập giá như của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên dụng cụ đền tội vì tội lỗi của mọi người. Sự công chính hóa được ban nhờ Phép Rửa, là bí tích của đức  tin. Nó làm cho ta nên phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của lòng thương xót của Ngài làm cho chúng ta nên công chính tự bên trong. Sự công chính hóa có mục tiêu là vinh quang của Thiên Chúa và của Đức Kitô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu  (Cđ. Tren-tô : DS 1529).

“Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môisen. Điều này, sách luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do hồng ân Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Ngài đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Ngài muốn cho thấy rằng Ngài vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu Kitô được nên công chính” (Rm  3,21-26).

1993. Sự công chính hóa thiết lập sự cộng tác giữa ân sủng của Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, sự công chính hóa được diễn tả trong sự ưng thuận của đức tin đối với lời Thiên Chúa, Đấng mời gọi con người hối cải, và trong sự cộng tác của đức mến với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng khởi xướng và gìn giữ sự ưng thuận đó:

“Khi Thiên Chúa đánh động trái tim con người nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, con người không phải là không làm gì khi đón nhận sự linh hứng này vì họ có thể khước từ sự linh hứng đó; tuy nhiên, nếu không có ân sủng Thiên Chúa, họ không thể đạt tới sự công chính trước mặt Ngài bằng ý chí tự do của mình” (Cđ. Tren-tô, DS 1525).

1994. Sự công chính hóa là công trình vô cùng tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Giêsu Kitô và được Chúa Thánh Thần ban tặng. Thánh Augustinô cho rằng “việc công chính hóa kẻ vô đạo là một công trình còn lớn lao hơn cả trời đất... Quả vậy, trời đất sẽ qua đi; còn ơn cứu độ và công chính hóa những người được tiền định sẽ tồn tại” (x. Ev, G 72,3). Thánh nhân còn cho rằng sự công chính hóa các kẻ tội lỗi vượt trên công trình  tạo dựng các Thiên Thần trong sự công chính, vì điều này làm chứng lòng thương xót lớn lao của Thiên Chúa.

1995. Chúa Thánh Thần là vị thầy nội tâm. Sự công chính hóa, khi làm cho “con người nội tâm” được sinh ra (x. Rm 7,22; Eph 3,16), bao hàm sự thánh hóa toàn thể con người:

“Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân,  để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện... Nhưng giờ đây, anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời đời” (x. Rm 6,19.22).

II. ÂN SỦNG

1996. Sự công chính hóa của chúng ta là do ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng là một hồng ân, một sự trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Ngài: trở thành con cái Thiên Chúa (x. Ga 1,12-18), làm nghĩa tử (x. Rm 8,14-17), tham dự vào bản tính Thiên Chúa (x. 2Pr 1, 3-4) và vào sự sống muôn đời  (Ga 17,3).

1997. Ân sủng là sự tham dự vào sự sống Thiên Chúa, đưa chúng ta vào sự thân mật của sự sống Chúa Ba Ngôi: nhờ bí tích Rửa Tội, Kitô hữu tham dự vào ân sủng của Đức Kitô, Đầu của Thân Thể Người. Với tư cách là “nghĩa tử”, họ có thể gọi Thiên Chúa là “Cha”, trong sự kết hợp với Người Con Một. Họ lãnh nhận sự sống của Thần Khí, Đấng thổi hơi đức mến trên họ và là Đấng hình thành Hội Thánh.

1998. Ơn gọi vào sự sống vĩnh cữu này là một ơn siêu nhiên. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa, bởi vì chỉ mình Ngài có thể tự mặc khải và tự ban tặng chính mình. Ơn gọi đó vượt mọi tài năng của trí tuệ và sức mạnh của ý chí nhân linh, cũng như của mọi thụ tạo (x. 1Cr 2,7-9).

1999. Ân sủng của Đức Kitô là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban cho chúng ta từ sự sống của Ngài, nhờ Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn chúng ta để chữa trị nó khỏi tội lỗi và thánh hóa nó: Đó là ơn thánh hóa hay ơn thần linh hóa, được lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội. Ân sủng này là nguồn mạch của công trình thánh hóa chúng ta  (x. Ga 4,14; 7, 38-39):

“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được giao hòa với Ngài” (2 Cr 5,17-18).

2000. Ơn thánh hóa là một hồng ân thường xuyên, một trạng thái bền vững và siêu nhiên, kiện toàn chính linh hồn để nó có khả năng sống với Thiên Chúa và hành động vì tình yêu của Ngài. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng là trạng thái trường tồn để sống và hành động theo lời kêu gọi của Thiên Chúa, và các ơn hiện sủng là những can thiệp của Thiên Chúa, hoặc vào lúc khởi đầu cuộc hối cải, hoặc trong tiến trình của công cuộc thánh hóa.

