SÁCH GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
X
ĐỜI SỐNG
TRONG ĐỨC KITÔ
I
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
ĐOẠN THỨ NHẤT
ƠN GỌI
CỦA CON NGƯỜI
SỐNG
TRONG THẦN KHÍ
1699. Đời sống trong Thánh Khí hoàn thành ơn gọi của con người
(chương một). Đó là sống trong tình yêu mến Thiên Chúa và liên đới với mọi
người (chương hai). Đời sống này được trao ban cách nhưng không như ơn cứu độ
(chương ba).
CHƯƠNG
MỘT
PHẨM
GIÁ CỦA NHÂN VỊ
1700. Phẩm giá con người bắt nguồn từ việc con người được tạo dựng theo
hình ảnh và giống Thiên Chúa (Mục 1).
Phẩm giá này được hoàn thành trong ơn gọi đến hưởng vinh phúc thần linh (Mục 2). Trách nhiệm của con người là tự
nguyện hướng tới sự hoàn thành đó (Mục 3).
Bằng những hành vi có ý thức của mình (Mục
4), nhân vị sống phù hợp hay không phù hợp với điều thiện hảo mà Thiên Chúa
đã hứa và lương tâm chứng nhận (Mục 5).
Người ta tự xây dựng bản thân mình và tăng trưởng nội tâm: họ sử dụng toàn bộ
đời sống cảm và tinh thần của họ làm chất liệu cho sự tăng trưởng của mình (Mục 6). Nhờ ân sủng trợ giúp, họ tăng
trưởng về nhân đức (Mục 7), xa lánh
tội lỗi và nếu đã phạm tội, họ sẽ như người con hoang đàng (x.Lc 15,11-31), phó
thác cho lòng thương xót của Cha chúng ta trên Trời (Mục 8). Như vậy, con người đạt tới sự trọn hảo của đức mến.
MỤC 1:
CON
NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
1701. “Đức
Kitô,…chính khi mặc khải về mầu nhiệm Chúa Cha về tình yêu của Người, đã biểu
lộ cho con người cách rất đầy đủ về chính họ và cho họ thấy ơn gọi rất cao cả
của họ” (x. GS 22,1). Trong Đức Kitô “Thánh
Tử là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15) (x. 2Cr 4,4), con
người được tạo dựng theo hình ảnh và
giống như Đấng tạo hóa. Trong Đức Kitô. Đấng Cứu Chuộc và Cứu Độ, hình ảnh thần
linh, đã bị biến dạng nơi con người vì nguyên tội, nay được phục hồi trong vẻ
đẹp nguyên thủy của nó và còn được nên cao
trọng nhờ ân sủng của Thiên Chúa (x. GS, 2).
1702. Hình
ảnh thần linh hiện diện trong từng con người. Hình ảnh đó rực sáng trong sự
hiệp thông của các nhân vị, giống như sự
duy nhất giữa các Ngôi vị thần linh với nhau (x. chương hai).
1703. Được
phú ban một “linh hồn thiêng liêng và bất tử” (x. GS 14), nhân vị là “thụ tạo duy nhất nơi trần thế mà Thiên Chúa đã muốn vì chính nó” (x. GS 24,3).
Ngay từ lúc tượng thai của mình, nhân vị được định hướng tới vinh phúc vĩnh
cửu.
1704. Nhân vị được tham dự vào ánh sáng và sức mạnh của Thần
khí Thiên Chúa. Nhờ lý trí, nó có khả năng để hiểu biết trật tự muôn loài do
Đấng tạo hóa thiết lập. Nhờ ý chí, nó có khả năng để hướng mình tới điều thiện
hảo thật của mình. Nó theo đuổi sự trọn hảo của mình bằng cách tìm kiếm và yêu
mến những gì là thiện hảo đích thực” (x. GS 15,2).
1705. Vì có
linh hồn và các tài năng tinh thần là lý trí và ý chí, con người được phú ban
sự tự do, “là dấu chỉ tuyệt hảo của hình ảnh thần linh” (x. GS 17 )
1706. Nhờ
lý trí, con người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa thúc đẩy mình “làm điều tốt
và tránh điều xấu” (x.GS 16). Mỗi người phải vâng theo lề luật này, một lề luật
đang vang vọng trong lương tâm, một lề luật được chu toàn trong sự mến Chúa yêu
người. Việc thực thi đời sống luân lý chứng tỏ phẩm giá của nhân vị.
1707. “Tuy
nhiên, ngay từ lúc khởi đầu lịch sử, con người bị thần dữ cám dỗ, nên đã lạm
dụng tự do của mình” (x.GS 13,1). Họ đã sa chước cám dỗ làm điều xấu. Con người
vẫn còn khao khát điều tốt, nhưng bản tính con người đã mang vết thương của
nguyên tội. Con người trở thành bị nghiêng chiều về điều xấu và dễ bị sai lầm:
“Con người đã bị chia rẻ trong
chính bản thân mình. Vì vậy, toàn bộ đời sống con người, cả cá nhân tập thể,
đều biểu hiện như một cuộc chiến bi thảm, giữa điều tốt và điều xấu, giữa ánh
sáng và tối tăm” (x. GS 13,2).
1708. Bằng cuộc khổ nạn của Người, Đức Kitô đã giải thoát chúng
ta khỏi Satan và tội lỗi. Người lập công cho chúng ta có sự sống mới trong Chúa
Thánh Thần. Ân sủng của Người phục hồi những gì tội lỗi đã làm hư hỏng nơi
chúng ta.
1709. Ai tin
vào Đức Kitô thì trở nên con cái Thiên Chúa. Ơn được làm nghĩa tử này biến đổi
con người ấy, giúp họ sống theo mẫu gương Đức Kitô. Ơn này ban cho họ khả năng
hành động đúng đắn và thực thi điều tốt. Được kết hiệp với Đấng Cứu Độ của mình, người môn đệ
đạt tới sự trọn hảo của đức mến, là sự thánh thiện. Được hoàn thiện trong ân
sủng, đời sống luân lý sẽ được triển nở thành sự sống vĩnh cửu trong vinh quang Nước Trời.
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Nền tảng phẩm giá con người
là gì?
T. Phẩm giá
con người bắt nguồn trong việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống
Thiên Chúa. Được phú bẩm một linh hồn thiêng liêng và bất tử, lý trí và ý chí
tự do, con người được quy hướng về Thiên Chúa và được mời gọi hưởng hạnh phúc
vĩnh cửu cả hồn lẫn xác.
MỤC 2
ƠN GỌI
CHÚNG TA
LÀ ĐẾN
HƯỞNG VINH PHÚC
I. CÁC MỐI PHÚC
1716. Các mối
phúc là trung tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu. Việc công bố các mối phúc là
lặp lại các lời hứa đã được ban cho dân Chúa chọn khởi từ Tổ phụ Abraham. Các
mối phúc kiện toàn các lời hứa này bằng cách không còn chỉ hướng đến việc thừa
hưởng một mảnh đất nữa, nhưng là hướng đến Nước Trời.
“Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc
thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúa
thay ai sầu khổ,
vì họ
sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc
thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc
thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc
thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc
thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc
cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ
vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em
hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao”
(Mt 5,3-12).
1717. Các mối phúc phác họa dung mạo của Chúa Giêsu Kitô và mô tả tình yêu của Người. Chúng diễn
tả ơn gọi của các tín hữu, những người được đồng phận trong vinh quang của cuộc
khổ nạn và phục sinh của Người, chúng minh họa những hành động và thái độ đặc
trưng của đời sống Kitô giáo. Chúng là những lời hứa nghịch lý, nâng đỡ niềm hy
vọng trong những lúc gian truân. Chúng loan báo cho các môn đệ những phúc lành
và ân thưởng đã được quyết định tuy còn ẩn khuất. Chúng đã được khởi đầu trong
đời sống của Đức Trinh Nữ Maria và của tất cả các thánh.
II. KHAO KHÁT HẠNH PHÚC
1718. Các
mối phúc đáp ứng khao khát tự nhiên là được hạnh phúc. Khao khát này có nguồn
gốc thần linh. Thiên Chúa đã đặt niềm khao khát đó trong trái tim con
người để lôi kéo họ đến với Người, Đấng
duy nhất có thể làm thỏa mãn khát vọng này :
“Chắc chắn
mọi người chúng ta đều muốn sống hạnh phúc, và trong dòng giống loài người,
không ai không đồng ý điều này, cả trước khi nó được phát biểu cách rõ ràng”
(Thánh Augustino, luân lý Hội Thánh Công Giáo 1,3,4).
“Lạy Chúa, con phải tìm Chúa
thế nào? Quả thật khi con tìm Chúa là Thiên Chúa của con, là con tìm đời sống
hạnh phúc. Con muốn tìm Chúa để linh hồn con được sống. Vì thân xác con sống
nhờ linh hồn con và linh hồn con sống nhờ Chúa” (Thánh Augustino, tự thuật
10,29)
“Chỉ có Thiên Chúa mới làm no
thỏa” (Thánh Tôma Aquinô, kinh Tin Kính 1)
1719. Các mối phúc cho thấy mục tiêu của sự hiện hữu của đời
sống nhân linh: mục đích tối hậu của hành vi nhân linh: Thiên Chúa kêu gọi
chúng ta đến hưởng vinh phúc riêng của Người. Ơn gọi này được gửi cho từng người
một cách cá vị, nhưng cũng cho toàn Hội Thánh, là dân mới của những người đón
nhận lời hứa và sống trong lòng tin vào lời hứa đó.
III. VINH PHÚC KITÔ GIÁO
1720. Tân Ước
dùng nhiều kiểu nói để diễn tả vinh phúc mà Thiên Chúa kêu gọi con người đến
hưởng: sự ngự đến của Nước Thiên Chúa (x.Mt 4,17 ); sự nhìn thấy Thiên Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ
được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8); (x.1Ga 3,2; 1Cr 13,12 ); vào hưởng
niềm vui của Chúa (Mt 25,21.23 ); vào chốn an nghỉ của Thiên Chúa (Dt 4,7-11).
“Ở đó
chúng ta sẽ an nghỉ và chiêm ngắm, chúng ta sẽ chiêm ngắm và yêu mến, chúng ta
sẽ yêu mến và ca ngợi. Đó sẽ là cùng đích vô tận, vậy chúng ta còn có cùng đích
nào khác, nếu không phải đạt tới nước vô cùng vô tận”? (Thánh Augustino, Thành
Đô Thiên Quốc).
1721. Thiên
Chúa đã đặt chúng ta ở trần gian để chúng ta nhận biết Ngài, phục vụ Ngài, và
yêu mến Ngài để như vậy chúng ta đạt tới Thiên Đàng. Vinh phúc làm cho chúng ta
được thông phần bản tính Thiên Chúa (2 Pr 1,4) và sự sống muôn đời (x. Ga
17,3); Với vinh phúc này, con người bước vào trong vinh quang của Đức Kitô và
vào vui hưởng sự sống của Chúa Ba Ngôi.
1722. Vinh phúc như vậy vượt quá sự hiểu biết và sức lực
riêng của con người. Vinh phúc đó được ban do hồng ân nhưng không của Thiên
Chúa. Vì vậy, nó được gọi là siêu nhiên, cũng như ân sủng chuẩn bị con người
vào vui hưởng Thiên Chúa.
“Phúc thay những người có trái tim trong
sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa’. Nhưng vì sự cao cả và vinh
quang khôn tả của Ngài, nên ‘không ai trông thấy Ngài mà còn sống được’, tuy
nhiên, Chúa Cha là Đấng không thể đạt thấu. Do tình yêu và lòng nhân hậu của
Ngài, và bởi vì Ngài có thể làm được mọi sự, cũng đã ban cho những ai yêu mến
Ngài điều này, là được nhìn thấy Người. Vì ‘những gì đối với loài người là
không thể được thì đối với Thiên Chúa lại là có thể”. (Thánh Irênê, chống lạc
giáo 4,20,5).
1723. Vinh phúc được hứa ban đặt chúng ta trước những lựa chọn
luân lý có tính quyết định, vinh phúc đó mời gọi ta thanh luyện trái tim khỏi
những bản năng xấu và tìm kiếm tình yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự. Nó dạy
chúng ta biết rằng hạnh phúc thật không ở nơi của cải trần thế hoặc tiện nghi,
cũng không phải trong vinh quang nhân loại hay quyền lực, cũng không phải trong
công trình nhân loại nào, cho dù là hữu ích, như khoa học kỹ thuật và nghệ
thuật, cũng không ở trong bất cứ tạo vật nào, nhưng duy chỉ ở nơi Thiên Chúa,
là nguồn mạch mọi điều thiện hảo và mọi tình yêu:
“Ngày nay,
giàu sang là vị thần vĩ đại, nhiều người, hàng lớp người tự nguyện sùng bái vị
thần này. Họ đo lường hạnh phúc bằng tài sản; họ đo lường cả sự đáng kính cũng
bằng tài sản....điều đó phát sinh do sự xác tín của chúng ta: theo đó thì có
tiền mọi sự đều có thể. Vì vậy giàu sang là một trong những ngẫu tượng của thời
đại ngày nay, và danh tiếng là một ngẫu tượng khác.....Danh tiếng, được người
ta biết đến, có tiếng tăm ở trần gian,
đưa đến chỗ chính danh được coi là điều thiện hảo, là điều thiện hảo cao cả, là
đối tượng cho người ta kính trọng… đó có thể được coi là sự nổi tiếng trên báo
chí” (Newman, diễn văn về sự thánh thiện, 5 ).
1724. Mười điều răn, Bài giảng trên núi và giáo lý của các Tông Đồ
mô tả cho chúng ta những con đường dẫn đến Nước Trời. Chúng ta tiến từng bước
trên những con đường này qua những hành vi hằng ngày. Được nâng đỡ bởi ân sủng
của Chúa Thánh Thần. Được sinh sôi nảy nở bằng lời Đức Kitô, chúng ta từ từ
mang lại hoa trái trong Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa (x.dụ ngôn người gieo
giống Mt 13,3-23).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Làm
thế nào con người đạt tới hạnh phúc ?
T. Con người
đạt được diễm phúc nhờ ân sủng của Đức Kitô, ân sủng này cho họ được tham dự
vào đời sống của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Kitô chỉ cho các môn đệ của
mình con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu: đó là các Mối Phúc. Ân sủng của Đức
Kitô cũng hoạt động trong tất cả những ai, dựa theo lương tâm ngay thẳng, tìm
kiếm và yêu mến chân lý và điều thiện, và tránh điều ác.
2. Tại
sao các Mối Phúc lại quan trọng đối với chúng ta?
T. Các Mối Phúc nằm ở trung tâm lời rao giáng của Chúa Giêsu, nhắc
lại và hoàn thành các lời hứa mà Thiên Chúa đã trao ban từ thời ông Abraham.
Các Mối Phúc phát hoạ chính diện mạo của Chúa Giêsu, nêu lên những đặc tính
đích thực của đời sống người Kitô hữu và mạc khải cho con người cùng đích hoạt
động của họ: đó là hạnh phúc đời đời.
3. Đâu
là mối liên hệ giữa các Mối Phúc và lòng khao khát hạnh phúc của con người?
T. Các Mối Phúc đáp lại lòng khao khát bẩm sinh về hạnh phúc mà
Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn con người, để lôi kéo họ về với Ngài và chỉ
mình Ngài mới có thể lấp đầy lòng khao khát ấy.
4. Hạnh
phúc đời đời là gì?
T. Đó là việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu, ở
đó chúng ta sẽ được trọn vẹn “thông
phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thông phần vinh quang của Đức Kitô
và niềm vui của đời sống Ba Ngôi. Hạnh phúc đời đời vượt quá khả năng của con
người. Đó là một hồng ân siêu nhiên và Thiên Chúa ban không, cũng như ân sủng
dẫn đưa chúng ta đến đó. Hạnh phúc được hứa ban đặt chúng ta trước những lựa
chọn luân lý có tính quyết định về của cải trần thế, thúc đẩy chúng ta yêu mến
Thiên Chúa trên hết mọi sự.
MỤC 3
SỰ TỰ
DO CỦA CON NGƯỜI
1730. Thiên Chúa đã tạo dựng con người có lý trí khi ban cho họ
phẩm giá của một ngôi vị có khả năng khởi xướng và điều khiển các hành vi của
mình. “Thiên Chúa đã muốn con người tự quyết định lấy, để chính họ tự nguyện
tìm kiếm Đấng Tạo hóa của mình và tự do đạt tới sự hoàn hảo sung mãn và hạnh
phúc bằng việc kết hợp với Người” (x. GS 17).
“Con người
có lý trí, và do đó giống như Thiên Chúa; con người được dựng nên có tự do
trong sự quyết định và có quyền trên chính mình” (Thánh Irênê, chống lạc giáo
4,4,3).
I. TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM
1731. Tự do
là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí, có thể hành động hay không hành động,
có thể làm việc này hoặc việc khác; và như vậy, tự mình làm những hành động có
ý thức. Nhờ có ý chí tự do, mỗi người tự quyết định về chính bản thân mình.
Trong con người sự tự do là sức mạnh để tăng trưởng và trưởng thành trong chân
lý và điều thiện. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo khi nó được quy hướng về Thiên
Chúa, là vinh phúc của chúng ta.
1732. Bao lâu
sự tự do chưa được xác định cách vĩnh viễn nơi sự thiện tối thượng là Thiên
Chúa, thì nó vẫn còn có khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu; nghĩa là
có thể tiến tới sự trọn hảo hoặc có thể sai lỗi và phạm tội. Tự do là nét đặc
trưng của hành vi nhân linh. Tự do là nguồn mạch để được ca tụng, hoặc bị khiển
trách, nguồn mạch của công trạng hoặc tội trạng.
1733. Ai càng làm điều tốt, người đó càng trở nên tự do. không
có tự do đích thực nếu không phục vụ điều thiện và chân lý. Chọn sự bất tuân và
điều xấu, là lạm dụng tự do và sự lựa chọn này đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội
lỗi (x.Rm 6,17).
1734. Vì có
tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ các
hành vi này do chính họ muốn. Sự tiến tới về nhân đức, sự nhận biết điều thiện,
và sự khổ chế làm gia tăng việc làm của ý chí đối với các hành vi của mình.
1735. Việc
quy tội và trách nhiệm của một hành động nào đó có thể được giảm thiểu và thậm
chí được loại bỏ vì lý do không biết, không chủ ý, do áp lực, do sợ hãi, do
thói quen, do quá gắn bó, do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội.
1736. Mọi
hành vi được muốn cách trực tiếp đều trách nhiệm về tác giả hành vi đó:
Chẳng hạn, Chúa hỏi ông Ađam sau khi ông
phạm tội trong vườn địa đàng, “Ngươi đã làm gì thế:?” (St 3,13). Cũng
một cách đó Chúa hỏi Cain (x.St 4,10). Tiên tri
Nathan cũng hỏi như vậy với vua Đavít. Sau khi Vua phạm tội ngoại tình với vợ Uria và ra lệnh giết
ông này. (x. 2V 12,7-15)
Một hành vi có thể chủ
ý cách gián tiếp, khi nó là hậu quả của sự chểnh mảng đối với điều phải biết
hay phải làm; ví dụ: gây ra một tai nạn vì không biết luật giao thông.
1737. Một
hậu quả, do tác giả không chủ ý gây nên, có thể được dung thứ; ví dụ: người mẹ
bị kiệt sức vì chăm sóc đứa con đau yếu. Một hậu quả xấu sẽ không bị quy lỗi
nếu nó không phải là mục đích hay phương tiện của một hành động cố ý; ví dụ:
một người bị thiệt mạng vì cứu người đang gặp nguy hiểm. Để một hậu quả xấu bị
quy tội, hậu quả này phải có thể được thấy trước và tác giả có khả năng tránh
được hậu quả đó; ví dụ: trường hợp làm chết người do lái xe trong tình trang
say rượu.
1738. Sự tự
do được thực thi trong các tương quan giữa người với người. Mỗi nhân vị được
tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, có quyền tự nhiên được công nhận như một hữu
thể tự do và có trách nhiệm. Mọi người có bổn phận tôn trọng quyền đó của mỗi
người. Quyền sử dụng tự do là một đòi hỏi không thể tách biệt khỏi phẩm giá
nhân vị, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo. Quyền này phải được luật
dân sự công nhận và bảo vệ, trong giới hạn của công ích và trật tự công cộng
chính đáng. (x. CĐ Vaticano II Dignitatis hummanae: 7 AAS 58 (1966) 934-935)
II. SỰ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
TRONG NHIỆM CỤC CỨU ĐỘ
1739. Sự tự
do và tội lỗi. Sự tự do của con người thì có giới hạn và có thể lầm lạc. Quả
thật, con người đã sa ngã, con người đã phạm tội cách tự do. Khi từ chối kế
hoạch yêu thương của Thiên Chúa, con người đã tự lừa dối mình và trở thành nô
lệ của tội lỗi. Sự tha hóa đầu tiên này đã sinh ra nhiều sự tha hóa khác. Lịch
sử nhân loại, ngay từ những lúc khởi
đầu, làm chứng rằng những tai họa và áp bức phát sinh từ trái tim con người,
như một hậu quả của việc sử dụng sai tự do.
1740. Những
nguy hiểm đe dọa sự tự do. Việc thực thi sự tự do không bao hàm quyền được nói
mọi sự và làm mọi sự. Thật là sai lầm khi cho rằng “con người một chủ thể tự do, là một cá nhân tự đủ cho
mình, và mục tiêu tối hậu của cá nhân đó, là thỏa mãn các sở thích của mình bằng
cách hưởng thụ các của cải trần thế” (CDF, tự do tín ngưỡng). Ngoài ra, những
điều kiện về trật tự kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa phải có để thực
thi tự do cách chính đáng, rất thường không được biết tới và bị vi phạm. Những
tình trạng đen tối và bất công này làm băng hoại đời sống luân lý và cám dỗ kẻ
mạnh cũng như người yếu phạm tội nghịch đức ái. Con người khi tách biệt khỏi
luật luân lý, làm thương tổn sự tự do riêng của mình, tự trói buộc mình, cắt
đứt tình huynh đệ với đồng loại và nổi loạn chống lại chân lý thần linh.
1741. Sự
giải thoát và cứu độ. Đức Kitô nhờ thập giá vinh quang của Ngài, đã mang lại ơn
cứu độ cho tất cả mọi người. Người cứu
chuộc họ khỏi tội lỗi đang cầm giữ họ làm nô lệ. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta”
(Gl 5,1). Trong Người, chúng ta được hiệp thông với “chân lý giải thoát” (Ga
8,32). Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta và như thánh tông đồ dạy: “Ở đâu có Thần Khí của Chúa thì ở đó có tự do”
(2Cr 3,17). Ngay từ bây giờ, chúng ta được
vinh dự về “Sự tự do của con cái Thiên
Chúa” (Rm 8,21).
1742. Sự tự
do và ân sủng. Ân sủng của Đức Kitô không hề đối nghịch với sự tự do của
chúng ta, khi sự tự do này phù hợp với ý nghĩa của chân lý và điều thiện mà
Thiên Chúa đã đặt trong trái tim con người. Trái lại, như kinh nghiệm Kitô giáo
chứng tỏ, nhất là trong việc cầu nguyện: chúng ta càng ngoan ngoãn đối với
những thúc đẩy của ân sủng, thì càng gia tăng sự tự do nội tâm của chúng ta và
sự vững vàng của chúng ta trong các thử thách, cũng như trước những áp lực, và
cưỡng bách của thế giới bên ngoài. Bằng tác động của ân sủng, Chúa Thánh Thần
giáo dục chúng ta về sự tự do thiêng liêng để chúng ta trở thành những cộng sự
viên tự nguyện cho công trình của Ngài trong Hội Thánh và trong trần gian :
“Lạy Thiên
Chúa toàn năng và nhân hậu, xin đẩy xa những gì cản bước tiến của chúng con
trên đường về với Chúa, để một khi xác
hồn thanh thản, chúng con được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa” (x.SLMR, Lời
nguyện CN 32).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Tự
do là gì?
T. Tự do là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để hành động hay
không hành động, để làm việc này hay làm việc khác, và như vậy, tự mình làm
những hành động có ý thức. Tự do là nét đặc trưng của các hành vi nhân linh.
Càng làm điều thiện, người ra càng tự do hơn. Tự do hướng đến sự hoàn hảo khi
quy hướng về Thiên Chúa, Đấng là sự thiện tối thượng và là hạnh phúc của chúng
ta. Tự do cũng bao hàm khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu. Sự lựa chọn
điều xấu là một lạm dụng tự do, đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội lỗi.
2. Đâu
là mối tương quan giữa tự do và trách nhiệm?
T. Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của
mình theo mức độ các hành vi này do chính họ muốn, cả khi việc quy trách và
trách nhiệm về một hành động có thể bị giảm thiểu hoặc đôi khi bị loại bỏ, vì
lý do không biết, không chú ý, do áp lực, do sợ hãi, do quá gắn bó, hoặc do các
thói quen.
3. Tại
sao mọi người có quyền thực thi tự do của mình?
T. Mỗi người đều có quyền sử dụng tự do của mình, vì tự do không
thể tách rời khỏi phẩm giá con người. Vì thế, quyền này phải luôn được tôn
trọng, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo. Quyền tự do này phải được
quyền bính dân sự công nhận và bảo vệ, trong các giới hạn của công ích và trật
tự công cộng chính đáng.
4. Sự
tự do của con người có chỗ đứng nào trong kế hoạch cứu độ?
T. Sự tự do của chúng ta bị suy yếu vì tội nguyên tổ. Sự suy yếu
này càng trầm trọng hơn vì các tội lỗi sau đó. Nhưng “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta”
(Gl 5,1). Nhờ ân sủng của Người, Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đến sự tự
do thiêng liêng, để làm cho chúng ta thành những cộng tác viên tự do của Người,
trong Hội Thánh và trong thế giới.
MỤC 4
TÍNH
LUÂN LÝ CỦA CÁC HÀNH VI NHÂN LINH
1749. Sự tự
do làm cho con người thành một chủ thể luân lý. Con người khi hành động một
cách có chủ ý, có thể nói được là cha đẻ các hành vi của mình. Các hành vi nhân
linh, nghĩa là đã được lựa chọn cách tự do theo phán đoán của lương tâm, đều có
tính luân lý: chúng là những hành vi tốt hoặc xấu.
I. NGUỒN GỐC CỦA TÍNH LUÂN LÝ
1750. Tính
luân lý của các hành vi nhân linh tùy thuộc vào:
- Đối tượng được lựa chọn;
- Mục đích nhắm tới hoặc ý
hướng;
- Các hoàn cảnh của hành động.
Đối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh tạo nên
các “nguồn mạch”, còn gọi là các yếu tố cấu thành, của tính luân lý của các
hành vi nhân linh
1751. Đối tượng được lựa chọn là một điều thiện được ý chí
chủ ý nhắm tới. Đó là chất liệu của hành vi nhân linh. Đối tượng được lựa chọn
xếp loại hành vi của ý chí về mặt luân lý, theo lý trí nhận biết và phán đoán
đối tượng ấy phù hợp hay không phù hợp với điều thiện đích thực. Những quy tắc
khách quan của tính luân lý vạch cho thấy trật tự hợp lý về điều tốt và điều
xấu, một trật tự được lương tâm xác nhận.
1752. Đối
diện với đối tượng, ý hướng thuộc ở về phía chủ thể hành động. Ý hướng từ nguồn
mạch chủ ý của một hành động và xác định hành động đó nhờ mục đích, nên nó là
một yếu tố căn bản trong việc đánh giá tính luân lý của hành động. Mục đích là
điểm đầu tiên của ý hướng, và đưa ra mục tiêu mà hành động theo đuổi. Ý hướng
là động thái của ý chí hướng đến mục đích, nhắm đến đích điểm của hành động, ý
hướng là việc nhắm tới điều thiện được mong đợi khi bắt đầu hành động. Ý hướng
không bị thu hẹp vào việc định hướng cho từng hành động riêng lẻ, nhưng có thể
quy hướng nhiều hành động nhắm đến cùng một mục tiêu. Ý hướng đó có thể định
hướng cả cuộc đời nhắm đến mục đích tối hậu. Chẳng hạn: một việc phục vụ có mục
đích là giúp đỡ người lân cận, nhưng đồng thời nó có thể được linh hướng bởi
tình yêu Thiên Chúa xét như một mục đích tối hậu của mọi hành động của chúng
ta. Cùng một hành động cũngcó thể được gợi hứng do nhiều ý hướng, như phục vụ
để nhận một đặc ân hoặc để khoe khoang.
1753. Một ý
hướng tốt (ví dụ: giúp đỡ người lân cận) không thể làm cho một hành động tự nó
là sai trái (như nói dối, nói xấu), trở thành tốt hay đúng. Mục đích không biện
minh cho phương tiện. Như thế, việc kết án một người vô tội không thể được biện
minh như phương tiện hợp pháp để cứu dân. Trái lại, một ý hướng xấu được thêm
vào (như tìm hư danh x. Mt 6,2-4) có thể làm cho một hành vi tự nó có thể là
tốt (như bố thí trở thành xấu).
1754. Các
hoàn cảnh, gồm cả những hậu quả, là những yếu tố phụ thuộc của một hành vi luân
lý. Chúng góp phần làm gia tăng hay giảm thiểu tính chất tốt hay xấu về mặt
luân lý của những hành vi nhân linh (Ví dụ: số lượng của vụ cắp nào đó), Chúng
cũng có thể giảm thiểu hay gia tăng trách nhiệm của tác giả (như hành động vì
sợ chết). Tự chúng, các hoàn cảnh không thể thay đổi phẩm chất luân lý của
chính các hành vi. Chúng không thể làm cho một hành vi tự nó là xấu, trở nên
tốt hay đúng.
II. HÀNH VI TỐT VÀ HÀNH VI XẤU
1755. Một
hành vi tốt về mặt luân lý đồng thời giả thiết đối tượng, mục đích và các hoàn
cảnh đều phải tốt. Mục đích xấu làm hư hoại hành động, mặc dù đối tượng của
hành động tự nó là tốt (như cầu nguyện
và ăn chay như là “để người khác trông
thấy”).
Đối tượng được lựa chọn có thể mình nó làm
cho toàn bộ hành động trở nên xấu. Có những hành động cụ thể, như tội tà dâm,
mà việc lựa chọn chúng luôn luôn là sai lầm, bởi vì việc lựa chọn chúng đã bao
hàm một sự lệch lạc của ý chí, nghĩa là một điều xấu luân lý.
1756. Vì vậy, là sai lầm, nếu thẩm định tính luân lý của các
hành vi nhân linh mà chỉ quan tâm đến ý hướng gợi hứng cho các hành vi đó các
hoặc hoàn cảnh như là “sân khấu” của các hành vi đó (môi trường, áp lực xã hội,
cưỡng bách hoặc nhu cầu phải hành động....). Có những hành vi tự nó và trong
nó, hoàn toàn độc lập khỏi các hoàn cảnh và các ý hướng, luôn là bất hợp pháp
một cách nghiêm trọng do đối tượng của chúng; chằng hạn lộng ngôn, thề gian,
sát nhân và ngoại tình. Không được phép làm điều xấu, để từ đó đạt tới điều
tốt.
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Đâu
là nguồn gốc tính chất luân lý của các hành vi nhân linh?
T. Tính chất luân lý của các hành vi nhân linh dựa trên ba nguồn:
- Đối
tượng được lựa chọn, nghĩa là một điều thiện đích thực hay có vẻ như thế.
- Ý
hướng của chủ thể hành động, nghĩa là mục đích khiến cho chủ thể hành
động.
- Các
hoàn cảnh của hành động, bao gồm cả các hậu quả của hành động.
2. Khi
nào hành vi là tốt xét về phương diện luân lý?
T. Xét về phương diện luân lý, hành vi là tốt khi đồng thời đối
tượng, ý hướng và các hoàn cảnh đều tốt. Đối tượng được chọn có thể tự nó có
thể làm cho hành vi trở thành xấu, dù có ý hướng tốt. Không được phép làm một
điều xấu để đạt được một điều tốt. Một mục đích xấu có thể làm cho hành vi ra
xấu cho dù đối tượng tự nó là tốt. Ngược lại, một mục đích tốt không thể làm
cho một hành động mà đối tượng của nó là xấu, trở thành tốt được, vì mục đích
không biện minh cho các phương tiện. Các hoàn cảnh có thể làm giảm thiểu hay
gia tăng trách nhiệm của tác giả hành vi, nhưng chúng không thể làm thay đổi
phẩm chất luân lý của chính các hành vi. Các hoàn cảnh không bao giờ làm cho
một hành vi tự nó là xấu trở thành tốt được.
3. Có
phải có những hành vi luôn luôn không được phép làm hay không?
T. Có những
hành vi luôn luôn là không được phép lựa chọn, vì đối tượng của chúng (chẳng
hạn lộng ngôn, giết người và ngoại tình). Việc lựa chọn những hành vi này bao
hàm một sự lệch lạc của lòng muốn, nghĩa là một điều xấu luân lý; điều xấu này
không thể biện minh bằng việc xét đến những hậu quả tốt có thể phát xuất từ đó.
MỤC 5
TÍNH
LUÂN LÝ CỦA CÁC ĐAM MÊ
1762. Nhân vị
được quy hướng tới vinh phúc nhờ những hành vi chủ ý của mình: các đam mê hay
tình cảm mà nó cảm nghiệm, có thể chuẩn bị và góp phần giúp nó đạt tới vinh
phúc đó.
I. CÁC ĐAM MÊ
1763. Thuật
ngữ “các đam mê” nằm trong di sản Kitô giáo. Các tình cảm hay đam mê là những
cảm xúc, những chuyển biến hay những rung động của sự nhạy cảm, chúng thúc đẩy
con người hành động hay không hành động, theo điều được cảm nhận hay tưởng
tượng là tốt hoặc xấu.
1764. Các đam
mê là những yếu tố tự nhiên của tâm lý con người. Chúng tạo thành nơi chuyển
tiếp và bảo đảm mối liên kết giữa đời sống cảm giác và đời sống tinh thần.
Chúng ta coi trái tim con người như là nguồn mạch từ đó phát xuất các chuyển
biến của đam mê (x. Mc 7,21).
1765. Có
nhiều thứ đam mê. Đam mê căn bản nhất là tình yêu được gợi lên do sự hấp dẫn
của điều thiện. Tình yêu gây nên sự khao khát điều thiện mình chưa có và niềm
hy vọng đạt được điều thiện đó. Động thái này được hoàn thành trong việc thưởng
thức điều thiện đã sở hữu và trong sự vui mừng về điều thiện đó. Sự hiểu biết
điều ác, gây lên lòng thù ghét, ghê tởm và sợ hãi điều ác sắp đến. Động thái
này được hoàn thành trong sự buồn sầu khi điều ác hiện diện, và trong sự phẫn
nộ chống lại điều ác đó.
1766. “Yêu là muốn điều tốt
cho ai đó”. (Thánh Tôma Aquinô, Tổng
Luận Thần Học 1-2, 26,4). Tất cả những
tình cảm khác đều bắt nguồn từ động thái gốc này của trái tim con người
về điều tốt. Không gì khác được yêu mến trừ điều tốt (Thánh Augustino, Chúa Ba
Ngôi 8,3,4). “Vì vậy các tình cảm là xấu, nếu là tình yêu xấu, các tình cảm là
tốt nếu tình yêu tốt” (Thánh Augustino, Thành Đô Thiên Quốc 14,7).
II. CÁC ĐAM MÊ VÀ ĐỜI SỐNG LUÂN
LÝ
1767. Các đam mê tự chúng thì không tốt cũng không xấu. Chúng
được đánh giá về mặt luân lý tùy thật sự vào lý trí hoặc ý chí. Các đam mê được
coi là có chủ ý “hoặc khi chúng được điều khiển bởi ý chí hoặc chúng không bị
ngăn cản bởi ý chí (T.Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học 1-2,24,1). Muốn đạt tới
sự hoàn hảo của điều thiện về mặt luân lý hay nhân linh, các đam mê phải được
điều khiển bởi lý trí.