2001. Sự chuẩn bị của con người để đón nhận ân sủng đã là một công trình của ân sủng. Điều này là cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, và vào việc thánh hóa nhờ đức mến. Thiên Chúa kiện toàn nơi ta điều Ngài đã khởi sự, “vì Ngài khởi sự bằng cách tác động để chúng ta ước muốn, Ngài kiện toàn bằng cách cộng tác với những người đã muốn” (T.Âu-tinh, 17):

“Thật ra, khi chúng ta cũng làm việc, là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc, bởi vì lòng thương xót của Ngài đi bước trước đến với chúng ta. Ngài đi bước trước, để chúng ta được chữa lành, và Ngài dõi theo sau để sau khi được chữa lành, chúng ta nên cường tráng; Ngài đi bước trước để chúng ta được kêu gọi, Ngài dõi theo sau để được vinh quang; Ngài đi bước trước, để chúng ta sống một cách đạo đức, Ngài dõi theo sau để chúng ta được luôn luôn sống với Ngài; bởi vì không có Ngài, chúng ta không thể làm được gì”  (T.Âu-tinh, 31).

2002. Sáng kiến tự do của Thiên Chúa đòi hỏi sự đáp trả tự do của con người, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, khi ban cho họ, cùng với sự tự do, khả năng nhận biết và yêu mến Ngài. Linh hồn chỉ tự nguyện mới có thể tiến vào sự hiệp thông của tình yêu. Thiên Chúa trực tiếp đụng chạm và đánh động trái tim con người. Ngài đặt trong con người sự khát vọng chân lý và điều thiện mà chỉ mình Ngài có thể làm thỏa mãn. Các lời hứa ban “sự sống đời đời” đáp lại khát vọng này, vượt quá mọi hy vọng:

“Lạy Chúa, sau những công trình rất tốt đẹp của Chúa, mặc dầu Chúa đã thanh thản làm nên chúng, Chúa đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy, chính là để nói trước với chúng con qua tiếng nói trong sách của Chúa rằng, sau những công trình rất tốt đẹp của chúng con mà chính Chúa đã ban cho chúng con, thì chúng con sẽ nghỉ ngơi trong ngày Sabat của đời sống vĩnh cửu trong Chúa (T.Âu-tinh, tự thuật 13, 36. 51).

2003. Ân sủng, trước hết và đặc biệt, là hồng ân của Thần Khí, Đấng công chính hóa và thánh hóa chúng ta. Nhưng ân sủng cũng gồm các hồng ân Thần Khí rộng ban cho chúng ta để liên kết vào công trình của Ngài, để làm cho chúng ta có khả năng cộng tác vào công trình cứu độ những người khác và làm phát triển Thân Thể Đức Kitô là Hội Thánh. Đó là các ân sủng bí tích, là những hồng ân riêng cho những bí tích khác nhau. Ngoài ra, còn có các ân sủng đặc biệt gọi là các đặc sủng theo từ Hi Lạp, mà thánh Phaolô sử dụng, có nghĩa là đặc ân, hồng ân nhưng không, phúc lợi (x. LG 12). Dù có đặc tính nào đi nữa, đôi khi là ngoại thường, như ơn làm phép lạ hay ơn nói tiếng lạ, các đặc sủng đều qui hướng về ơn thánh hóa và có mục tiêu là công ích của Hội Thánh. Các đặc sủng đều phục vụ đức  mến là nhân đức để xây dựng Hội Thánh (x. 1Cr 12).

2004. Trong các ân sủng đặc biệt, phải kể đến các ơn chức phận là những ơn được ban để thực thi các trách nhiệm của đời sống Kitô hữu và các thừa tác vụ trong Hội  Thánh:

Chúng ta có những đặc sủng khác nhau tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai được khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì vui vẻ mà làm” (Rm 12, 6-8).

2005. Ân sủng, vì là siêu nhiên, nên vượt tầm kinh nghiệm của chúng ta, và chỉ có thể nhận biết được bằng đức tin. Vì vậy, chúng ta không thể dựa trên tình cảm hay các việc làm của chúng ta để từ đó suy ra rằng chúng ta đã được công chính hóa hay được cứu độ (Cđ. Trentô: DS 1533-15324 ). Tuy nhiên, theo lời Chúa phán: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,20), việc nhìn xem các hồng ân của Thiên Chúa, trong đời sống chúng ta và trong đời sống các Thánh, mang lại cho chúng ta một bảo chứng là ân sủng đang hoạt động trong chúng ta và khơi dậy nơi chúng ta một đức tin lớn mạnh hơn, và một thái độ nghèo khó đầy tín thác.

“Một trong những minh họa đẹp nhất của thái độ này là câu trả lời của thánh nữ Jeanne d’Arc trước một câu hỏi gài bẫy của các quan tòa của Giáo Hội: “Khi bị hỏi: cô có biết mình đang sống trong ân sủng của Thiên Chúa hay không cô trả lời : “Nếu tôi chưa có, xin Chúa ban cho tôi; nếu tôi có rồi, xin Chúa thương gìn giữ tôi trong ân sủng Ngài” (T.Gioana thành Ars).

III. CÔNG TRẠNG

“Chúa được tôn vinh trong cộng đồng các Thánh, và khi tuyên dương công trạng của các ngài, Chúa tuyên dương bằng chính hồng ân của Chúa” (x. Sách lễ Rôma, tiền tụng lễ các thánh, dựa theo lời của thánh Âutinh, vị tiến sĩ về ân sủng, Tv 102,7).

2006. Từ “công trạng” thường được dùng để chỉ sự trả công mà cộng đồng hay xã hỗi đánh giá hành động của một vị thành viên của mình, xét như điều đó tốt hay xấu, đáng được thưởng hay bị phạt. Công trạng thuộc về nhân đức công bằng theo nguyên tắc về sự bình đẳng, là nguyên tắc chi phối nhân đức đó.

2007. Trước mặt Thiên Chúa, theo nghĩa hẹp về quyền lợi, con người không có công trạng gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có sự bất bình đẳng không thể đo lường, bởi vì chúng ta đón nhận mọi sự từ nơi Ngài, là Đấng Tạo Hóa của chúng ta.

2008. Công trạng của con người trước mặt Thiên Chúa trong đời sống Kitô hữu là do Thiên Chúa đã tự ý muốn liên kết con người với công trình của ân sủng của Ngài. Hành động đầy tình phụ tử của Thiên Chúa, bằng sự thúc đẩy của ân sủng, là trước hết, thứ đến mới là hành động tự do của con người trong sự cộng tác của họ, cho nên các công trạng của các việc tốt lành trước hết phải được quy về ân sủng của Thiên Chúa, rồi mới quy về tín hữu. Ngoài ra chính công trạng của con người phải quy về Thiên Chúa, bởi vì các việc tốt lành của họ đều diễn ra trong Đức Kitô, nhờ những khởi xướng và trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

2009. Nhờ ân sủng, ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công chính nhưng không của Thiên Chúa. Đây là một quyền có được nhờ ân sủng, quyền sung mãn của tình yêu, làm cho chúng ta nên những người “đồng thừa tự” với Đức Kitô và xứng đáng được hưởng phần gia tài đã được hứa ban là đời sống vĩnh cửu (Cđ. Tren-tô: DS 1546). Công trạng do các việc tốt lành của chúng ta là những hồng ân của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. “Ân sủng đã được ban trước giờ, giờ đây nợ được trả…. Các hồng ân của Thiên Chúa là những công trạng của bạn (T. Âu-tinh, bài giảng 298,4-5)

2010. Vì sự khởi xướng trong lãnh vực ân sủng thuộc về Thiên Chúa, nên không ai có thể có công trạng gì để lãnh nhận ân sủng đầu tiên nơi cội nguồn việc hối cải, ơn tha thứ và sự công chính hóa. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần và của đức mến, chúng ta mới có thể lập công cho bản thân và cho tha nhân để được những ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa, cho việc gia tăng ân sủng và đức mến của chúng ta, cũng như để đạt tới sự sống vĩnh cửu. Theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để đáng lãnh nhận những lợi ích trần thế, như sức khỏe, tình bằng hữu. Những ân sủng và hồng ân này là đối tượng của kinh nguyện Kitô giáo. Việc cầu nguyện đem lại ân sủng cần thiết cho chúng ta để các hành động có được công trạng.

2011. Tình yêu Đức Kitô trong chúng ta là nguồn mạch mọi công trạng của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Ân sủng, khi kết hợp chúng ta với Đức Kitô bằng một tình yêu năng động, bảo đảm phẩm tính siêu nhiên của các hành vi của chúng ta và do đó, bảo đảm công trạng của các việc đó trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt người ta. Các Thánh luôn ý thức mãnh liệt rằng các công trạng của các ngài hoàn toàn là ân sủng.

Sau cuộc lưu đày trần thế, con hy vọng sẽ được về vui hưởng Chúa nơi Quê hương, nhưng con không muốn thu thập công trạng để được lên trời, con muốn làm  việc chỉ vì tình yêu Thiên Chúa mà thôi.... Lúc cuộc đời xế bóng, con sẽ đến trước mặt Chúa với đôi bàn tay trắng, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Mọi sự công chính của chúng con đều mang tì vết trước mắt Chúa. Vì vậy, con muốn được mặc lấy sự công chính của chính Chúa và đón nhận từ tình yêu Chúa phần sở hữu muôn đời là chính Chúa… (FT. Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu, tận hiến cho tình  yêu nhân từ).

IV. SỰ THÁNH THIỆN CỦA KITÔ HỮU

2012. “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài… Vì những ai Ngài đã biết từ trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, để Con của Ngài làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang” (x. Rm 8, 28-30 ).