1768. Những
cảm giác mạnh mẽ của tâm hồn không quyết định tính luân lý hay sự thánh thiện
của các nhân vị; chúng chỉ là kho chứa vô tận những hình ảnh và tình cảm trong
đó đời sống luân lý được diễn tả. Về mặt luân lý, các đam mê là tốt khi đưa đến
một hành động tốt, và xấu trong trường hợp ngược lại. Ý chí ngay thẳng quy hướng các động thái giác quan, mà nó đảm nhận về
điều tốt và về vinh phúc, còn ý chí xấu ngả theo các đam mê hỗn loạn và làm cho
chúng thêm tồi tệ. Các cảm xúc và cảm giác có thể được thăng hoa thành các nhân
đức, hoặc bị thoái hóa thành các thói xấu.
1769. Trong
đời sống Kitô hữu, chính Chúa Thánh Thần kiện toàn công trình của Ngài, khi
động viên toàn bộ nhân vị, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền của họ,
như ta thấy trong cơn hấp hối và cuộc khổ nạn của Chúa. Trong Đức Kitô, những
tình cảm nhân loại có thể được hoàn tất trong đức mến và vinh phúc thần linh.
1770. Sự
trọn hảo về mặt luân lý là con người được động viên hướng tới điều thiện không
những bằng ý chí của mình mà còn sự thích thú giác quan nữa, theo như lời thánh vịnh: “Cả tấm thân con cùng là tấc dạ, những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà
hớn hở reo mừng” (Tv 84,3)
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Các
đam mê là gì?
T. Đam mê là những cảm xúc,
những chuyển biến hay những rung động của sự nhạy cảm, đó là những yếu tộ tự
nhiên của tâm lý con người, chúng thúc đẩy con người hành động hay không hành
động, theo điều được cảm nhận là tốt hoặc xấu. Những đam mê căn bản là yêu và
ghét, ước muốn hoặc sợ hãi, vui buồn và phẫn nộ. Đam mê quan trọng nhất là tình
yêu, được hấp dẫn bởi điều thiện. Người ta chỉ yêu điều thiện hảo, hoặc là điều
thiện hảo thực sự hoặc là điều người ta tưởng là thiện hảo.
2. Xét
về khía cạnh luân lý, đam mê là tốt hay xấu?
T. Vì là những rung động của sự nhạy cảm, đam mê tự chúng không
tốt cũng chẳng xấu. Đam mê tốt khi đưa đến những hành động tốt, và là xấu trong
trường hợp nghịch lại. Các đam mê có thể được thăng hoa thành các nhân đức hay
thoái hoá thành các thói xấu.
MỤC 6
LƯƠNG
TÂM
1776. “Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà
chính con người không tự đặt ra cho mình, nhưng con người vẫn phải tuân theo lề
luật đó. Tiếng nói của lề luật đó luôn luôn kêu gọi con người yêu mến và làm
điều tốt cũng như tránh điều xấu. Vào lúc cần thiết tiếng nói ấy âm vang lên
trong trái tim con người... Quả thật, con người có một lề luật được Thiên Chúa
khắc ghi trong trái tim họ. Lương tâm là hạt nhân bí ẩn nhất và là cung thánh
của con người; nơi đây con người ở một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của
Ngài vang dội trong thẳm sâu lòng họ” (GS 16).
I. PHÁN ĐOÁN CỦA LƯƠNG TÂM
1777. Lương
tâm hiện diện trong trái tim của nhân vị (x. Rm 2, 14-16), ra lệnh cho nó vào
đúng lúc phải làm lành lánh dữ. Lương tâm cũng phán đoán các lựa chọn cụ thể là
chuẩn y những lựa chọn tốt, phản đối những lựa chọn xấu (x.Rm 1, 32). Lương tâm
chứng nhận thẩm quyền về chân lý liên quan đến Đấng là sự thiện tối thượng, mà
nhân vị cảm nghiệm được sự lôi kéo của Ngài và đón nhận các lệnh truyền của
Ngài. Người khôn ngoan khi nghe tiếng lương tâm, có thể nghe tiếng Thiên Chúa
nói.
1778. Lương
tâm là một phán đoán của lý trí; nhờ đó, nhân vị nhận thức được phẩm chất luân
lý của một hành vi cụ thể mình sắp làm, đang làm hay đã làm, con người, trong
mọi điều mình nói hoặc làm, buộc phải trung thành theo điều mình biết là chính
đáng và trung thực. Con người, nhờ phán đoán lương tâm của mình, cảm thấy và
nhận biết những quy định của lề luật thần linh.
“Lương tâm là một lề luật của
tinh thần chúng ta, nhưng lại vượt quá tinh thần chúng ta, nó đưa ra cho chúng
ta những quy định, nó nói lên trách nhiệm và bổn phận, sự sợ hãi và niềm hy
vọng. Lương tâm là sứ giả của Đấng, trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật
tự ân sủng, nói với chúng ta sau một bức màn, dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta.
Lương tâm là vị đại diện của Đức Kitô” (Newman, thư gởi quận công Norfolk )
1779. Điều
quan trọng là mỗi người phải hiện diện với chính mình, để lắng nghe và tuân
theo tiếng lương tâm của mình. Sự đòi hỏi sống nội tâm rất cần thiết, vì đời
sống thường dẫn chúng ta đến nguy cơ là chúng ta bị lôi kéo khỏi mọi suy tư,
kiểm điểm hay hồi tâm:
“Bạn hãy quay về với lương tâm
của bạn, hãy tự vấn lương tâm....thưa anh em, hãy quay về với nội tâm và trong
mọi sự anh em làm, hãy nhìn lên chứng nhân là Thiên Chúa”. ( T. Augustino)
1780. Phẩm
giá của nhân vị bao hàm và đòi hỏi sự ngay chính của lương tâm. Lương tâm gồm
có việc nhận thức các nguyên tắc luân lý việc áp dụng các nguyền tắc vào những
hoàn cảnh cụ thể nhờ phân định thực tiễn các lý lẽ và các lợi ích, và cuối cùng
việc phán đoán về các hành vi cụ thể phải làm hay đã làm. Chân lý về điều thiện
luân lý, đã được lý trí nêu lên, được nhận biết cách thực tiễn và cụ thể nhờ
phán đoán khôn ngoan của lương tâm. Người chọn theo phán đoán này được gọi là
kẻ khôn ngoan.
1781. Lương
tâm cho phép đảm nhận trách nhiệm về những hành vi đã thực hiện. Nếu con người
làm điều xấu, phán đoán ngay chính của lương tâm nơi người đó có thể là chứng
nhân cho chân lý phổ quát của điều tốt, đồng thời cũng là chứng nhân cho sự xấu
xa của việc lựa chọn riêng của người đó. Án lệnh do phán đoán của lương tâm
cũng là bảo chứng cho niềm hy vọng và lòng thương xót. Khi xác nhận lỗi lầm đã
phạm, lương tâm nhắc nhở chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ, phải làm điều tốt và
phải không ngừng vun trồng nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa:
“Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên
Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn
lòng chúng ta,và Người biết hết mọi sự” (1Ga 3,19-20)
1782. Con người có quyền hành động cách tự do theo lương tâm,
để có thể đảm nhận những quyết định luân lý một cách cá vị. “Không được cưỡng
bức ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành
động theo lương tâm, nhất là trong vấn đề tôn
giáo” (DH 3)
II. VIỆC HUẤN LUYỆN LƯƠNG TÂM
1783. Lương
tâm phải được trở nên vững chắc hơn và phán đoán luân lý phải được soi sáng.
Một lương tâm được huấn luyện tốt thì ngay chính và chân thật. Nó sẽ đưa ra
những phán đoán theo lý trí, phù hợp với điều thiện đích thực mà Đấng sáng tạo
khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm là cần thiết cho con người, vì họ đang
bị chi phối bởi các ảnh hưởng tiêu cực và bị cám dỗ bởi tội lỗi, nên thích làm
theo ý riêng hơn và khước từ những đạo lý được đưa ra một cách có thẩm quyền.
1784. Việc
giáo dục lương tâm là nhiệm vụ của cả cuộc đời. Ngay từ những năm đầu tiên,
việc giáo dục gợi lên cho trẻ em sự nhận biết và thực hành luật nội tâm đã được
lương tâm công nhận. Một nền giáo dục khôn ngoan dạy nhân đức, đề phòng và chữa
lành con người khỏi sợ hãi, khỏi yêu mình cách mù quáng (tính ích kỷ) và khỏi
kiêu căng, khỏi những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, phát sinh từ sự yếu đuối và những lỗi lầm của con
người. Việc giáo dục lương tâm bảo đảm cho sự tự do và tạo nên sự bình an trong
trái tim.
1785. Trong việc
huấn luyện lương tâm, Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Chúng ta
phải thấm nhuần Lời Chúa vào trong đức tin, và kinh nguyện, và phải đem ra thực
hành; chúng ta cũng phải kiểm điểm lương tâm bằng cách nhìn lên Thập Giá của
Chúa; các hồng ân của Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta, chúng ta còn được giúp
đỡ bởi lời chứng và lời khuyên nhủ những người khác và được hướng dẫn bởi đạo
lý của Hội Thánh được đưa ra một cách có thẩm quyền (DH 14).
III. CHỌN LỰA THEO LƯƠNG TÂM
1786. Lương
tâm đứng trước một chọn lựa luân lý, có thể đưa ra, hoặc một phán đoán ngay
chính phù hợp với lý trí và lề luật thần linh, hoặc trái lại, một phán đoán sai
lầm, xa rời lý trí và lề luật thần linh.
1787. Con
người đôi khi gặp những hoàn cảnh làm cho phán đoán luân lý không được chắc
chắn và khó quyết định. Tuy nhiên, họ phải luôn tìm kiếm điều đúng và điều tốt,
và phân định ra thánh ý của Thiên Chúa được diễn tả trong lề luật thần linh.
1788. Để đạt
được điều này, con người phải cố gắng giải thích các dữ kiện của kinh nghiệm và
các dấu chỉ của thời đại, nhờ đức khôn ngoan, nhờ những lời khuyên bảo của
những người khôn ngoan và nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và của các hồng ân
của Ngài.
1789. Một số quy tắc được áp dụng trong mọi trường hợp:
- Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt tới một điều tốt.
- Khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn
người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” ( Mt 7,12; x.
Lc 6,31;Tb 4,15).
- Đức
mến luôn đòi hỏi tôn trọng người lân cận và lương tâm của họ. “như vậy phạm đến anh em và làm thương tổn
lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Kitô” (1Cr 8,12). “Tốt nhất là tránh những gì gây cớ cho anh em
mình vấp ngã” (Rm 14,21).
IV. PHÁN ĐOÁN SAI LẦM
1790. Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của
lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán đó, con người tự kết
án chính mình. Nhưng có thể lương tâm ở trong tình trạng thiếu hiểu biết và đưa
ra những phán đoán sai lầm về các hành vi phải làm hoặc đã làm.
1791. Sự thiếu hiểu biết này thường có thể được quy cho trách
nhiệm cá vị. Điều đó xảy ra: “khi con người ít lo tìm kiếm điều thật và điều
tốt, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm hầu như bị mù quáng” (x.GS
16). Trong các trường hợp đó, nhân vị bị quy tội vì điều xấu nó đã làm.
1792. Sự
thiếu hiểu biết Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài, các gương xấu của kẻ khác, sự nô
lệ các đam mê; việc đòi hỏi một sự tự lập hiểu theo nghĩa xấu về lương tâm,
việc khước từ thẩm quyền và đạo lý của Hội Thánh, sự thiếu hối cải và bác ái có
thể là nguồn gốc của những lệch lạc của phán đoán trong thái độ luân lý.
1793. Trái lại, nếu sự thiếu hiểu biết không thể vượt thắng
được, hoặc nếu phán đoán sai lạc không do trách nhiệm của chủ thể luân lý, thì nhân vị không thể bị
qui tội về điều xấu nó đã làm. Tuy nhiên, điều xấu ấy vẫn là điều xấu, một
khiếm khuyết, một sự vô trật tự. Vậy cần
thiết là phải làm sao để lương tâm được sửa chữa khỏi những sai lầm của nó.
1794. Lương
tâm tốt và trong sạch được soi sáng bởi đức tin chân chính, vì đức mến xuất
phát từ “một tâm hồn trong sạch, một
lương tâm ngay thẳng và một đức tin
không giả hình” (1Tm 1,5); (x. 1Tm 3,9; 1Tm 1,3; 1P 3,23; Cv 24,16).
“Lương tâm ngay thẳng càng
chiếm ưu thế thì các nhân vị và các tập thể càng tránh được sự quyết định mù
quáng và càng nỗ lực sống phù hợp với những quy định khách quan của luân lý”
(x. GS 16 ).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1.
Lương tâm là gì?
T. Hiện diện trong sâu thẳm lòng người, lương tâm là một phán đoán
của lý trí, vào đúng lúc, thúc đẩy con người làm lành lánh dữ. Nhờ lương tâm,
con người nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi sẽ làm hay đã làm,
và đảm nhận trách nhiệm về hành vi đó. Khi lắng nghe tiếng nói của lương tâm,
người khôn ngoan có thể nghe được tiếng Thiên Chúa nói với mình.
2. Phẩm giá con người đòi buộc điều gì đối với lương tâm?
T. Phẩm giá của con người đòi hỏi sự ngay chính của lương tâm, có
nghĩa là lương tâm phải phù hợp với cái gì là đúng và tốt theo lý trí và Lề
luật của Thiên Chúa. Căn cứ vào phẩm giá nhân vị đó, con người không thể bị ép
buộc phải hành động nghịch lại với lương tâm mình, cũng như không thể bị ngăn
cản, trong các giới hạn của công ích, hành động theo lương tâm mình, nhất là
trong lĩnh vực tôn giáo.
3. Làm
thế nào để đào tạo lương tâm ngay thẳng và chân thật?
T. Lương tâm
ngay thẳng và chân thật được đào tạo qua giáo dục, qua việc thấm nhuần Lời Chúa
và các giáo huấn của Hội Thánh. Lương tâm được các hồng ân Chúa Thánh Thần nâng
đỡ và được các lời khuyên bảo của những người khôn ngoan trợ giúp. Ngoài ra,
việc cầu nguyện và xét mình cũng đóng góp rất nhiều vào việc đào tạo luân lý.
4. Đâu
là những quy tắc mà lương tâm luôn phải theo?
T. Có ba
quy tắc căn bản:
1.
Không bao giờ được làm điều xấu để đạt tới điều tốt;
2. Khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho
mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12);
3. Đức
ái Kitô giáo luôn đòi hỏi tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ, tuy vậy không
có nghĩa là chấp nhận là tốt một điều theo khách quan vốn là xấu.
5. Lương tâm có thể đưa ra những phán đoán sai lầm không?
T. Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm
mình; nhưng lương tâm cũng có thể đưa ra những phán đoán sai lầm, vì những
nguyên nhân nhiều khi do lỗi của con người. Tuy nhiên, người ta không thể quy
trách nhiệm cho người thực hiện điều xấu vì sự thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, cả
khi đó là một điều xấu khách quan. Chính vì thế, con người phải vận dụng hết
mọi khả năng để sửa lại những sai lầm của lương tâm.
MỤC 7
CÁC
NHÂN ĐỨC
1803. “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là
chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt,
những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).
Nhân đức là một xu
hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện, nó khiến nhân vị không những
thực hiện những hành vi tốt, mà còn cống hiến những điều tốt nhất của bản thân
mình. Người nhân đức hướng về điều thiện với tất cả sức mạnh giác quan và tinh
thần của mình; Họ theo đuổi và lựa chọn điều thiện bằng những hành động cụ thể
của mình.
“Mục đích
của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (Thánh Grêgôriô thành
Nicê, các mối phúc 1).
I. CÁC NHÂN ĐỨC NHÂN BẢN
1804. Các
nhân đức nhân bản là những thái độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, những trọn hảo thường xuyên của lý trí và ý chí,
nhằm điều khiển các hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê của chúng ta và
hướng dẫn nếp sống của chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức
này đem lại cho con người sự thoải mái, sự tự chủ và niềm vui, để sống một cuộc
đời tốt lành về mặt luân lý. Người nhân đức là người thực thi điều thiện cách
tự nguyện.
Các nhân đức luân lý được thủ đắc theo cách
thức nhân loại. Chúng là hoa trái và mầm mống của những hành vi tốt về mặt luân
lý; Chúng chuẩn bị mọi năng lực của con người
cho việc hiệp thông với tình yêu
của Thiên Chúa.
Nét đặc
biệt của các nhân đức trụ
1805. Có bốn
nhân đức giữ nhiệm “cột trụ”. Vì vậy, chúng được gọi là các nhân đức “trụ”, mọi
nhân đức khác đều quy tụ quanh bốn nhân đức này. Đó là khôn ngoan, công bằng,
can đảm và tiết độ. “Con người mến
chuộng đức công bằng ư? thì chính đức Khôn Ngoan sản sinh các nhân đức: Quả
vậy, đức Khôn Ngoan dạy cho biết sống tiết
độ, cẩn trọng, công bằng và dũng mãnh” (Kn 8,7). Các nhân đức này
còn được ca ngợi trong nhiều đoạn văn của Kinh Thánh bằng những danh xưng khác
.
1806. Khôn
ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định được điều
thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện
đó “Người khôn ngoan thì đắn đo từng
bước” (Cn 14,15). ”Anh em hãy
sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu
nguyện được” (1 Pr 4,7). Sau ông Aristote, Thánh Tôma viết : “khôn
ngoan là quy tắc đúng đắn để hành động”
(x. S.th 2-2, 47,2 ). Không được lẫn lộn đức khôn ngoan với tính nhút nhát hay
sợ sệt, tráo trở hay lừa đảo. Đức Khôn ngoan được gọi là người hướng dẫn các
nhân đức, thật vậy, nó hướng dẫn các nhân đức khác bằng cách chỉ ra quy tắc và
mức độ của chúng. Đức khôn ngoan trực tiếp hướng dẫn sự phán đoán của lương
tâm. Người khôn ngoan quyết định và sắp đặt cách hành động của mình theo sự
phán đoán này. Nhờ nhân đức này, chúng ta áp dụng các nguyên tắc luân lý vào những
trường hợp cụ thể, mà không bị sai lầm và chúng ta vượt qua được những hồ nghi
về điều tốt phải làm và điều xấu phải
tránh.