2013. “Tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô hữu và đến sự trọn hảo của đức mến” (x. LG 40). Mọi người đều được kêu gọi nên thánh: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

“Để đạt được sự trọn hảo đó, các tín hữu phải sử dụng những sức mạnh mình đã lãnh nhận tùy theo mức độ Đức Kitô đã ban, để... khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong mọi sự, họ sẽ hiến thân với hết tâm hồn cho vinh quang Thiên Chúa và cho việc phục vụ người lân cận. Như vậy, sự thánh thiện của dân Thiên Chúa sẽ trổ sinh hoa trái dồi dào, như đã thấy một cách rõ ràng trong lịch sử Hội Thánh qua đời sống của bao vị thánh” ( x. LG 40).

2014. Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng hướng đến sự kết hợp ngày càng mật thiết hơn với Đức Kitô. Sự kết hợp này được gọi là “thần bí”, bởi vì tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô nhờ các bí tích “các mầu nhiệm thánh”, và trong Người, tham dự mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh. Thiên Chúa kêu gọi tất cả chúng ta đến sự kết hợp mật thiết này với Ngài, mặc dù những ân sủng đặc biệt và những dấu chỉ ngoại thường của đời sống thần bí này chỉ được ban cho một số người, để biểu lộ hồng ân nhưng không được ban cho mọi người.

2015. Con đường của sự trọn hảo phải đi qua thập giá. Không thể có sự thánh thiện, nếu không có sự từ bỏ và cuộc chiến đấu thiêng liêng. Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng bao hàm sự khổ chế và hy sinh hãm mình, là những điều từng bước dẫn tới việc sống trong bình an và hoan lạc của các mối phúc:

“Ai trèo lên, người đó không bao giờ ngừng từ bắt đầu này tiếp sau bắt đầu kia, qua những bắt đầu không chấm dứt. Người đó không bao giờ ngừng ao ước đều người đó đã biết rồi” (T. Ghê-gô-ri-ô thành  Nit-sê, bài giảng 8).

2016. Các con cái của Mẹ thánh chúng ta là Hội Thánh, hy vọng một cách chính đáng được Thiên Chúa là Cha ban ơn bền đỗ đến cùng và sự trả công vì những công việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng của Ngài trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Các tín hữu, tuân giữ cùng một quy luật sống, được tham dự vào “niềm hy vọng hồng phúc” của những người mà lòng thương xót của Thiên Chúa đã quy tụ trong “Thành thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương tang điểm để đón tân lang” (Kh 21,2).

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Công chính hóa là gì?

T. Công chính hóa là công trình tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa. Đó là hành động nhân từ và nhưng không của Thiên Chúa, Đấng tha thứ tội lỗi cho chúng ta và làm cho chúng ta nên công chính, thánh thiện trong trọn vẹn bản thân chúng ta, điều đó được thực hiện nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, ân sủng mà chúng ta đáng được nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, và được trao ban cho chúng ta qua Bí tích Rửa Tội. Việc công chính hóa mở đường cho lời đáp trả tự do của con người, nghĩa là cho đức tin vào Đức Kitô và cho sự cộng tác với ân sủng của Chúa Thánh Thần.

2. Ân sủng công chính hóa chúng ta là  gì?

T. Ân sủng là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban giúp chúng ta tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động vì tình yêu Thiên Chúa. Ân sủng này được gọi là ơn thường sủng, ơn thánh hóa hay ơn thần hóa, vì ân sủng thánh hóa và thần hóa chúng ta. Ân sủng siêu nhiên, vì tùy thuộc hoàn toàn vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa và vượt quá mọi khả năng lý trí và sức lực của con người. Vì vậy, ân sủng vượt khỏi kinh nghiệm của chúng ta.

3. Các loại ân sủng khác là gì?

T. Ngoài ơn thường sủng, còn có ơn hiện sủng (ân sủng tùy hoàn cảnh), các ơn Bí tích (ân sủng đặc biệt của mỗi Bí tích), các ân sủng đặc biệt hay đặc sủng (có mục đích là sự thiện ích của Hội Thánh), trong đó có ơn chức phận, là ơn đi kèm theo việc thi hành các thừa tác vụ trong Hội Thánh và các trách nhiệm của đời sống.

4. Đâu là tương quan giữa ân sủng với tự do con người?

T. Ân sủng dọn đường, chuẩn bị và khơi dậy lời đáp trả tự do của con người. Ân sủng thỏa mãn những khát vọng thâm sâu của sự tự do con người, mời gọi tự do cộng tác, và hướng dẫn tự do đến sự hoàn thiện.

5. Công phúc là gì?

T. Công phúc là điều đem lại quyền được thưởng cho một hành động tốt. Trong những liên hệ với Thiên Chúa, con người tự mình không có gì được gọi là công phúc, vì học lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho con người có khả năng lập công nhờ kết hợp vào đức ái của Đức Kitô, nguồn mạch các công phúc của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, công phúc của những việc lành trước hết là do ân sủng của Thiên Chúa, thứ đến mới do ý chí tự do của con người.

6. Chúng ta có thể lập công để lãnh nhận những điều thiện hảo nào?

T. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thẻ lập công để lãnh nhận, cho chính mình và cho người khác, những ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa bản thân và cho việc đạt tới đời sống vĩnh cửu, cũng như của cải vật chất cần thiết cho chúng ta, theo kế hoạch của Thiên Chúa. Tuy nhiên, không ai có thể lập công để lãnh nhận ân sủng đầu tiên, là ân ban lúc khởi đầu để sám hối và được nên công chính.

7. Có phải mọi người đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện Kitô giáo không?

T. Mọi tín hữu đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện Kitô giáo. Sự thánh thiện này là sự viên mãn của đời sống Kitô hữu, sự hoàn hảo của tình yêu, được thực hiện trong việc kết hợp mật thiết với Đức Kitô và trong Người, với Thiên Chúa Ba Ngôi. Con đường nên thánh của người Kitô hữu, sau khi kinh qua thập giá, sẽ được hoàn thành trong cuộc phục sinh chung cuộc của những người công chính, trong đó “Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi loài”.


MỤC 3

HỘI THÁNH, MẸ VÀ THẦY

 

2030. Chính trong Hội Thánh, trong sự hiệp thông với tất cả những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội mà Kitô hữu chu toàn ơn gọi của mình. Từ Hội Thánh, họ đón nhận Lời Thiên Chúa chứa đựng các đạo lý của “Luật Đức Kitô” (Gl 6,2). Từ Hội Thánh, họ lãnh nhận ân sủng của các bí tích nâng đỡ họ trên “đường”. Từ Hội Thánh, họ học mẫu gương của sự thánh thiện; họ nhận ra hình ảnh và nguồn mạch sự thánh thiện này nơi Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, phân định ra sự thánh thiện này qua chứng từ chân chính của những người đang sống theo sự thánh thiện; họ khám phá sự thánh thiện này trong truyền thống linh đạo và trong lịch sử lâu dài của các Thánh, những vị đã đi trước họ và phụng vụ đang mừng kính các ngài theo chu kỳ các Thánh.

2031. Đời sống luân lý là một việc phượng tự thiêng liêng. “Chúng ta dâng hiến thân xác mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Rm 12,1), trong Thân Thể Đức Kitô mà chúng ta họp thành, và trong sự hiệp thông với  hiến lễ Thánh Thể của Người. Trong phụng  vụ và trong việc cử hành các bí tích, lời cầu nguyện và đạo lý được kết hợp với ân sủng Đức Kitô, để soi sáng và nuôi dưỡng cách hành động của Kitô hữu. Cũng như toàn bộ đời sống Kitô hữu, đời sống luân lý gặp được nguồn mạch và tột đỉnh của mình trong Hy lễ Thánh Thể.

I. ĐỜI SỐNG LUÂN LÝ VÀ HUẤN QUYỀN CỦA HỘI THÁNH:

2032. Hội Thánh, là ”cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1Tm 3,15), “đã lãnh nhận từ các Tông Đồ mệnh lệnh long trọng của Đức Kitô là phải loan báo chân lý cứu độ” (x. LG 17) “Hội Thánh phải loan báo các nguyên tắc luân lý trong mọi thời và ở mọi nơi, kể cả những nguyên tắc về trật tự xã hội, cũng như phải phán đoán về tất cả các thực tại nhân sinh, trong mức độ mà các quyền căn bản của con người hay việc cứu độ của các linh hồn đòi hỏi (x.CIC, can, 747).

2033. Huấn Quyền của các mục tử Hội Thánh về vấn đề luân lý, thường được thực thi trong việc dạy giáo lý và giảng dạy, với sự trợ giúp của các công trình của các nhà thần học và các tác giả linh đạo. Như vậy, từ đời nọ đến đời kia, dưới sự hướng dẫn và cảnh giác của các mục tử, “kho tàng” luân lý Kitô giáo được lưu truyền, kho tàng đó là một tổng hợp đặc trưng các quy luật, các mệnh lệnh và các nhân đức xuất phát từ đức tin vào Đức Kitô và được ban sự sống bởi đức mến. Một cách theo truyền thống, việc dạy giáo lý này lấy Mười Điều Răn, cùng với Tín biểu và Kinh Lạy Cha, làm nền tảng, vì Mười Điều Răn loan báo những nguyên tắc của đời sống luân lý, hữu hiệu cho tất cả mọi người.