1807. Công
bằng là nhân đức luân lý cốt tại một ý chí liên lỷ và vững chắc quyết tâm trả
lại những gì mình mắc nợ Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối
với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ
phượng”. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và
thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới
việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với công ích. Người công bằng
thường được nhắc tới trong Thánh Kinh, có nét đặc biệt là sự ngay thẳng thường
xuyên trong các ý nghĩ của mình và ngay thẳng trong cách hành động đối với
người lân cận. “ngươi không được thiên
vị với người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử
công minh cho người đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ trên trời” (Cl 4,1).
1808. Can
đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì
và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời. Nó củng
cố sự quyết tâm chống lại các cám dỗ và vượt qua các chướng ngại trong đời sống
luân lý. Đức can đảm, giúp chúng ta có khả năng chiến thắng sự sợ hãi, thậm chí
cả sự chết, đương đầu với sự thử thách và các cuộc bách hại. Nó giúp chúng ta
đi đến chỗ từ bỏ và hy sinh mạng sống mình để bảo vệ lẽ phải. “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi” (Tv 118,14). “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn
khó, nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng
thế gian” (Ga 16,33).
1809. Tiết độ là nhân đức luân lý giúp chúng ta điều tiết sức
lôi cuốn của những thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải
trần thế. Nó giúp ý chí làm chủ các bản năng và kiềm chế các ham muốn trong
giới hạn của sự lương thiện. Người tiết độ quy hướng các thèm muốn giác quan
của mình về điều thiện giữ được sự thận trọng lành mạnh, “không chiều theo sức mạnh của mình mà bước
theo dục vọng của trái tim mình” (Hc 5,2). Đức tiết độ thường được ca
tụng trong Cựu Ước: “Con đừng
buông theo các tham vọng của con, nhưng
hãy kiềm chế các dục vọng” (Hc 18,30). Trong Tân Ước nhân đức nàyđược
gọi là sự “chừng mực” hay sự ”điều độ”, chúng ta phải sống “chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian
này” ( Tt 2,12).
“Sống tốt lành không gì khác
hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trái tim, hết linh hồn và hết tâm trí
mình,…. tình yêu này phải được gìn giữ trọn vẹn và không hư hoại, đó là phần
của đức tiết độ, không bị suy yếu bởi một rối loạn nào, đó là phần của đức can
đảm, không phục vụ một ai khác, đó là phần của đức công bằng, tỉnh thức khi
phân định các sự việc kẻo dần dần sự lừa đảo hoặc phản bội lẻn vào, đó là phần
của đức khôn ngoan” (Thánh Augustinô, De moribus Ecclesiae catholicae 1,25; 46:
CSEL 90, 51)
Các
nhân đức và ân sủng
1810. Các
nhân đức nhân bản có được là nhờ sự giáo dục, nhờ các hành vi chủ ý và nhờ luôn
cố gắng kiên trì, các nhân đức này được thanh luyện và nâng cao nhờ ân sủng
thần linh. Nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, các nhân đức này tôi luyện tính tình
và đem lai sự thoải mái trong việc thực thi điều thiện. Người nhân đức hạnh
phúc khi thực thi các nhân đức đó.
1811. Con
người bị tổn thương vì tội lỗi, không dễ
mà giữ được sự quân bình luân lý. Ơn cứu độ của Đức Kitô đem lại cho chúng ta
ân sủng cần thiết để kiên trì trong việc tìm kiếm các nhân đức. Mỗi người phải
luôn cầu xin ơn soi sáng và ơn sức mạnh, luôn chạy đến với các bí tích, luôn
cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe theo lời kêu
gọi của Người để yêu mến điều tốt
và giữ mình khỏi điều xấu.
II. CÁC NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN
1812. Các nhân đức nhân bản được bén rễ trong các nhân đức
đối thần. Là những nhân đức thích ứng các tài năng của con người để dự phần vào
bản tính thần linh (2 Pr 1,4). Quả vậy, các nhân đức đối thần trực tiếp quy
chiếu về Thiên Chúa, chúng giúp các Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi
Chí Thánh. Các nhân đức đối thần có Thiên Chúa nhất thể tam vị là nguồn gốc,
động lực và đối tượng.
1813.Các
nhân đức đối thần là nền móng, làm sinh động và là nét đặc thù của các hành vi
luân lý của Kitô hữu. Chúng định hình và mạng lại sự sống cho tất cả các nhân
đức luân lý, các nhân đức này được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn các tín
hữu, giúp họ có khả năng hành động như con cái Ngài và đáng hưởng sự sống vĩnh
cửu. Các nhân đức đối thần là bảo chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa
Thánh Thần trong các năng lực của con người. Có ba nhân đức đối thần: đức tin,
đức cậy, đức mến (x. 1Cr 13,13).
Đức tin
1814. Đức
tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa, và tất cả những
gì Ngài đã nói và đã mặc khải cho chúng ta, và những gì Hội Thánh dạy chúng ta,
vì Thiên Chúa chính là chân lý. “nhờ đức tin, con người tự nguyện phó thác toàn
thân cho Thiên Chúa” (x. DV 5 ). Vì vậy ai tin, người đó cố gắng nhận biết và
thi hành ý muốn của Thiên Chúa. “Người
công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm1,17). Đức tin sống động “hành động nhờ đức mến” ( Gl 5,6 )
1815. Hồng ân đức tin tồn tại trong người không phạm tội nghịch
với đức tin (x. Công đồng TrenTô: DS 1545). Nhưng “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Nếu thiếu
đức cậy và đức mến, đức tin sẽ không kết
hợp đầy đủ người tín hữu với Đức Kitô và không làm cho họ trở nên chi thể sống
động trong Thân Thể Người.
1816. Người
môn đệ Đức Kitô không những phải gìn giữ đức tin và sống bởi đức tin, mà còn
tuyên xưng, can đảm làm chứng và truyền
bá đức tin: “Mọi tín hữu phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt người ta
và bước theo Người trên đường thập giá,
giữa những cuộc bách hại mà Hội Thánh luôn luôn gặp phải” (x.LG 42; DH 14).
Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu độ. “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên
hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước
mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 10,32-33 ).
Đức cậy
1817. Đức
cậy là nhân đức đối thần, nhờ đó, nhớ đó
chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của chúng ta,
khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các
lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự
trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức mạnh của
chúng ta. “chúng ta hãy tiếp tục
tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta
cách vững vàng vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23). “Thiên Chúa tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần
xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta. Như vậy, một khi
nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô,
chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt
3, 6-7)
1818. Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà Thiên Chúa
đã đặt trong trái tim mỗi người, đảm nhận
những sự mong đợi đang gợi hứng cho các hoạt động của con người, thanh
luyện những mong đợi đó để quy hướng về Nước Trời, bảo vệ khỏi sự nản chí của
tâm hồn, nâng đỡ khi bị bỏ rơi, mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc
vĩnh cửu sự thúc đẩy của đức cậy gìn giữ chúng ta khỏi tính ích kỷ và đưa chúng
ta đến vinh phúc của đức mến.
1819. Đức
cậy Kitô đảm nhận và kiện lòng trông cậy của dân Chúa chọn, nguồn gốc và mẫu
gương lòng cậy trông đó là lòng trông cật của tổ phụ Abraham, người đã mãn
nguyện với những lời hứa của Thiên Chúa nơi Ixaác, và đã được thanh luyện nhờ
sự thử thách là cuộc hy tế (x. St 17,4-8; 22,1-18 ). “Ông ông vẫn trông cậy và vững tin; do đó, ông trở thành tổ phụ nhiều
dân tộc” (Rm 4,18).
1820. Từ
lúc khởi đầu việc giảng dậy của Đức Giêsu, đức cậy Kitô giáo được khai triển
trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc nâng niềm hy vọng của chúng
ta hướng lên trời, như lên miền đất hứa
mới, vạch đường tới đó qua những thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Đức
Giêsu. Nhưng nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô và cuộc khổ nạn của Ngài, Thiên
Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm hy vọng:
“không phải thất vọng” ( Rm 5,5). “chúng ta có niềm hy vọng như cái neo chắc
chắn và bền vững của tâm hồn, thả sâu vào nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền
phong mở đường cho ta” (Dt 6,19-20). Đức cậy cũng là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến để được cứu
độ: “mặc áo giáp là đức tin và đức mến,
đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho ta niềm
vui, ngay trong thử thách: “Hãy vui
mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân...” (Rm 12,12).
Đức cậy được diễn tả và nuôi dưỡng trong kinh nguyện, nhất là trong lời kinh
của Chúa, là bản toát yếu của tất cả những gì mà đức cậy khiến chúng ta ao ước.
1821. Vì vậy,
chúng ta có thể trông cậy được hưởng vinh quang thiên quốc đã được Thiên Chúa
hứa ban cho những ai yêu mến Ngài và thi
hành ý muốn của Ngài (x.Mt 7,21). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi người
phải cậy trông nhờ ân sủng của Thiên Chúa sẽ “kiên trì đến cùng” (x. Mt 10,22;
Công đồng Trentô; DS 1514 ) và đạt được niềm vui thiên quốc như phần thưởng
vĩnh cửu Thiên Chúa ban, vì các việc tốt
lành đã được thực hiện nhờ ân sủng Đức Kitô. Với đức cậy, Hội Thánh cầu nguyện
cho “mọi người được cứu độ”
(1Tm 2,4), Hội Thánh mong được kết hợp
với Đức Kitô, Phu Quân của mình, trong vinh quang thiên quốc.
Trông cậy đi, hồn tôi hỡi, hãy
cậy trông! Ngươi không biết ngày nào và giờ nào. Hãy chuyên cần tỉnh thức, vì
mọi sự qua đi nhanh chóng, mặc dù vì quá nóng lòng nên ngươi hoài nghi điều
chắc chắn và cảm thấy khoảng thời gian vắn vỏi lại quá dài. Hãy nhớ rằng, ngươi
càng chiến đấu, càng chứng tỏ tình yêu của ngươi đối với Thiên Chúa, và một
ngày kia, ngươi sẽ càng vui sướng hơn với Đấng lòng ngươi yêu mến, trong niềm
hạnh phúc và say mê bất tận (T.Têrêsa
Hài Đồng Giê-su, tự thuật 15,3).
Đức mến
1822. Đức mến
là nhân đức đối thần, nhờ đó, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì
chính Ngài, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính
mình.
1823. Đức
Giêsu lấy đức mến làm điều răn mới (Ga
13,34). Khi yêu thương những kẻ thuộc về Người “đến cùng” (Ga 13, 1), Người biểu lộ tình yêu
của Chúa Cha mà Người đã đón nhận. Khi yêu mến nhau, các môn đệ bắt chước tình
yêu của Đức Giêsu, mà họ cũng đã đón nhận.
Vì vậy, Đức Giê-su nói: “Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở
trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). Và Người còn nói “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu
thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
1824. Là
hoa trái của Thánh Thần và là sự viên mãn của lề luật. Đức mến giữ các điều răn
của Thiên Chúa và của Đức Kitô: “Hãy ở
trong tình thương của Thầy. Nếu anh em
giữ các điều răn của Thầy, thì anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy”
(Ga 15,9-10); (x. Mt 22,40; Rm 13,8-10).
1825. Đức
Kitô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn là “thù nghịch” (Rm 5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như
Người, chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,44 ), rằng
chúng ta phải trở thành người lận cận cho những kẻ ở xa nhất (x. Lc10, 27-37),
chúng ta phải yêu thương trẻ em (x. Mc 9,37) và người nghèo như chính Người (
Mt 25,40-45).
Thánh tông đồ Phaolô đã mô tả
cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến
thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không
làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui
khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”
(1Cr 13,4-7).
1826. Thánh
tông đồ còn nói: “không có đức mến, tôi cũng chẳng là gì...”. và bất cứ điều gì
là đặc ân, công việc phục vụ thậm chí nhân đức…., nếu tôi “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho
tôi” (1 Cr 13,1-4). Đức mến cao trọng hơn mọi nhân đức, đức mến đứng đầu
các nhân đức đối thần. “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba
đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là
đức mến” (1Cr 13,13).
1827. Việc thực thi các nhân đức được nên sinh động và được
gợi hứng bởi Đức mến. Nhân đức này là “mối
dây liên kết tuyệt hảo” (Cl
3,14); là mô thể của các nhân đức; liên
kết và phối hợp các nhân đức; là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các
nhân đức Kitô giáo. Đức mến củng cố và thanh luyện khả năng yêu thương của con
người. Đức mến nâng khả năng này lên mức trọn hảo siêu nhiên, của tình yêu
Thiên Chúa.
1828. Việc thực hành đời sống luân lý được sinh động, nhờ đức
mến mới đem lại cho người Kitô hữu sự tự do thiêng liêng của con cái Thiên
Chúa. Người đó đứng trước Thiên Chúa, không còn như một kẻ nô lệ sống trong sợ
hãi tôi đòi, hay người làm công ăn lương, nhưng là người con đáp lại tình yêu
của “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta
trước” (1Ga 4,19).
Nếu chúng
ta xa lánh điều xấu vì sợ hình phạt, chúng ta sẽ sống trong tâm trạng của người
nô lệ. Nếu chạy theo sự cám dỗ của phần thưởng, chúng ta sẽ giống như người làm
thuê. Nhưng nếu vì chính sự đáng kính và vì yêu của Đấng ban hành lề luật,
chúng ta mới thực sự sống trong tâm tình của con cái (Thánh Baxiliô Cả khảo luận thêm về luật sống 3).
1829. Niềm
vui, sự bình an và lòng thương xót là hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi
phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Đức mến thì nhân
hậu, nó khơi dậy sự tương thân tương ái không tìm tư lợi và quảng đại, đức mến
là tình bằng hữu và sự hiệp thông.
Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc
của chúng ta. Đó là mục đích chúng ta chạy vì đó chúng ta chạy đến đó, và khi tới
đó, chúng ta sẽ an nghỉ (Thánh Augustino, thư Gioan 10,4).
III. HỒNG ÂN VÀ HOA TRÁI CỦA
THÁNH THẦN
1830. Đời
sống luân lý của các Kitô hữu được nâng đỡ bởi các hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Đó là những xu hướng thường xuyên giúp con người dễ dàng tuân theo sự thúc đẩy
của Chúa Thánh Thần.
1831. Bảy
hồng ân của Chúa Thánh Thần là: ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu,
ơn dũng cảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và
ơn kính sợ Chúa. Các ơn này đạt tới sự sung mãn của chúng nơi Đức Kitô, Con Vua
Đavít (x. Is 11,1-2); các ơn này hoàn thành các nhân đức của những người lãnh
nhận chúng; và đưa các nhân đức đó tới mức trọn hảo. Các ơn này, giúp các tín
hữu dễ dàng vâng phục cách mau mắn những
linh hứng của Thiên Chúa.
“Xin Thần Khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu”
(Tv 143,10).
“Phàm ai được Thánh Khí
Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái
Thiên Chúa ... vậy đã là con thì cũng
là thừa kế; mà Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô
(Rm 8, 14.17).
1832. Các
hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng
ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Thánh
Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, kiên
nhẫn, quãng đại, nhân từ, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh
khiết” (Gl 5,22-23).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Nhân
đức là gì?
T. Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm
điều thiện. “Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa”
(Thánh Grêgôriô thành Nyssa). Có những đức tính nhân bản và những nhân đức đối
thần.
2. Các
nhân đức nhân bản là gì?
T. Các nhân đức nhân bản là xu hướng
thường xuyên và kiên trì của lý trí và ý chí nhằm điều chỉnh hành vi của chúng
ta, điều tiết các đam mê và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí
và đức tin. Nhờ đạt được và củng cố thường xuyên bằng các hành vi luân lý tốt,
các nhân đức nhân bản được ân sủng Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao.
3. Các
nhân đức nhân bản chính là gì?
T. Đó là các nhân đức được gọi là các nhân đức “căn bản.” Tất cả
các nhân đức khác đều quy tụ quanh các nhân đức này và các nhân đức này là nền
tảng cho đời sống đạo đức. Đó là: khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.
4. Khôn
ngoan là gì?
T. Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi
hoàn cảnh phân định điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích
hợp để đạt tới điều thiện đó. Sự khôn ngoan hướng dẫn các nhân đức khác, bằng
cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng.
5. Công
bằng là gì?
T. Công bằng là nhân đức luân lý thể hiện qua quyết tâm trả cho
người khác những gì thuộc về họ. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân
đức thờ phượng”.
6. Can
đảm là gì?
T. Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm
theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời; can đảm để có thể đưa đến
khả năng dám hy sinh chính mạng sống để bảo vệ lẽ phải.
7. Tiết
độ là gì?
T. Tiết độ là đức tính luân lý giúp ta điều tiết sức lôi cuốn của
những thú vui, giúp ý chí làm chủ các bản năng và giúp ta biết sử dụng chừng
mực các của cải trần thế.
8. Các
nhân đức đối thần là gì?
T. Các nhân
đức đối thần là những nhân đức có chính Thiên Chúa là nguồn gốc, động lực và
đối tượng trực tiếp. Các nhân đức này được phú bẩm trong con người cùng với ân
sủng thánh hóa, giúp con người có khả năng sống trong tương quan với Thiên Chúa
Ba Ngôi. Các nhân đức đối thần tạo nền móng và động lực cho hành vi luân lý của
người Kitô hữu, làm sinh động các nhân đức nhân bản. Các nhân đức này là bảo
chứng cho sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của
con người.
9. Các
nhân đức đối thần là những nhân đức nào?
T. Các nhân
đức đối thần gồm có: đức tin, đức cậy và đức ái.
10. Đức tin là gì?
T. Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa
và tất cả những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta và những gì Hội Thánh dạy
chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa là chính Chân lý. Nhờ đức tin, con người phó
thác bản thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế người tin tìm biết và
tìm thi hành ý muốn của Ngài, vì “đức tin hoạt động nhờ đức ái” (Gl 5,6).
11. Đức
cậy là gì?
T. Đức cậy là nhân đức đối thần nhờ đó chúng ta khao khát và mong
chờ Thiên Chúa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu là hạnh phúc của chúng ta,
khi tin tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ơn
Chúa Thánh Thần để xứng đáng hưởng đời sống vĩnh cửu và kiên trì cho đến hết
cuộc đời trần thế.
12. Đức
ái là gì?
T. Đức ái là nhân đức đối thần giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa
trên hết mọi sự, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu thương người khác như
chính mình. Chúa Giêsu lấy đức ái làm điều răn mới, là sự viên mãn của lề luật.
Đức ái là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14), là nền tảng của các nhân đức
khác mà nó làm cho sinh động, gợi hứng và phối hợp. Không có đức ái, “tôi sẽ chẳng là gì cả và … chẳng ích gì cho
tôi” (1 Cr 13,1-3).
13. Các ơn Chúa Thánh Thần là
gì?
T. Các ơn Chúa Thánh Thần là những xu hướng thường xuyên giúp cho
con người dễ dàng tuân theo những soi sáng của Thiên Chúa. Có bảy ơn Chúa Thánh
Thần: khôn ngoan, thông minh, biết lo liệu, can đảm, hiểu biết, đạo đức và kính
sợ Thiên Chúa.
14.
Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là gì?
T. Những hoa trái
của Chúa Thánh Thần là những điều thiện hảo được hình thành trong chúng ta như
hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai
hoa trái của Chúa Thánh Thần: “Bác ái,
hoan lạc, an bình, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung
tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).
MỤC 8
TỘI LỖI
I. LÒNG THƯƠNG XÓT NGƯỜI TỘI
LỖI
1846. Tin Mừng là sự mạc khải trong Đức Giêsu Kitô, lòng
thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Thiên thần loan báo cho Thánh
Giuse: “Ông phải đặt \ tên con trẻ là
Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21).
cũng chính điều đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của ơn cứu chuộc. “Đây là máu Thầy, máu giao ước, sẽ đổ ra cho
mọi người được tha tội” (Mt 26,28).
1847.
“Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng bạn không cần có bạn; không công chính hóa bạn
nếu không có bạn” (T. Âu tinh bài giảng169, 11,13). Việc đón nhận lòng thương
xót của Người đòi hỏi chúng ta phải thú nhận tội lỗi của chúng ta. “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội,
thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta
thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng
trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch
mọi điều bất chính” (1Ga 1, 8-9).
1848. Cũng
như Thánh Phaolô quả quyết: “Ở đâu tội
lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội”. Nhưng để thực
hiện công trình của mình, ân sủng phải vạch trần tội lỗi nhằm hối cải trái tim
chúng ta và “làm cho chúng ta nên công
chính, để được sống đời đời nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm
5,20-21). Cũng như thầy thuốc xem xét vết thương trước khi chữa lành nó, Thiên
Chúa, nhờ Ngôi lời của Ngài và Thần khí
của Ngài chiếu ánh sáng sống động vào tội lỗi.
Sự hối cải đòi buộc phải xác
tín về tội lỗi của; nó bao hàm một phán
đoán từ bên trong của lương tâm. Và điều
này là bằng chứng về sự hành động của Thần chân lý trong hữu thể thẳm sâu của
con người, và đồng thời cũng là khởi
điểm của việc ban tặng mới của ân sủng tình yêu: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh
Thần”. Như vậy, trong việc xác tín về tội lỗi, chúng ta nhận ra một hồng ân
kép: hồng ân về chân lý của lương tâm,
và hồng ân về sự chắc chắn của ơn cứu chuộc. Thần chân lý là Đấng an ủi (DV 31).
II. ĐỊNH NGHĨA TỘI LỖI
1849. Tội là một lỗi phạm đối nghịch với lý trí, chân lý,
lương tâm ngay thẳng, tội là sự thiếu tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, vì
sự quyến luyến lệch lạc với một số điều tốt đẹp nào đó. Tội làm tổn thương bản
tính con người và vi phạm đến tình liên đới nhân loại. Tội được định nghĩa là:
“Một hành vi lời nói, hoặc ước muốn trái nghịch với lề luật vĩnh cửu” (T.
Âu-tinh, chống Faust 22,27; T.Tôma aquinô, Tổng Luận Thần Học 1-2, 71,6 ).
1850. Tội
là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. “Con
đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv
51,6). Tội chống lại tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta và đưa trái tim
chúng ta xa lìa khỏi tình yêu đó. Cũng như đầu tiên, tội là một sự bất tuân, một sự nổi loạn chống
Thiên Chúa, vì ao ước muốn “sẽ nên như những vị thần biết điều thiện,
điều ác” (St 3, 5). Để nhận biết và quyết định điều tốt và điều xấu. Như
thế, tội là ”yêu mình đến mức khinh chê
Thiên Chúa” ( T.Âu-tinh 14,28). Vì sự tự
tôn kiêu căng này, nên tội đối nghịch hẳn với sự tuân phục của Đức Giêsu, sự
tuân phục đó đã hoàn thành ơn cứu độ (x.
Pl 2,6-9 ).
1851. Chính
trong cuộc khổ nạn, trong đó lòng thương xót của Đức Kitô chiến thắng tội lỗi,
mà tội lỗi biểu lộ cách rõ nhất tính hung bạo và đa dạng của nó: sự cứng lòng
tin, sự căm thù đến mức giết người, sự chối bỏ và nhạo báng của các thủ lãnh và
của dân chúng; sự hèn nhát của quan Philatô; sự tàn bạo của binh lính; sự phản
bội của ông Giuđa quá cay đắng cho Chúa Giêsu; việc chối bỏ của ông Phêrô, và
sự bỏ rơi của các môn đệ. Tuy nhiên, chính vào giờ của bóng tối và thủ lãnh thế
gian này (x. Ga 14,30), cuộc hy tế của Đức Kitô đã âm thầm trở nên nguồn mạch,
từ đó tuôn tràn cách không bao giờ cạn ơn tha thứ tội lỗi chúng ta.
III. CÁC TỘI LỖI KHÁC NHAU
1852. Tội lỗi rất đa dạng. Thánh Kinh đã đưa ra nhiều danh sách
các tội lỗi. Thư tín hữu Galáta đối chiếu các công việc của xác thịt với hoa
trái của Thần khí. “Những việc do tính
xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôm, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù
phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,
ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho
mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng
Nước Thiên Chúa” (Gl 5,19-21; x.
Rm 1,28-32).
1853. Tội lỗi được phân biệt theo đối tượng của chúng, cũng
như đối với mọi hành vi nhân linh, hoặc theo các nhân đức mà chúng đối nghịch do thái quá hay do bất cập, hoặc theo
các điều răn mà chúng phạm. Tội lỗi cũng có thể phân loại theo tương quan của
chúng với Thiên Chúa, với người lân cận hoặc với chính bản thân; chúng có thể được phân chia thành
các tội về tinh thần và các tội về thể xác hoặc tội trong tư tưởng, lời nói,
việc làm và bỏ sót không làm. Cội rễ của tội là ở trong trái tim con người,
trong ý chí tự do của họ, theo lời Chúa dạy “tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm
chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế”
(Mt 15,19-20). Đức mến cũng cư ngụ trong trái tim con người, đó là nguyên lý
của các việc tốt lành và thanh sạch, nên tội cũng làm tổn thương đức mến.
IV. MỨC ĐỘ NGHIÊM TRỌNG CỦA
TỘI: TỘI TRỌNG VÀ TỘI NHẸ
1854. Phải
đánh giá các tội theo mức độ nghiêm trọng của chúng. Sự phân biệt giữa tội
trọng và tội nhẹ, như đã thấy Thánh Kinh, là khá phổ biến trong truyền thống
Hội Thánh. Kinh nghiệm của con người xác
nhận điều này.
1855. Tội
trọng phá hủy đức mến trong trái tim con
người do vi phạm nghiêm trọng lề luật của Thiên Chúa. Tội trọng làm cho con
người quay lưng lại với Thiên Chúa là mục đích tối hậu của mình và vinh phúc
của mình, khi dành ưu tiên cho một điều tốt thấp kém hơn Ngài.
Tội nhẹ vẫn còn để đức mến tồn tại, mặc dù
có xúc phạm và gây tổn thương cho đức mến
.
1856. Tội
trọng đánh vào nguyên lý sống còn trong chúng ta là đức mến, nên cần phải có
một khởi đầu mới của lòng xót thương của Thiên Chúa và sự hối cải của trái tim,
điều này được thực hiện một cách thông thương trong bí tích Giao Hòa:
Khi ý chí chiều theo một điều
tự nó nghịch lại với đức mến là nhân đức nhờ đó con người được quy hướng về mục
đích tối hậu, thì do đối tượng của nó, tội này là tội trọng... khi nghịch với
lòng mến Chúa, như lộng ngôn, bội thề,v.v... hay nghịch với lòng yêu người, như
sát nhân, ngoại tình, v.v... còn khi ý chí của tội nhân chiều về một điều
tự nó là một sự vô trật tự nào đó nhưng
không nghịch với tình yêu đối với Thiên Chúa và người lận cận, thí dụ như ăn
nói bừa bãi, cười cợt lố lăng v.v... Đó là những tội nhẹ (T. Tôma Aquinô, Tổng
Luận Thần Học 1-2,88 ).
1857. Để một tội là tội trọng đòi phải có đồng thời ba điều
kiện: Tội trọng là tội mà “đối tượng của nó là một chất liệu nghiêm trọng, và
ngoài ra tội đó được chấp nhận với đầy đủ ý thức và với sự ưng thuận chủ ý” (x.
RP: Tông Huấn Sám hối và Hòa giải 17).
1858. Chất
liệu nghiệm trọng được xác định trong Mười Điều Răn, theo câu trả lời của Đức
Giêsu với người thanh niên giàu có: “Chớ
giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai,
hãy thảo kính cha mẹ” (Mc 10,19). Tính nghiêm trọng của tội có thể nhiều
hơn hay ít hơn: tội giết người thì nghiêm trọng hơn tội trộm cắp, cũng phải xét
đến cả phẩm chất của những người bị xúc phạm: tội hành hung người thân thì tự
nó nặng hơn tội hành hung một người lạ.
1859. Tội
trọng đòi phải có nhận thức đầy đủ và ưng thuận hoàn toàn. Điều này giả thiết
phải có sự hiểu biết đặt tính tội lỗi của hành vi hiểu biết sự đối nghịch của
hành vi đối với lề luật của Thiên Chúa. Tội trọng cũng bao hàm một sự ưng thuận
chủ ý đủ để làm một lựa chọn cá. Sự làm bộ không biết và sự chai đá của trái
tim. Không giảm thiểu nhưng gia tăng tính cách cố ý của tội.
1860. Sự
không hiểu biết ngoài ý muốn có thể được giảm thiểu và thậm chí xóa bỏ. Tính
cách qui tọi của một lỗi phạm nặng. Nhưng không ai được coi là không biết những
nguyên tắc của luật luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm mỗi người. Những
thúc đẩy của cảm giác, các đam mê, và cả
các áp lực bên ngoài, hoặc những rối loạn do bệnh tật, cũng có thể giảm thiểu
tính cách cố ý và tự do của lỗi phạm. Tội do ác tâm, do sự chủ ý lựa chọn điều
xấu, là nghiêm trọng nhất.
1861. Tội
trọng là một khả năng căn bản của sự tự do nhân loại. Cũng như chính tình yêu,
tội trọng phá hủy đức mến, làm mất ơn thánh hóa, nghĩa là mất tình trạng ân
sủng. Nếu tội trọng không được chuộc lại bằng việc thống hối và ơn tha thứ của
Thiên Chúa, nó sẽ đưa tới việc bị loại khỏi nước Thiên Chúa và cái chết muôn
đời trong hỏa ngục, vì tự do của chúng ta có khả năng thực hiện những lựa chọn
vĩnh viễn, không thể hồi lại được. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể phán đoán
một hành vi nào đó là một lỗi nặng, chúng ta vẫn phải phó thác việc phán xét
các nhân vị cho sự công bằng và lòng thương xót của Thiên Chúa.
1862. Người
ta phạm tội nhẹ khi không tuân giữ những tiêu chuẩn được quy định bởi luật luân
lý trong điều nhẹ, hay cả khi không tuân theo luật luân lý trong điều nặng
nhưng không có sự nhận thức đầy hay không có sự ưng thuận hoàn toàn.
1863. Tội
nhẹ làm suy yếu đức mến, nó diễn tả sự
quyến luyến vô trật tự đối với của cải trần thế, nó ngăn cản sự tiến triển của
linh hồn trong việc thực hành các nhân đức và trong việc thực thi điều thiện luân
lý. Tội nhẹ đáng chịu những hình phạt
tạm thời. Tội nhẹ có chủ ý và nhất định không thống hối khiến chúng ta dần dần
đi đến chỗ phạm tội trọng. Tuy nhiên, tội nhẹ không phá vỡ giao ước với Thiên
Chúa, với ân sủng của Thiên Chúa, tội nhẹ có thể được con người sửa chữa lại.
“Tội nhẹ không làm mất ơn thánh hóa, sự thân nghĩa với Thiên Chúa, đức mến và
vinh phúc vĩnh cửu”.
Bao lâu
còn mang thân xác, con người không thể không có ít là các tội nhẹ. Nhưng các
tội mà chúng ta gọi là nhẹ, bạn chớ coi thường nếu bạn coi là nhẹ khi bạn cân
chúng, thì bạn hãy run sợ khi bạn đếm chúng. Nhiều vật nhỏ hợp thành một khối
lớn, nhiều giọt nước làm đầy một con sông, nhiều hạt lúa làm thành một đống
lúa. Vậy thì còn hy vọng gì? Trước hết đi xưng tội đã...(T. ÂuTinh, Thư Gioan)
1864. “Mọi tội,
kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm
thượng đến Thần Khí sẽ chẳng được tha” (Mt 12, 31); (x.Mc 3,29; Lc
12,10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình từ chối lòng thương xót của Thiên Chúa qua
việc thống hối thì người đó cũng khước từ ơn tha tội lỗi cho mình và ơn cứu độ
do Chúa Thánh Thần ban tặng (x. DV 46). Sự cứng lòng như vậy có thể đưa tới chỗ
không thống hối trong giờ sau hết và bị án phạt muôn đời.
V. TỘI LỖI SINH SÔI NẢY NỞ
1865. Tội
tạo nên xu hướng về tội; và do việc lặp đi lặp cùng một hành vi, sẽ sinh ra thói. Từ đó phát sinh những nghiêng chiều lệch lạc
làm mờ tối lương tâm và làm hư hỏng sự đánh giá cụ thể về điều tốt và điễu xấu.
Như vậy, tội lỗi có khuynh hướng sinh sôi nảy nở và mạnh lên thêm, nhưng không thể phá hủy tận căn cảm thức luân lý.
1866. Các thói xấu có thể được xếp loại dựa theo các nhân đức
mà chúng đối nghịch hay được quy vào các mối tội đầu như kinh nghiệm Kitô giáo
đã phân biệt dựa thánh Gioan Casianô và Grêgôriô Cả (x. Mor. 31,45). Chúng được
gọi là các mối tội đầu vì chúng sinh ra
những tội khác, những thói xấu khác. Các mối tội đầu là : kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, ghen ghét, hờn
giận, mê ăn uống, làm biếng.
1867. Truyền thống dạy giáo lý cũng nhắc đến các “tội kêu thấu
đến trời”, kêu thấu đến trời đó là: máu của Aben (x. St 4,10), tội của dân
Sôđôma (x.St 18,20;19,13); tiếng kêu than của dân bị áp bức ở Ai Cập (x. Xh
3,7-10); tiếng rên siết của người ngoại kiều, của các cô nhi quả phụ (x. Xh
22,20-22); sự bất công về lương bổng (x.
Đnl 24,14-15; Gc 5,4).
1868. Tội là
một hành vi cá vị. Ngoài ra, chúng ta có trách nhiệm trong các tội do những
người khác phạm, khi chúng ta cộng tác
vào các tội đó, bằng cách :
- Tham
gia cách trực tiếp và tự nguyện vào các tội đó;
- Ra lệnh, xúi giục, khen ngợi, hoặc tán thành các tội
đó;
- Không
tố cáo hoặc không ngăn cản các tội đó, khi có bổn phận phải can ngăn;
- Che
chở những người làm điều xấu.
1869. Như
vậy, tội làm cho người ta trở thành đồng phạm với nhau, và làm cho dục vọng,
bạo lực, bất công thống trị nơi họ. Tội
lỗi tạo nên những hoàn cảnh xã hội và những cơ chế nghịch lại với lòng nhân hậu
của Thiên Chúa. Các “cơ cấu tội ác” vừa diễn tả vừa là hậu quả của các tội cá
vị. Chúng xúi giục các nạn nhân của chúng đến lượt mình cũng làm điều xấu. Hiểu
nghĩa loại suy, chúng làm thành “tội xã hội” (x. RP 16).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Để
đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải làm gì?
T. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa chúng ta phải nhìn nhận và thống hối các tội lỗi của
mình. Chính Thiên Chúa, qua Lời và Thánh Thần của Ngài, giúp chúng ta thấy rõ
tội lỗi của mình, ban cho chúng ta lương tâm ngay thẳng và niềm hy vọng vào ơn tha
thứ.
2. Tội
là gì?
T. Tội là
“một lời nói, hành vi hoặc ước muốn trái nghịch với Luật vĩnh cửu” (thánh
Augustinô). Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, không vâng phục tình yêu của
Ngài. Tội gây thương tích cho bản tính của con người và làm thương tổn tình
liên đới giữa nhân loại. Qua cuộc Khổ nạn, Đức Kitô cho thấy rõ ràng tính chất
trầm trọng của tội và đã chiến thắng nó bằng lòng thương xót của Người.