2034. “Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, với tư cách là “những thầy dạy đích thực, nghĩa là những người giảng dạy bằng quyền bính của Đức Kitô, rao giảng cho dân được trao phó cho các ngài, những điều phải tin và phải áp dụng vào cách ăn nết ở” (x. LG 25). Huấn Quyền thông thường và phổ quát của Đức Giáo Hoàng và các Giám mục hiệp thông với ngài, dạy các tín hữu chân lý phải tin, đức mến phải thực thi,  vinh phúc phải trông cậy.

2035. Cấp độ tối thượng của việc tham dự vào quyền bính của Đức Kitô được đảm bảo bởi đặc sủng là ơn bất khả ngộ. “Kho tàng mặc khải thần linh rộng bao nhiêu, thì ơn này trải rộng bấy nhiêu” (x. LG 25); ơn này cũng trải rộng tới tất cả các yếu tố của đạo lý về luân lý, trong đó có đạo lý về luân lý, nếu không có những yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không được bảo toàn, trình bày hay tuân giữ (x. CDF, décl. “Mysterium Ecclesiae” 3).

2036. Quyền bính của Huấn Quyền cũng trải rộng đến các mệnh lệnh đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì việc tuân giữ các mệnh lệnh đó do đấng tạo hoá đòi hỏi, là cần thiết để được cứu độ. Khi nhắc lại các quy định của luật tự nhiên, Huấn quyền của Hội Thánh thực thi phần chính yếu của nhiệm vụ tiên tri của mình, là loan báo cho mọi người họ thật sự là gì, và nhắc nhở họ phải là gì trước mặt Thiên  Chúa (x. DH 14) .

2037. Luật của Thiên Chúa, được ký thác cho Hội Thánh, với tính cách là con đường của sự sống và chân lý, được trao cho các tín hữu. Vì vậy, các tín  hữu có quyền (x. CIC can, 213) được giáo huấn về các mệnh lệnh cứu độ của Thiên Chúa, chúng thanh luyện trí phán đoán và nhờ ân sủng, chữa lành lý trí con người đã bị tổn thương. Các tín hữụ có nghĩa vụ tuân giữ các hiến chế và sắc lệnh do quyền bính hợp pháp của Hội Thánh công bố. Những quyết định này, mặc dầu mang tính kỷ luật, vẫn đòi sự mau mắn vâng phục trong đức mến.

2038. Trong việc giảng dạy và áp dụng luân lý Kitô giáo, Hội Thánh cần đến sự tận tâm của các mục tử, kiến thức của các nhà thần học và sự đóng góp của mọi Kitô hữu và mọi người thiện chí. Đức tin và việc thực hành Tin Mừng đem lại cho mỗi người một kinh nghiệm về đời sống “trong Đức Ki-tô”, kinh nghiệm này soi sáng cho họ và giúp họ có khả năng đánh giá những thực tại thần linh và nhân linh theo Thần Khí của Thiên Chúa (x.1Cr 2,10-15). Như vậy, Chúa Thánh Thần có thể  dùng những kẻ thấp hèn nhất, để soi sáng những người thông thái và những người có chức phận cao trọng hơn.

2039. Các thừa tác vụ phải được thực thi trong tinh thần phục vụ huynh đệ và tận tụy đối với Hội Thánh, nhân danh Chúa (x.Rm 12,8.11). Đồng thời khi đưa ra phán đoán luân lý về các hành vi cá vị của mình, lương tâm mỗi người phải tránh đừng khép kín trong sự quan tâm cá nhân. Hết sức có thể, phải cố gắng tự mở rộng để quan tâm đến lợi ích của mọi người, như được trình bày trong luật luân lý tự nhiên và được mạc khải, và tiếp đó trong luật Hội Thánh và trong đạo lý đích thực của Huấn quyền về các vấn đề luân lý. Không được đối nghịch lương tâm cá vị và lý trí với luật luân lý hay với Huấn Quyền của Hội Thánh.

2040. Như vậy, giữa các Kitô hữu, một tinh thần con thảo đích thực với Hội Thánh có thể tăng trưởng. Tinh thần đó là sự triển nở bình thường của ân sủng Phép Rửa, ân sủng này đã sinh chúng ta vào trong lòng Hội Thánh và làm cho chúng ta trở nên những chi thể của Thân Thể Đức Kitô. Hội Thánh, với sự quan tâm từ mẫu của mình, ban cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót này vượt trên mọi tội lỗi của chúng ta, và hành động một cách đặc biệt trong bí tích Hòa Giải. Hội Thánh, như một người mẹ ân cần, cũng rộng ban cho chúng ta mỗi ngày, trong phụng vụ của mình, lương thực là Lời và Thánh Thể của Chúa.