3. Có
nhiều loại tội hay không?
T. Có rất nhiều loại tội. Có thể được phân biệt các tội theo đối tượng
của chúng hoặc theo các nhân đức hay các giới răn, mà tội đối nghịch. Cũng có
thể phân biệt các tội theo tương quan trực tiếp của chúng với Thiên Chúa, với
tha nhân hoặc với chính bản thân. Ngoài ra, người ta cũng có thể phân biệt tội
trong tư tưởng, lời nói, việc làm và việc bỏ sót không làm.
4.
Người ta phân biệt tội theo tính chất trầm trọng của chúng như thế nào?
T. Người ta phân biệt tội trọng và tội nhẹ.
5. Khi
nào người ta phạm tội trọng?
T. Người ta phạm tội trọng khi cùng lúc có chất liệu nặng, ý thức
đầy đủ, và tự ý ưng thuận. Tội trọng phá hủy đức mến trong chúng ta, làm chúng
ta mất ân sủng thánh hóa và dẫn chúng ta đến cái chết đời đời trong hỏa ngục
nếu không sám hối. Tội trọng được tha thứ cách thông thường nhờ Bí tích Rửa Tội
và Bí tích Thống Hối, còn gọi là Bí tích Giao Hòa.
6. Khi
nào người ta phạm tội nhẹ?
T. Khác biệt cách triệt để với tội trọng, người ta phạm tội nhẹ
khi chất liệu là nhẹ, hoặc cả khi chất liệu là nặng, nhưng không có đầy đủ ý
thức hay không hoàn toàn ưng thuận. Tội nhẹ không cắt đứt tương quan với Thiên
Chúa, nhưng làm suy yếu đức mến. Tội nhẹ biểu lộ lòng quyến luyến lệch lạc đối
với của cải trần thế, ngăn cản sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành
nhân đức và trong việc thực thi điều thiện luân lý. Tội nhẹ đáng chịu những
hình phạt tạm thời để thanh luyện.
7. Tội
sinh sôi nảy nở nơi chúng ta như thế nào?
T. Tội tạo nên xu hướng về tội, và do việc lặp đi lặp lại cùng một
hành vi, sẽ sinhnên thói xấu.
8. Các thói xấu là gì?
T. Đối nghịch với các nhân đức, các thói xấu là những thói quen
lệch lạc làm mờ tối lương tâm và hướng chiều về điều xấu. Các thói xấu có thể
được liên hệ bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, ganh tị, nóng giận,
dâm dục, mê ăn uống và lười biếng.
9. Chúng ta có trách nhiệm gì đối với tội người khác
không?
T. Chúng ta có trách nhiệm đối với tội của người khác, khi chúng
ta cộng tác cách có lỗi vào tội đó.
10. Các
cơ cấu tội lỗi là gì?
T. Các cơ cấu tội
lỗi là những hoàn cảnh xã hội hay những tổ chức nghịch lại với Luật Thiên Chúa;
chúng là những biểu lộ và hậu quả của các tội cá nhân.
CHƯƠNG
HAI
CỘNG
ĐỒNG NHÂN LOẠI
1877. Ơn gọi của nhân loại là biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa
và được biến đổi thành một hình ảnh Con một của Chúa Cha. Ơn gọi này mang một
hình thức cá vị, bởi vì mỗi người đều được kêu gọi tiến vào vinh phúc thần
linh, ơn gọi này cũng liên quan đến toàn thể cộng đồng nhân loại.
MỤC 1
CÁ VỊ
VÀ XÃ HỘI
I. TÍNH CÁCH CỘNG ĐỒNG CỦA ƠN
GỌI NHÂN LINH.
1878. Mọi
người đều được kêu gọi tiến đến một cùng đích chung là chính Thiên Chúa. Có một
sự tương tự nào đó giữa sự hiệp thông các Ngôi vị Thiên Chúa với tình huynh đệ
mà con người phải thiết lập với nhau trong chân lý và tình yêu. Tình yêu đối
với người lân cận không thể tách rời khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa.
1879. Nhân vị
cần đời sống xã hội. Đời sống này không phải là điều gì từ bên ngoài được thêm
vào cho nhân vị, nhưng là một đòi hỏi của bản tính của nhân vị. Con người, nhờ
trao đổi với những người khác, nhờ phục vụ lẫn nhau và nhờ đối thoại với anh
em, phát triển mọi tài năng của mình; như vậy,
họ đáp lại ơn gọi của mình (GS 25,1).
1880. Xã
hội là một tổng thể những cá vị được liên kết với nhau một cách hữu cơ theo một
nguyên lý hợp nhất nào đó, vượt quá mỗi cá vị. Là một cộng đồng vừa hữu hình,
vừa tinh thần, xã hội tồn tại trong thời gian: nó tiếp nhận quá khứ và chuẩn bị
tương lai. Nhờ xã hội, mỗi người trở thành “người thừa tự”, lãnh nhận các “nén bạc” làm phong
phú căn tính của mình và họ phải làm cho chúng tăng thêm hoa trái” (x. Lc 19.13.15).
Theo lẽ phải, mỗi người phải tận tâm với các cộng đồng mà mình là thành viên,
và phải tôn trọng các người cầm quyền có nhiệm vụ mưu cầu công ích.
1881. Mỗi
cộng đồng được định nghĩa băng mục tiêu của mình; do đó, phải tuân theo những
quy tắc đặc thù, nhưng “nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định chế
xã hội là và phải là nhân vị” (x. GS 25,1).
1882. Một số xã hội, như gia đình và cộng đồng dân sự, phù
hợp một cách trực tiếp hơn với bản tính con người. Chúng là cần thiết cho con
người. Để khuyến khích nhiều người tham gia vào đời sống xã hội, phải ủng hộ
việc thành lập các hiệp hội và các tổ chức, được tự do lựa chọn về các vấn đề
kinh tế, xã hội, về văn hoá, giải trí, về các sinh hoạt thể thao, về nghề
nghiệp của các nghệ thuật khác nhau, về các vấn đề chính trị.. .trên bình diện
quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế” (x. MM :Thông điệp Mẹ và Thầy. 60). Việc “xã hội hóa” đồng
thời diễn tả một xu hướng tự nhiên thúc đẩy con người hợp tác với nhau, để theo
đuổi những mục tiêu vượt quá khả năng cá nhân. Công cuộc này làm tăng thêm các
phẩm chất của con người, nhất là óc sáng kiến và tinh thần trách nhiệm. Nó cũng
giúp bảo đảm các quyền của con người
(x.GS 25; CA 12 ).
1883. Việc
xã hội hóa cũng cho thấy những nguy cơ. Sự can thiệp quá đáng của Nhà Nước có
thể đe dọa tự do và các sáng kiến cá vị. Giáo huấn của Hội Thánh đề ra nguyên
tắc được gọi là nguyên tắc bổ trợ: theo đó “một tổ chức ở cấp cao hơn không
được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một tổ chức ở cấp dưới, và tước mất
những nhiệm vụ riêng của cấp dưới, mà tốt hơn phải nâng đỡ tổ chức cấp dưới
những khi cần, và trợ giúp để hành động của họ được phối hợp với các thành phần
liên hệ khác khác, nhằm phục vụ công ích” (x. CA 48; Đức Pi-ôXI).
1884. Thiên
Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thực thi mọi quyền hành. Ngài trao lại
cho mỗi thụ tạo những nhiệm vụ mà nó có khả năng thực thi, theo những khả năng
của bản tính riêng của mình. Cách cai quản này phải được bắt chước trong đời
sống xã hội. Cách Thiên Chúa hành động trong việc cai quản trần gian chứng tỏ
Ngài rất quan tâm đến sự tự do nhân loại. Điều này phải gợi hứng khôn ngoan cho
những người cai quản các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác
viên của sự quan phòng của Thiên Chúa.
1885. Nguyên
tắc bổ trợ đối nghịch với mọi hình thức duy tập thể, nó vạch ra những giới hạn
cho việc can thiệp của Nhà Nước, nó tìm cách hòa hợp các tương quan giữa cá
nhân với các xã hội, nó hướng tới việc thiết lập một trật tự quốc tế đích thực.
II. SỰ HỐI CẢI VÀ XÃ HỘI
1886. Xã hội
là cần thiết để ơn gọi nhân linh được thực hiện. Để đạt tới mục tiêu này, phải
tôn trọng bậc thang đúng đắn của các giá trị: “là những gì thuộc vật chất và tự
nhiện được đặt ở dưới những gì thuộc nội tâm và tinh thần” (x. CA 36).
Vì vậy, xã hội của con người
trước hết phải được coi như một thực tại tinh thần đặc biệt liên quan đến tâm
hồn. Nhờ xã hội. Người ta thông chuyển cho nhau những kiến thức kiến thức
trong ánh sáng của chân lý. Người có thể
khẳng định và chu toàn các bổn phận, người ta khích lệ nhau tìm kiếm những điều
thiện hảo cho tâm hồn, người ta chia sẻ cho nhau sự thưởng thức mọi thú vui
lành mạnh, người ta luôn cố gắng trao cho người khác những gì tốt đẹp nhất của
mình. Người ta chăm chú học hỏi để những phong phú tinh thần của người khác trở
thành của mình. Những điều tốt đẹp này vừa có ảnh hưởng, vừa hướng dẫn, tất cả
những gì liên quan đến học thuyết, các vấn đề về kinh tế, các tổ chức xã hội,
các trào lưu và thể chế chính trị, pháp chế, và sau cùng, các tổ chức khác, tất
cả những gì thiết lập nên và không ngừng làm phát triển cộng đồng nhân loại từ
bên ngoài (x. PT 36).
1887. Việc
đảo lộn các phương tiện với mục đích (x. CA 41) dẫn tới việc coi phương tiện
như mục đích tối hậu, hay xem những cá vị chỉ
là phương tiện để đạt mục đích.
Điều này sinh ra những cơ cấu bất công “làm cho cách sống Kitô giáo phù hợp với
các giới răn của Đấng làm Luật tối thượng, trở nên khó khăn, hoặc hầu như là
không thể” (x. Đức Piô XII, bài giảng ngày 1-6-1941).
1888. Vì
vậy, để đạt được những cải tổ xã hội thực sự giúp phục vụ con người, phải chạy
với đến với các khả năng tinh thần và luân lý của cá vị, và với sự đòi hỏi
thường xuyên là sự hối cải nội tâm của cá vị. Việc ưu tiên hối cải trái tim
không hề loại trừ. Nhưng trái lại, còn bắt buộc đem lại những lành mạnh hóa
thích hợp cho các cơ chế và điều kiện sống. Khi các cơ chế và điều kiện sống đó
đưa đến tội lỗi, để chúng trở thành phù hợp với các quy tắc của đức công bằng,
không chống đối nhưng củng cố điều thiện hảo (x. LG 36 ).
1889. Không
có sự trợ giúp của ân sủng, con người không biết ”khám phá ra con đường, thường
là nhỏ hẹp, giữa một bên là sự hèn nhát muốn nhượng bộ điều xấu và một bên là
sức mạnh, tự lừa dối mình rằng mình có thể chiến thắng điều xấu, nhưng thật sự
lại làm cho điều xấu nhân rộng thêm” (x. CA 25). Con đường đó là con đường của
đức mến, nghĩa là của lòng mến Chúa và yêu người. Đức mến là điều răn mang tính
xã hội cao nhất. Đức mến tôn trọng người khác và các quyền lợi của họ, Đức mến
đòi hỏi sự thực thi công bằng và chỉ có đức mến mới làm cho chúng ta có khả
năng thực hiện điều đó đức mến gọi hứng cho một cuộc đời tự hiến: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất,
còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được cho mạng sống” (Lc 17, 33).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1.
Chiều kích xã hội của con người là ở chỗ nào?
T. Con người không những được kêu gọi theo từng cá nhân để hưởng
hạnh phúc, nhưng còn có một chiều kích xã hội, tạo thành một yếu tố căn bản của
bản chất cũng như ơn gọi của mình. Thật vậy, tất cả mọi người đều được kêu gọi
đến một cùng đích chung là chính Thiên Chúa. Có một sự tương tự nào đó giữa sự
hiệp thông các ngôi vị Thiên Chúa mà con người phải thiết lập với nhau, trong
chân lý và tình yêu. Tình yêu đối với tha nhân không thể tách rời khỏi tình yêu
đối với Thiên Chúa.
2. Đâu
là mối tương quan giữa cá nhân với xã hội?
T. Nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định chế xã hội
là và phải là con người. Một số
xã hội, Chẳng hạn như gia đình và cộng đồng dân cư, rất cần thiết cho con
người. Các hiệp hội khác cũng hữu ích cho con người, cả trên bình diện quốc gia
cũng như trên bình diện quốc tế, nhưng phải tôn trọng nguyên tắc hỗ trợ.
3.
Nguyên tắc hỗ trợ là gì?
T. Nguyên tắc này có nghĩa là một xã hội ở cấp độ cao hơn không
được thâu tóm các phận vụ thuộc xã hội ở cấp độ thấp hơn, và cướp mất thẩm
quyền của xã hội cấp thấp này. Đúng hơn, xã hội cấp cao phải nâng đỡ xã hội cấp
thấp nhất là trong trường hợp cần thiết.
4. Một
cuộc chung sống đích thực của con người còn đòi buộc điều gì khác nữa?
T. Một cuộc chung sống đích thực của con người đòi buộc phải tôn
trọng sự công bằng, và bậc thang đúng đắng của các giá trị, do đó các chiều
kích thể lý và bản năng phải lệ thuộc các chiều kích nội tâm và tinh thần. Đặc
biệt, nơi nào tội lỗi làm băng hoại môi trường xã hội, phải kêu gọi sám hối tâm
hồn và kêu cầu đến ân sủng của Thiên Chúa, để có thể thay đổi xã hội hầu thực
sự phục vụ cho mỗi con người và toàn bộ con người . Đức ái là giới răn cao cả nhất mang tính xã
hội, vì đòi buộc sự công bằng và giúp thực hiện sự công bằng.
MỤC 2
THAM
GIA VÀO ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. QUYỀN BÍNH
1897. “Xã hội
loài người sẽ không thể được tổ chức tốt, cũng không thể thịnh vượng nếu không
có những người được trao quyền bính hợp pháp để gìn giữ các cơ chế và làm mọi
điều tích cực bảo trợ cho ích lợi của mọi phần tử” (x. PT 46). Được gọi là
quyền bính là tư cách nhờ đó những cá vị, hay những cơ chế đưa ra những luật lệ
và lệnh truyền cho người ta, và mong đợi người ta tuân phục.
1898. Mọi
cộng đoàn nhân loại đều cần có một quyền bính để quản trị nó (x. T.Lêô XIII
thông điệp “Immortale Dei”, thông điệp “Diuturnum illud”). Quyền bính này đặt
nền tảng trên bản tính nhân loại. Quyền bính cần thiết cho sự thống nhất của
cộng đồng dân sự. Nhiệm vụ của nó cốt tại việc bảo đảm tối đa cho công ích của
xã hội.
1899. Quyền
bính, theo trật tự luân lý đòi hỏi, phát xuất từ Thiên Chúa: “Mỗi người phải
phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và
những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối
quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc
lấy án phạt” (Rm 13,1-2) (x. 1Pr 2, 13-17).
1900. Bổn
phận vâng phục đòi buộc mọi người phải tôn trọng quyền bính cho xứng hợp; đối
với những người đang thực thi nhiệm vụ, phải tôn trọng và tùy công trạng của họ
mà tỏ lòng biết ơn và quí mến.
Hội Thánh còn giữ được bản kinh
của thánh Giáo Hoàng Clêmentê thành Rôma có một lời kinh cổ xưa nhất cầu cho
chính quyền (x. 1Tm 2,1-2):
“Lạy Chúa, xin ban cho họ
sức khỏe, bình an, hòa thuận và bền
vững, để họ thực thi đúng đắn quyền hành
Chúa đã trao cho họ. Lạy Chúa là Chủ tể, là Vua trời vĩnh cửu, chính Chúa ban
cho con cái loài người vinh quang, danh dự và quyền bính trên mọi vật trần thế.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn kế hoạch của họ theo điều gì là tốt là đẹp trước mặt
Chúa để thi hành một cách đạo đức nhiệm vụ mà Ngài đã trao cho, trong an bình
và quảng đại, họ nhận được ơn Chúa phù hộ” (Clémente de Rome, Cor 61,1-2).
1901. Một khi
quyền bính thuộc về trật tự do Thiên Chúa ấn định, thì “việc xác định thể chế
và việc chỉ định những người điều hành, phải được dành cho ý muốn tự do của các
công dân” (x. GS 74,3).
Sự khác nhau của các thể chế chính trị có
thể được chấp nhận về mặt luân lý miễn là các thể chế này phục vụ lợi ích chính
đáng của cộng đồng đã thừa nhận chúng. Các thể chế có bản chất trái ngược với
luật tự nhiên, với trật tự công cộng và với các quyền căn bản của con người,
thì không thể đem lại công ích cho những quốc gia bị áp đặt phải theo thể chế
đó.
1902. Quyền không rút ra tính hợp pháp luân lý tự chính mình.
Họ không được xử sự cách chuyên chế,
nhưng phải hành động vì công ích với tư cách là “một sức mạnh luân lý đặt nền tảng trên sự tự do
và ý thức trách nhiệm” (x. GS 74,2):
“Luật pháp nhân loại chỉ có
tính cách khi phù hợp với lẽ phải; và theo đó, rõ ràng là nó xuất phát từ “lề
luật vĩnh cữu”; khi xa lìa lẽ phải, nó được gọi là luật bất công, nó không còn
có tính cách là luật, nhưng đúng hơn nó mang tính cách bạo lực (T.Tôma aquinô,
Tổng Luận Thần Học 1-2,93,3.2).