II. CÁC ĐIỀU RĂN HỘI THÁNH

2041. Các điều răn Hội Thánh được đặt trong đường hướng một đời sống luân lý gắn liền với đời sống phục vụ và được đời sống phụng vụ nuôi dưỡng. Tính cách bắt buộc của các luật thiết định này được công bố bởi các quyền bính mục vụ, có mục đích cung cấp cho các tín hữu mức tối thiểu rất cần thiết về tinh thần cầu nguyện và về nỗ lực luân lý, để gia tăng lòng mến Chúa yêu người.

2042. Điều răn thứ nhất (“Vào các Chúa nhật và các ngày lễ buộc, các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ và tránh những công việc nô dịch”) đòi các tín hữu thánh hóa ngày tưởng niệm cuộc Phục Sinh của Chúa, cũng như những lễ phụng vụ chính để  tôn kính các mầu nhiệm của Chúa, của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc và của các Thánh, trước hết bằng việc tham dự cuộc cử hành Bí Tích Thánh Thể, trong đó cộng đoàn Kitô hữu được quy tụ, và tránh không làm những việc tự bản chất có thể  ngăn trở việc thánh hóa những ngày đó (x. CIC, 1246-1248; CCEO  880, 3; 881).

Điều răn thứ hai: (“Xưng tội trong một năm ít là một lần”) bảo đảm việc chuẩn bị rước Thánh Thể bằng việc lãnh nhận bí tích Hòa Giải, nối tiếp công việc hối cải và tha thứ của bí tích Rửa Tội (x. CIC, 989, CCEO, 719).

Điều răn thứ ba: (“Rước Mình Thánh Chúa ít là một lần trong mùa Phục  Sinh”) bảo đảm mức tối thiểu trong việc rước Mình và Máu Thánh Chúa, được liên kết với các lễ trong mùa Phục Sinh, vì Phục Sinh là nguồn gốc và trung tâm của phụng vụ Kitô giáo (x. CIC, 920, CCEO, 708-881).

2043. Điều răn thứ tư: (“Kiêng thịt và giữ chay trong những ngày thống hối do Hội Thánh quy định”) bảo đảm thời gian khổ chế và thống hối để chuẩn bị cho chúng ta mừng các lễ phụng vụ, và giúp chúng ta làm chủ được các bản năng và đạt tới sựu tự do của trái tim (x. CIC, 1246, CCEO, 881,1,4; 880,3).

Điều răn thứ năm (“Đóng góp cho các nhu cầu của Hội Thánh”) dạy các tín hữu có bổn phận đóng góp cho các nhu cầu vật chất của Hội Thánh, tùy theo khả năng mỗi người (x. CIC, 222;  CCEO 25).

III. ĐỜI SỐNG LUÂN LÝ VÀ CHỨNG TỪ TRUYỀN GIÁO

2044. Lòng trung thành của những người đã lãnh Phép Rửa là điều kiện tiên quyết đối với việc loan báo Tin Mừng và đối với sứ vụ của Hội Thánh trong trần gian. Để tỏ cho mọi người thấy sức mạnh của nó về chân lý và sự rạng ngời, sứ điệp cứu độ phải được chứng thực bằng chứng từ của đời sống các Kitô hữu và các việc tốt lành được thực thi với tinh thần siêu nhiên, có sức mạnh lôi kéo người ta đến với đức tin và đến với Thiên Chúa (x. AA. 6).

2045. Bởi vì là chi thể của Thân Thể mà Đức Ki-tô là Đầu (x. Eph1,22), các Kitô hữu góp phần vào việc xây dựng Hội Thánh bằng sự kiên trì trong xác tín của mình và trong đời sống luân lý của mình. Hội Thánh được tăng số, lớn lên và triển nở bằng sự thánh thiện của các tín hữu của mình (x.LG 39), cho tới khi chính họ làm thành “con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Eph 4,13).

2046. Bằng đời sống theo Đức Kitô của mình, các Kitô hữu làm cho Nước Thiên Chúa mau đến, đó là “Nước của công bằng, của tình yêu và của bình an” (x. MR). Nhưng không vì thế mà họ xao lãng nhiệm vụ trần thế của mình; chính họ, trung thành với Thầy mình, chu toàn nhiệm vụ đó với sự ngay thẳng, với sự nhẫn nại và với tình yêu .

TÓM LƯỢC

(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)

1. Hội Thánh nuôi dưỡng đời sống luân lý của người Kitô hữu như thế nào?

T. Hội Thánh là cộng đoàn các người Kitô hữu. Trong Hội Thánh, họ đón nhận Lời Chúa và những giáo huấn về “Luật của Đức Kitô” (Gl 6,2), lãnh nhận ân sủng các Bí tích, kết hợp bản thân vào hy lễ Thánh Thể của Đức Kitô, để đời sống luân lý của họ trở thành một phượng tự thiêng liêng. Trong Hội Thánh, họ học gương thánh thiện của Đức Trinh Nữ Maria và của các thánh.