1903. Quyền bính chỉ được thực thi một cách hợp
pháp khi mưu cầu công ích của tập thể liên hệ và dùng những phương tiện được
phép về mặt luân lý để đạt được công ích đó. Nếu các nhà lãnh đạo đưa ra những
luật bất công hay sử dụng những biện
pháp trái luân lý, thì những mệnh lệnh đó không thể bắt buộc lương tâm.
“Trong trường hợp này, quyền bính không
còn hiệu lực và trở thành một lạm dụng đáng xấu hổ” (x. PT 51).
1904 . “Vì vậy, tốt hơn là mọi quyền hành phải được quân bình
với những quyền hành khác và những thẩm quyền khác, để gìn giữ những giới hạn
của nó. Đó là nguyên tắc ‘Nhà Nước pháp chế’; trong đó luật pháp là tối thượng
chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người” (x. CA 44).
II. CÔNG ÍCH
1905. Theo
tính xã hội của con người, lợi ích cá nhân tất nhiên được liên kết với công
ích. Công ích chỉ có thể được định nghĩa
trong tương quan với nhân vị :
“Các bạn đừng sống cô lập hay
khép kín nơi mình, như thể các bạn đã được công chính hóa rồi, nhưng hãy hợp
lại nên một để cùng tìm kiếm điều hữu ích cho mọi người” (x. Thư Banabê 4,10).
1906. Phải
hiểu “công ích” là “toàn thể những điều kiện của đời sống xã hội giúp cả những
tập thể, cả những phần tử riêng rẽ, đạt tới sự hoàn hảo riêng của mình một cách
đầy đủ và dễ dàng hơn (x. GS 26,1; 74,1)”. Công ích liên quan đến đời sống của
mọi người, nó đòi hỏi mỗi người phải khôn ngoan, nhất là những ai đang cầm
quyền. Công ích gồm ba yếu tố căn bản:
1907. Trước
hết, công ích giả thiết phải tôn trọng cá vị theo đúng nghĩa. Vì công ích, các
nhà cầm quyền phải tôn trọng các quyền căn bản và bất khả nhượng của nhân vị.
Xã hội phải để cho mỗi thành viên thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, công ích
nằm trong những điều kiện để thực thi các sự tự
do tự nhiên, các sự tự do đó cần thiết để ơn gọi nhân linh được phát
triển “như quyền hành động theo qui tắc ngay thẳng của lương tâm mình, quyền bảo vệ đời tư và quyền tự do chính đáng, cả trong
vấn đề tôn giáo” (x. GS 26,2).
1908. Thứ
hai, công ích đòi hỏi sự thịnh vượng xã hội và sự phát triển của chính tập thể.
Sự phát triển tóm kết tất cả mọi trách nhiệm xã hội. Vì công ích, quyền bính có nhiệm vụ phân xử giữa các
quyền lợi riêng tư khác nhau; nhưng quyền bính phải giúp mỗi người có được
những gì cần thiết để có được một cuộc sống thực sư nhân bản: lương thực, áo
quần, sức khỏe, việc làm, giáo dục và văn hóa, được thông tin đầy đủ, quyền xây dựng một gia đình v.v...
1909. Cuối
cùng, công ích bao hàm hòa bình, nghĩa là sự bền vững, sự an ninh của một trật
tự chính đáng. Vì vậy, công ích giả thiết rằng quyền bính bằng những phương
tiện trung thực, phải bảo đảm an ninh cho xã hội và cho các thành viên của xã
hội. Công ích thiết lập quyền tự vệ chính đáng của cá vị và tập thể.
1910. Nếu
mỗi cộng đồng nhân loại đều có một công ích cho phép mình nhận biết mình theo
đúng nghĩa, thì người ta thấy sự hoàn thành đầy đủ nhất của một công ích như
vậy trong cộng đồng chính trị. Nhà Nước có nhiệm vụ bảo vệ và thăng tiến công ích của xã hội dân sự, của các công dân và các tổ chức trung gian.
1911. Những lệ thuộc giữa nhưng con người với nhau trở
nên chặt chẽ hơn. Những lệ thuộc đó dần dần được mở rộng khắp thế giới. Sự hơp
nhất của gia đình nhân loại, khi quy tụ những thành viên có cùng một phẩm giá
theo bản tính, đòi hỏi một công ích phổ quát. Công ích này đòi sự tổ chức của
cộng đồng các quốc gia, “có khả năng đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con
người trong các lãnh vực của đời sống xã hội như thực phẩm, sức khỏe, giáo
dục...cũng như trong một số hoàn cảnh đặc biệt có thể xảy ra nơi này nơi khác,
như làm nhẹ bớt những khốn khổ của những người tị nạn rải rác khắp thế giới
hoặc giúp đỡ cho những người di cư và gia đình họ...” (x. GS 84,2).
1912. Công
ích luôn hướng tới việc thăng tiến con người: “trật tự của các sự vật phải lệ
thuộc vào trật tự của các cá vị chứ không ngược lại” (x. GS 26,3). Trật tự này
đặt nền tảng trong chân lý, được thiết lập trong công bằng, được có sự sống
bởi tình yêu.
III. TRÁCH NHIỆM VÀ SỰ THAM GIA
1913. Tham gia là sự dấn thân tự nguyện và quảng đại của cá vị
vào những giao dịch xã hội. Cần thiết là, tất cả mọi người phải tham gia vào
việc mưu cầu công ích, mỗi người theo địa vị và vai trò mình đảm nhận. Bổn phận
này gắn với phẩm giá của nhân vị.
1914. Trước
hết sự tham gia được thể hiện bằng việc đảm nhận nhiệm vụ trong các phần việc
thuộc trách nhiệm cá vị: khi quan tâm chăm sóc gia đình mình, khi làm việc của
mình một cách có lương tâm, là con người tham gia vào công ích của những người
khác và của xã hội.
1915. Các
công dân phải tích cực tham gia càng nhiều càng tốt vào đời sống cộng đồng.
Cách tham gia có thể khác nhau từ nước này đến nước khác, hoặc từ nền văn hóa
này đến nền văn hóa khác “Phải khen ngọi đường lối hành động của những quốc gia đang để cho các công dân được tham
gia tối đa vào việc nước trong sự tự do đích thực” (x. GS 31,3).
1916. Cũng
như mọi bổn phận đạo đức, sự tham gia của mọi người trong việc hoạt động cho
công ích, bao hàm sự hối cải không ngừng được canh tân của các thành viên của
xã hội. Phải kết án sự gian lận và những mánh lới khác mà một số người dùng để
trốn tránh các đòi buộc của luật pháp và các quy định của bổn phận xã hội, vì
chúng không thể đi đôi với những đòi hỏi của đức công bằng. Phải quan tâm phát
triển những cơ chế giúp cải thiện các điều kiện của đời sống con người (x. GS
30,1).
1917. Những
người cầm quyền đang thực thi nhiệm vụ của quyền bính có bổn phận khẳng định
những giá trị đem lại sự tín nhiệm nơi các thành viên của tập thể, và khuyến
khích họ tham gia phục vụ đồng loại của mình. Sự tham gia bắt đầu từ việc giáo
dục và văn hóa. Chúng ta có lý do chính đáng để nghĩ rằng: “tương lai nhân loại
nằm trong tay những người có khả năng trao cho các thế hệ đến sau những lý do
để sống và để hy vọng” (x. GS 31,3).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1.
Quyền bính trong xã hội được đặt trên nền tảng nào?
T. Mọi cộng đồng nhân loại đều
cần có một quyền bính hợp pháp để đảm bảo trật tự và góp phần vào việc phục vụ
công ích. Quyền bính này đặt nền tảng trên bản tính con người, vì phù hợp với
trật tự được Thiên Chúa thiết lập.
2. Khi
nào quyền bính được thực thi hợp pháp?
T. Quyền bính được thực thi cách hợp pháp khi hoạt động vì công
ích và sử dụng các phương tiện được phép về mặt luân lý để đạt được công ích ấy.
Vì thế, các thể chế về chính trị phải được thiết lập do quyết định tự do của
các công dân và họ phải tuân giữ nguyên tắc “Nhà nước pháp chế”, trong đó luật
pháp là tối thượng chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người. Các luật lệ
bất công và các biện pháp trái nghịch với trật tự luân lý không bó buộc lương
tâm con người.
3. Công
ích là gì?
T. Công ích được hiểu là toàn thể những điều kiện của đời sống xã
hội cho phép các nhóm và cá nhân đạt tới sự hoàn hảo của mình.
4. Công
ích bao gồm những điều gì?
T. Công ích bao gồm: sự tôn trọng và phát huy các quyền lợi căn
bản của con người, việc phát triển các lợi ích tinh thần và vật chất của con
người cũng như xã hội, hòa bình và an ninh cho tất cả mọi người.
5. Ở
đâu công ích được thực hiện một cách đầy đủ nhất?
T. Công ích được thực hiện một cách đầy đủ nhất trong các cộng
đồng chính trị nào bảo vệ phát huy thiện ích cho các công dân và các tổ chức
trung gian, mà không quên thiện ích phổ quát của gia đình nhân loại.
6. Con
người tham gia vào việc thực hiện công ích như thế nào?
T. Tùy theo địa vị và vai trò
đảm nhận, mỗi người phải góp phần vào việc cổ vũ công ích: bằng việc tôn trọng
các luật công bằng, và dấn thân vào những lĩnh vực mà cá nhân họ có trách
nhiệm, như chăm sóc gia đình và dấn thân trong công việc của mình chừng nào có
thể. Các công dân cũng phải tích cực tham gia vào đời sống cộng đồng.
MỤC 3
CÔNG
BẰNG XÃ HỘI
1928. Xã hội
bảo đảm công bằng xã hội khi tạo điều kiện để các đoàn thể và mỗi cá nhân có
được những gì họ có quyền hưởng theo bản tính và ơn gọi của họ. Công bằng xã
hội liên kết với công ích và với việc thực thi quyền bính.
I. TÔN TRỌNG NHÂN VỊ
1929. Không thể có công bằng xã hội, nếu không có sự tôn
trọng phẩm giá siêu việt của con người. Nhân vị là mục đích tối hậu của xã hội,
vì xã hội được quy hướng về nhân vị :
“Việc bảo vệ và thăng tiến phẩm
giá nhân vị được Đấng Tạo Hóa ủy thác cho chúng ta và bất cứ ở thời đại nào
trong lịch sử, các người nam và người nữ đều mắc nợ về điều đó, vì nhiệm vụ đã
lãnh nhận” (x. SRS 47).
1930. Sự tôn trọng nhân vị bao hàm các quyền phát xuất
từ phẩm giá của nhân vị xét như một thụ
tạo. Các quyền đó có trước xã hội và được ấn định cho xã hội. Các quyền bính đó
đặt nền cho tính hợp pháp về mặt luân lý của mọi quyền bính. Khi khinh miệt hay
phủ nhận các quyền đó trong luật thiết
định của mình là xã hội phá hủy tính hợp pháp về mặt luân lý của chính mình (x.
PT 65). Không có sự tôn trọng như vậy, quyền bính chỉ có thể dựa trên sức mạnh
hay bạo lực, để bắt buộc những người dưới quyền mình phải tùng phục. Hội thánh
có bổn phận nhắc nhở những người thiện chí về những quyền này và phân biệt
chúng với những yêu sách thái quá hoặc sai lầm.
1931. Để tôn
trọng nhân vị phải tôn trọng nguyên tắc này: “Mỗi người phải coi người lân cận,
không trừ một ai, như “cái tôi thứ hai” của mình, nên trước hết phải quan tâm
đến sự sống của họ và những phương tiện cần thiết giúp họ sống xứng đáng với
nhân phẩm” (x. GS 27,1). Không một luật pháp nào tự mình có thể xóa bỏ được các
nỗi sợ hãi, những thành kiến, những thái
độ kiêu căng và ích kỷ, vẫn ngăn trở việc xây dựng những xã hội thực sự huynh
đệ. Những thái độ đó chỉ chấm dứt nhờ đức mến là nhân đức nhận ra mỗi người đều
là người “lân cận”, là anh em.
1932. Bổn phận “trở nên người lân cận” của người khác và tích
cực phục vụ họ lại càng khẩn thiết hơn, khi họ nghèo khổ hơn trong về bất cứ
phương diện nào. “Mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã
làm cho chính Ta vậy” (x. Mt
25,40).
1933. Bổn
phận này được mở rộng tới những người suy nghĩ hay hành dộng khác với chúng ta.
Giáo huấn của Đức Kitô đòi buộc phải tha thứ mọi xúc phạm. Giáo huấn đó còn mở
rộng giới răn yêu thương, là nét độc đáo của lề luật mới đến tất cả các kẻ thù.
(x.Mt 5,43-44). Sự giải phóng theo tinh thần Tin Mừng không đi đôi với với sự
oán ghét kẻ thù, xét như một cá vị, nhưng phải oán ghét điều xấu mà người, xét
như kẻ thù đã làm.
II. SỰ BÌNH ĐẲNG VÀ NHỮNG KHÁC
BIỆT GIỮA CON NGƯỜI
1934. Tất
ca mọi người được tạo dựng theo hình ảnh
Thiên Chúa duy nhất, được phú ban một linh hồn có lý trí như nhau, nên có cùng
một bản tính và cùng một nguồn gốc, được cứu chuộc nhờ hy tế của Đức Kitô, mọi
người được mời gọi tham dự cùng một vinh phúc thần linh, vì vậy mọi người đều
được hưởng cùng một phẩm giá.
1935. Sự bình đẳng giữa con người với nhau chủ yếu dựa trên
nhân phẩm cá vị và các quyền phát xuất từ phẩm giá đó:
“Trong
những quyền căn bản của cá vị, phải vượt lên trên và loại bỏ mọi cách thức kỳ
thị hoặc xã hội hoặc văn hóa, phái tính, chủng tộc, màu da, địa vị xã hội, ngôn
ngữ hoặc tôn giáo, vì như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa” (x. GS 29,2).
1936. Khi
chào đời, con người không có tất cả những gì
cần thiết để phát triển đời sống thể xác và tinh thần của mình. Con
người cần đến những người khác. Những khác biệt đã xuất hiện về tuổi tác, về
những khả năng thể lý, về những khả năng trí tuệ và luân lý, về những trao đổi
mà mỗi người đã có thể có được, về sự phân phối của cải. Những “nén bạc” không
được phân phối một cách bằng nhau. (x.Mt 25,14-3; Lc 19,11-27)
1937. Những
khác biệt này nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Đấng muốn người này đón
nhận những gì mình cần từ người khác. Và muốn những ai lãnh được những “nén bạc” đặc biệt, phải biết thông
truyền chúng cho những người cần đến chúng. Các khác biệt khuyến khích và nhiều
khi đòi buộc các cá vị sống quảng đại nhân hậu và chia sẻ, chúng cũng thúc đẩy
các nền văn hóa làm phong phú lẫn nhau:
“Taị sao cha lại ban những nhân
đức khác nhau như vậy, mà không ban mọi nhân đức cho một người, nhưng ban nhân
đức này cho người này, nhân đức kia cho kẻ khác? … Cha đặc biệt sẽ ban cho
người này đức mến; người khác đức công bằng; kẻ này đức khiêm nhường, kẻ kia
đức tin sống động…. Và như vậy Cha đã ban nhiều hồng ân và ân sủng, cả thiêng
liêng cả trần thế … Cha đã ban mọi sự cách rất không đồng đều, Cha không ban
mọi sự cho một người, để các con nhất thiết có cơ hội thực thi bác ái, người
này đối với người kia; … Cha đã muốn có người này cần đến người khác và là thừa
tác viên của Cha để phân phát các ân sủng và hồng ân mà họ đã lãnh nhận từ nơi
Cha” (Thánh Catarina Siêna, Il dialogo della Divina provvidenza, 7: ed. G.
Cavallini (Roma 1995) 23-24).
1938. Nhưng
cũng có những sự bất bình đẳng bất
công mà hàng triệu người nam và nữ phải gánh chịu. Những bất bình đẳng
đó rõ ràng nghịch lại với Tin Mừng:
“Phẩm giá bình đẳng của các cá vị đòi hỏi rằng điều kiện của đời sống
phải trở nên nhân bản hơn và bình đẳng. Thật vậy, những bất bình đẳng thái quá
về kinh tế và xã hội giữa những thành phần hay giữa những dân tộc của một gia
đình nhân loại duy nhất là một cớ vấp phạm, và đi ngược với sự công bằng xã
hội, công lý, phẩm giá của nhân vị và nền hòa bình xã hội và quốc tế” (CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 29: AAS 58
(1966) 1049).
III. TÌNH LIÊN ĐỚI NHÂN LOẠI
1939.
Nguyên tắc liên đới, còn được gọi là nguyên tắc của “tình thân nghĩa” hay ”bác
ái xã hội”, là một đòi hỏi trực tiếp của
tình huynh đệ nhân bản và Kitô giáo (x. SRS 38-40;CA 10 ).
“Điều sai lầm đầu tiên, mà ngày
nay đang phổ biến một cách rộng rãi và nguy hiểm, là người ta quên mất quy luật
của tình liên đới nhân loại và của đức mến, quy luật này được thiết đặt và bắt
buộc vừa do nguồn gốc chung của chúng ta và do sự bình đẳng của bản tính có lý
trí của mọi người, dù thuộc bất cứ dân tộc nào, vừa do hy tế cứu chuộc Chúa
Giêsu dâng lên Chúa Cha vĩnh cửu, nơi bàn thờ thập giá, vì nhân loại tội lỗi (ĐGH
Pi-ô XII, thông điệp Summi Pontificatus).
1940. Tình
liên đới trước hết được biểu lộ qua việc phân phối của cải và việc trả lương
lao động. Tình liên đới cũng bao hàm sự nỗ lực cho một trật tự xã hội công bằng
hơn, trong đó những căng thẳng có thể được giải quyết tốt hơn và chúng có thể
gặp được giải pháp liên kết dễ dàng hơn.
1941. Những
vấn đề xã hội và kinh tế không thể được giải quyết nếu không có sự trợ giúp của
mọi hình thức liên đới: liên đới giữa những người nghèo với nhau, giữa người
giàu với người nghèo, giữa những người lao động với nhau, giữa chủ và thợ trong
xí nghiệp, liên đới giữa các quốc gia và giữa các dân tộc. Tình liên đới quốc
tế là một đòi hỏi của trật tự luân lý. Hòa bình thế giới cũng một phần tùy
thuộc tình liên đới này.