2. Tại sao Huấn quyền Hội Thánh can thiệp vào lĩnh vực luân lý?

T. Bởi vì Trách nhiệm của Huấn quyền Hội Thánh là rao giảng đức tin để mọi người tin và áp dụng đức tin vào đời sống cụ thể. Trách nhiệm này cũng bao gồm cả những điều răn đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì tuân giữ những điều răn đó rất cần thiết cho ơn cứu độ.

3. Các điều răn của Hội Thánh có mục đích gì?

T. Năm điều răn của Hội Thánh có mục đích đảm bảo cho người tín hữu những điều tối thiểu thiết yếu về tinh thần cầu nguyện, đời sống Bí Tích, dấn thân luân lý và tăng trưởng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.

4. Năm điều răn của Hội Thánh là gì?

T. Năm điều răn của Hội Thánh là: 1) tham dự Thánh lễ Chúa nhật cũng như các ngày lễ buộc, kiêng việc xác và những hoạt động có thể cản trở việc thánh hóa những ngày đó; 2) xưng tội để lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa ít là mỗi năm một lần; 3) Rước lễ ít là trong mùa Phục Sinh; 4) Kiêng thịt và giữ chay trong những ngày Hội Thánh quy định; 5) Mỗi người theo khả năng, đóng góp cho các nhu cầu vật chất của Hội Thánh.

5. Tại sao đời sống luân lý của người Kitô hữu rất cần thiết để loan báo Tin Mừng?

T. Nhờ đời sống luân lý phù hợp với Chúa Giêsu, các người Kitô hữu lôi kéo mọi người tin vào Thiên Chúa thật; họ xây dựng Hội Thánh; đem tinh thần Tin Mừng vào giữa lòng đời và chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa đến


MỤC LỤC

Chương một: Phẩm giá của nhân vị---------------- 05

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa---- 06

Mục 2: Ơn gọi chúng ta là đến hưởng vinh phúc-- 09

I. Các mối phúc-------------------------------- 09

II. Khao khát hạnh phúc----------------------- 10

III. Vinh phúc Kitô Giáo------------------------ 11

Mục 3: Sự tự do của con người------------------- 15

I. Tự do và trách nhiệm----------------------- 15

II. Sự tự do của con người trong nhiệm cục Cứu độ       17

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh---- 21

I. Nguồn gốc của tính luân lý------------------ 21

II. Hành vi tốt và hành vi xấu----------------- 23

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê-------------- 26

I. Các đam mê--------------------------------- 26

II. Các đam mê và đời sống luân lý----------- 27

Mục 6: Lương tâm--------------------------------- 29

I. Phán đoán của lương tâm------------------- 29

II. Việc huấn luyện của lương tâm------------- 31

III. Chọn lựa theo lương tâm------------------ 32

IV. Phán đoán sai lầm------------------------- 33

Mục 7: Các nhân đức------------------------------ 37

I. Các nhân đức nhân bản--------------------- 37

II. Các nhân đức Đối Thần--------------------- 41

III. Hồng ân và hoa trái của Thánh Thần------ 47

Mục 8: Tội lỗi-------------------------------------- 52

I. Lòng thương xót người tội lỗi---------------- 52

II. Định nghĩa tội lỗi--------------------------- 53

III. Các tội lỗi khác nhau---------------------- 54

IV. Mức độ nghiêm trọng của tội: tội trọng và tội nhẹ    55

V. Tội sinh sôi nảy nở-------------------------- 59

Chương hai: Cộng đồng nhân loại------------------- 63

Mục 1: Cá vị và xã hội---------------------------- 63

I. Tính cộng đồng của ơn gọi nhân linh-------- 63

II. Sự hối cải và xã hội------------------------ 66

Mục 2: Tham gia vào đời sống xã hội------------- 70

I. Quyền bính---------------------------------- 70

II. Công ích------------------------------------ 72

III. Trách nhiệm và sự tham gia--------------- 75

Mục 3: Công bằng xã hội-------------------------- 78

I. Tôn trọng nhân vị--------------------------- 78

II. Sự bình đẳng và những khác biệt giữa con người      79

III. Tình liên đới nhân loại--------------------- 81

Chương ba: Ơn  Cứu Độ của Thiên Chúa, lề luật và ân sủng 85

Mục 1: Luật luân lý------------------------------- 85

I. Luật luân lý tự nhiên------------------------ 87

II. Luật cũ------------------------------------- 90

III. Luật mới hay luật Tin Mừng--------------- 92

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hoá------------ 99

I. Sự công chính hoá--------------------------- 99

II. Ân sủng----------------------------------- 102

III. Công trạng------------------------------- 106

IV. Sự Thánh thiện của Kitô hữu------------- 109

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy------------------ 114

I. Đời sống luân lý và huấn quyền của Hội Thánh 115

II. Các điều răn Hội Thánh------------------- 118

III. Đời sống luân lý và chứng từ truyền giáo 119

 

 


Tủ Sách Giáo Lý