1942. Nhân
đức liên đới vượt quá phạm vi các của cải vật chất. Khi phân phát các của cải
tinh thần của đức tin, Hội Thánh đã giúp phát triển những của cải trần thế nhiều
hơn nữa, Hội Thánh đã thường mở ra những con đường mới cho cuộc phát triển này.
Như vậy, qua dòng thời gian, Lời Chúa đã được thực hiện: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và
đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho” (Mt
6, 33) :
“Hai ngàn năm qua, trong linh
hồn Hội Thánh, vẫn có một tâm tình sống động
đã và đang thúc đẩy nhiều người sống đời bác ái đến mức anh hùng các đan
sĩ cày sâu cuốc bẫm, những nhà giải
phóng nô lệ, những người chữa trị bệnh nhân, các sứ giả mang đức tin, văn minh
và khoa học đến với mọi thế hệ và dân tộc, nhằm tạo ra những điều kiện xã hội
có khả năng giúp mọi người có được một
đời sống xứng đáng với phẩm giá con người và phẩm giá Kitô hữu ( x.
Pi-ô XII, diễn từ ngày 1-6-1991).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Làm thế nào để xã hội bảo đảm được công bằng xã hội?
T. Xã hội
bảo đảm được công bằng xã hội khi tôn trọng phẩm giá và những quyền lợi con
người; đó chính là mục đích thực sự của xã hội. Ngoài ra, xã hội tìm kiếm công
bằng xã hội, là điều liên hệ đến công ích và việc thực thi quyền hành, khi xã
hội tạo điều kiện để các hiệp hội và các cá nhân đạt được những gì thuộc về
quyền lợi của họ.
2. Đâu
là nền tảng sự bình đẳng giữa người và người?
T. Mọi người đều được hưởng sự bình đẳng về phẩm giá và những
quyền lợi căn bản, vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa duy nhất và
được phú cho một linh hồn có lý trí. Họ có chung một bản tính và một nguồn gốc,
và trong Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất được mời gọi chung hưởng hạnh phúc
với Thiên Chúa.
3.
Chúng ta đánh giá những bất bình đẳng giữa con người như thế nào?
T. Có những sự bất bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội ảnh hưởng
trên hàng triệu con người. Những bất bình đẳng này đi ngược lại cách công khai
với Phúc Âm và đối nghịch với công bằng, với phẩm giá con người và với hòa
bình. Nhưng cũng có những khác biệt giữa con người, do những nhân tố khác nhau
thuộc kế hoạch của Thiên Chúa. Thật vậy, Thiên Chúa muốn rằng người này nhận ở
người kia những gì họ cần thiết và những ai có những “nén bạc” đặc biệt, nên
chia sẻ với những người khác. Những sự khác biệt này khuyến khích và nhiều khi
bắt buộc con người phải sống hào hiệp, nhân từ và chia sẻ. Chúng cũng thúc đẩy
các nề văn hóa làm phong phú lẫn nhau.
4. Tình liên đới nhân loại được
biểu lộ như thế nào?
T. Xuất phát từ tình huynh đệ nhân bản và Kitô giáo, tình liên đới
trước hết được biểu lộ trong việc phân phối hợp lý các của cải, trong việc trả
lương lao động một cách công bằng và trong việc dấn thân cho một trật tự xã hội
công bằng hơn. Nhân đức liên
đới được thực hiện qua việc chia sẻ các của cải tinh thần của đức tin, điều này
còn quan trọng hơn là các của cải vật chất.
CHƯƠNG
BA
ƠN CỨU
ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
LỀ LUẬT
VÀ ÂN SỦNG
1949. Con
người, được kêu gọi tới hưởng vinh phúc, nhưng bị tổn thương bởi tội lỗi, nên
cần ơn cứu độ của Thiên Chúa. Sự trợ giúp thần linh đến với con người trong Đức
Kitô, nhờ Lề luật để hướng dẫn họ, và trong ân sủng để nâng đỡ họ :
“Anh
em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa
tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Ngài”
(Pl 2,12-13).
MỤC 1
LUẬT
LUÂN LÝ
1950. Luật
luân lý là công trình của đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Theo nghĩa Thánh Kinh,
luật này có thể được định nghĩa như lời dạy dỗ của một người cha, như một khoa
sư phạm của Thiên Chúa. Luật luân lý quy định cho con người những con đường,
những quy tắc hành động dẫn đưa họ tới vinh phúc Thiên Chúa đã hứa, và ngăn cấm
những con đường dẫn đến sự dữ khiến con người xa lìa Thiên Chúa và tình yêu của
Ngài. Luật luân lý đồng thời vừa kiên định trong các mệnh lệnh của nó, vừa đáng
mến trong các lời hứa của nó.
1951. Luật
là một quy tắc hành động được quyền bính có thẩm quyền công bố vì công ích.
Luật luân lý giả thiết một trật tự hữu lý được thiết lập giữa các thụ tạo, vì
lời ích của chúng và nhằm vào mục đích của
chúng, do quyền năng, sự khôn ngoan và sự tốt lành của Đấng Tạo Hóa. Mọi luật
đều gặp được chân lý đầu tiên và tối hậu của mình trong Lề Luật vĩnh cửu. Luật
được công bố và thiết lập bởi lý trí, xét như việc tham gia vào sự quan phòng
của Thiên Chúa hằng sống, là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc mọi người. “Luật
được mệnh danh là chỉ thị của lý trí” (Lê-ô
XIII ).
“Trong tất cả các sinh linh,
chỉ con người được vinh dự, là chỉ con người xứng đáng đón nhận Lề Luật từ
Thiên Chúa, và như một sinh vật có lý trí, có khả năng để hiểu biết và nhận
định, con người phải dùng chính sự tự do có lý trí mà suy phục Đấng đã bắt mọi
sự suy phục mình” (Tertullien, Marc. 2,4).
1952. Có
những cách diễn tả khác nhau của Luật luân lý, và thật sự, tất cả đều liên kết
với nhau: Lề luật vĩnh cửu, là nguồn mạch của mọi luật trong Thiên Chúa; luật
tự nhiên; Luật được mạc khải gồm Luật cũ và Luật mới hoặc Luật Tin Mừng; sau
cùng là các dân luật và giáo luật.
1953. Luật
luân lý gặp được sự viên mãn và sự thống nhất của mình trong Đức Kitô. Chúa
Giêsu Kitô là con đường của sự trọn hảo. Chính Người là mục đích của Lề Luật,
bởi vì chỉ có Người dạy dỗ và ban sự công chính của Thiên Chúa. “Cứu cánh của
lề luật là Đức Kitô, khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính” (Rm 10,4).
I. LUẬT LUÂN LÝ TỰ NHIÊN
1954. Con người được tham dự vào sự khôn ngoan và sự tốt lành
của Đấng Tạo Hóa, Đấng đã cho họ quyền làm chủ mọi hành vi của họ và khả năng
tự hướng đến chân lý và điều thiện. Luật tự nhiên diễn tả cảm thức luân lý
nguyên thủy, nhờ đó con người dùng lý
trí mà phân định điều gì là tốt và điều gì là xấu, điều gì là chân lý và điều
gì là dối trá:
“Luật tự nhiên đã được viết và
được ghi khắc trong tâm hồn mỗi người, bởi vì chính lý trí con người ra lệnh
hành động một cách ngay thẳng và tránh phạm tội. Nhưng quy định này của lý trí
con người không thể có giá trị là luật, nếu nó không phải tiếng nói và thông
dịch viên của một lý trí cao hơn, mà tâm trí và tự do của chúng ta đều phải suy phục” (Lê-ô XIII ).
1955. Luật
thần linh và tự nhiên (x. GS 89,I)
vạch cho con người thấy con đường phải theo để thực thi điều tốt và đạt tới mục
đích của mình. Luật tự nhiên nêu ra những mệnh lệnh đầu tiên và căn bản điều
khiển đời sống luân lý. Luật tự nhiên có nền tảng là tâm tình khao khát và quy
phục Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch và thẩm phán của mọi điều thiện hảo, và
cũng có nền tảng là cảm thức về tha nhân như người bình đẳng với mình. Luật này
được trình bày thành những điều răn chính trong Mười Điều Răn. Luật này được
gọi là tự nhiên, không phải vì liên quan đến những hữu thể không có lý trí,
nhưng bởi vì lý trí được công bố luật đó thuộc riêng về bản tính nhân linh:
“Các quy luật này được ghi chép
ở đâu nếu không phải là trong quyển sách
của thứ ánh sáng được gọi là chân lý? Đó là nơi mọi lề luật chính đáng được
viết ra, từ đó được chuyển vào trái tim con người để họ thực sự thi sự công
chính. Luật này không phải di cư vào trái tim con người, nhưng như được in vào
đó, cũng như hình ảnh từ một chiếc nhẫn ấn trên sáp mà không rời bỏ chiếc nhẫn”
(T Âu-tinh, Chúa Ba Ngôi 14,15,21 ).
“Luật tự nhiên không gì khác là
ánh sáng trí tuệ do Thiên Chúa đặt trong ta; nhờ đó, chúng ta nhận biết điều
phải làm và điều phải tránh. Thiên Chúa đã ban ánh sáng này và luật này cho con
người trong công trình tạo dựng” (T.Tô-ma A-qui-nô 1).
1956. Hiện
diện trong trái tim mỗi người và được thiết lập bởi lý trí, luật tự nhiên có
giá trị phổ quát trong các mệnh lệnh của nó, và quyền bính của nó trải
rộng đến tất cả mọi người. Luật này diễn tả phẩm giá của nhân vị và đặt nền
tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của nhân vị:
“Thật sự có một luật chân thật
là lẽ phải, phù hợp với bản tính, được tuôn đổ trong mọi người, bền vững, vĩnh cửu,
nó kêu gọi bổn phận phải thi hành, nó ngăn cản sự gian lận phải xa lánh…Thay
luật này bằng một luật nghịch lại là phạm thánh, không được phép rút bỏ điều gì
khỏi luật này, và cũng không thể hoàn toàn hủy bỏ luật này” (Cicéron 3,22,33).
1957. Việc áp dụng luật tự nhiên rất đa dạng; có thể suy nghĩ
để thích ứng với những điều kiện đa dạng của đời sống, tùy theo nơi chốn,
thời đại và hoàn cảnh. Tuy nhiên, trong
sự khác biệt của các nền văn hóa, luật tự nhiên vẫn là một quy tắc nối kết con
người với nhau, ấn định những nguyên tắc chung, trừ những khác biệt không thể
tránh khỏi.
1958. Luật tự
nhiên là bất biến (x. GS 10) và trường tồn qua mọi thay đổi của
lịch sử. Nó tồn tại qua những trào lưu tư tưởng và tập tục, và nâng đỡ sự phát
triển của chúng. Những quy tắc diễn tả luật tự nhiên, về bản chất vẫn luôn có
hiệu lực. Mặc dầu những nguyên lý của luật tự nhiên có bị chối bỏ, thì chính nó
cũng không thể bị hủy diệt và không thể bị gạt ra khỏi trái tim con người. Luật
tự nhiên luôn trỗi dậy trong đời sống của các cá nhân và các xã hội:
“Lạy Chúa, chắc chắn tội trộm
cắp bị trừng phạt bởi Lề luật của Chúa, và bởi luật đã được ghi trong trái tim
con người, luật mà chính sự gian ác cũng không xóa bỏ được” (T.Âu-tinh, tự
thuật 2,4,9 ).
1959. Luật
tự nhiên là công trình tốt nhất của Đấng Tạo Hóa, mang lại những nền tảng vững
chắc, trên đó con người có thể xây dựng tòa nhà là các quy luật luân lý hướng
dẫn những chọn lựa của họ. Luật tự nhiên cũng đặt nền móng luân lý hết sức cần
thiết để xây dựng cộng đoàn nhân loại. Và sau cùng, nó cung cấp nền móng cần
thiết cho luật dân sự, luật này được quy chiếu về luật tự nhiên, hoặc bằng cách
suy nghĩ để rút ra những kết luận từ các nguyên tắc của luật tự nhiên, hoặc
bằng những bổ sung mang tính chất thiết định và pháp lý.
1960. Những
mệnh lệnh của luật tự nhiên không được mọi người nhận thức một cách rõ ràng và
trực tiếp. Trong điều kiện hiện tại, ân sủng và Mạc khải là cần thiết cho con
người tội lỗi, để các chân lý tôn giáo và luân lý “có thể được nhận biết bởi
mọi người một cách không chút trở ngại, một cách chắc chắn vững vàng, và không
pha trộn một sai lầm nào” (Pi-ô XII, Humani
generis :DS 3876). Luật tự nhiên mang lại cho lề luật được mạc khải
cho ân sủng một nền tảng, đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn và phù hợp với công cuộc
của Thần Khí.
II. LUẬT CŨ
1961. Thiên
Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ của chúng ta, đã chọn Israel như dân riêng
của Ngài, và đã mặc khải cho họ Lề Luật của Ngài và như vậy chuẩn bị cho cuộc Ngự đến của Đức Kitô. Luật Môisen
diễn tả nhiều chân lý mà lý trí có thể đạt tới một cách tự nhiên. Người ta gặp
các chân lý này được công bố và được chứng thực trong Giao ước cứu độ.
1962. Luật cũ
là cấp độ đầu tiên của Lề Luật được mạc khải. Các quy định luân lý của luật cũ
được tóm lại trong Mười Điều Răn. Các mệnh lệnh của Mười Điều Răn đặt nền tảng cho ơn gọi của con người, vốn được
tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Các điều răn đó ngăn cấm những gì nghịch lại
tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, và quy định những đòi hỏi
căn bản của tình yêu đó. Mười Điều Răn là ánh sáng được ban tặng cho lương tâm
của mỗi người, giúp họ nhận ra lời kêu gọi của Thiên Chúa, và những con đường
Ngài biểu lộ cho họ, và bảo vệ họ khỏi điều xấu :
“Thiên
Chúa đã viết trên bảng Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong
trái tim mình” (FT. Âu-tinh, 57 ).
1963. Theo
truyền thống Kitô giáo, Lề Luật thì thánh thiện (x.Rm 7,12), thiêng liêng (x. Rm 7,14) và tốt lành (x. Rm
7,16) nhưng vẫn chưa trọn hảo. Như một nhà sư phạm (x. Gl 3,24), luật đó
cho thấy điều phải làm, nhưng tự nó không ban sức mạnh, ân sủng của Thần Khí để
người ta chu toàn nó. Vì không xóa được tội lỗi, nên luật cũ vẫn còn là luật
của tình trạng nô lệ. Theo thánh Phao-lô, luật cũ có nhiệm vụ tố cáo và vạch trần tội lỗi, vì tội lỗi tạo ra thứ ”luật của dục vọng” (x.
Rm 7) trong trái tim con người. Tuy nhiên, Lề Luật vẫn là chặng đầu tiên
trên con đường dẫn đến Nước Trời. Nó
chuẩn bị và giúp dân Chúa chọn và mỗi Kitô hữu sẵn sàng để hối cải và tin vào
Thiên Chúa Cứu Độ. Với tính cách là lời của Thiên Chúa, Luật cũ đem lại đạo lý
tồn tại đến muôn đời.
1964. Luật cũ
là một sự chuẩn bị nào đó cho Tin Mừng. “Lề Luật là môn sư phạm và lời tiên báo về
các điều sẽ đến” (T. Irenê, chống lạc giáo 4,15,1). Luật cũ nói tiên tri
và báo trước công trình giải phóng khỏi tội lỗi sẽ được hoàn thành với Đức
Kitô, cung cấp cho Tân Ước những hình ảnh, “những tiên trưng”, những biểu tượng, để diễn tả đời sống theo Thần Khí.
Cuối cùng, luật được kiện toàn bởi đạo lý của các sách khôn ngoan và các Tiên
Tri, các vị này quy hướng luật cũ tới Giao ước Mới và Nước Trời.
“Dưới chế độ của Giao Ước Cũ,
nhiều người đã có được đức mến và ân
sủng của Chúa Thánh Thần và mong chờ những lời hứa thiêng liêng và vĩnh cửu. Và
nhờ đó, họ đã được liên kết với Luật mới. Ngược lại, trong thời Giao Ước Mới,
lại có những con người vẫn sống theo xác thịt, chưa đạt tới sự trọn hảo của
Luật mới, vậy những người trong thời Giao Ước Mới này phải được dẫn tới các
cộng việc nhân đức bằng sự sợ hãi các hình phạt, và bằng những lời hứa thần thế
nào đó. Dù Luật cũ có dạy các điều răn của đức mến, nhưng Chúa Thánh Thần không
được ban xuống nhờ luật đó, mà nhờ Chúa Thánh Thần, “Thiên Chúa đã đổ tình yêu
của Ngài vào lòng chúng ta” (Rm 5,5) (T.Tô-ma A-qui-nô 1-2, 107,1,2).
III. LUẬT MỚI HAY LUẬT TIN MỪNG
1965. Luật
mới hay luật Tin Mừng là sự trọn hảo nơi trần thế của Luật thần linh, tự nhiên
và được mạc khải. Đây là công trình của Đức Kitô, được trình bày cách đặc biệt
trong Bài giảng trên núi. Đây cũng là công trình của Chúa Thánh Thần, và nhờ Ngài,
nó trở thành luật nội tâm của đức mến: “Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà
Israel và nhà Giuđa...Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng còn chúng sẽ là Dân của Ta” (Dt 8,6-10) (x. Gr 31,31-34 ).
1966. Luật
mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần
được ban cho các tín hữu nhờ tin vào Đức Kitô. Luật này hoạt động nhờ đức mến, và dùng Bài giảng trên núi của Chúa để
dạy chúng ta điều phải làm, và dùng các bí tích để truyền thông ân sủng giúp chúng
ta thực hiện điều đó:
“Nếu ai
sốt sắng và bình tâm suy niệm bài giảng được Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô
công bố trên núi, như chúng ta đọc trong sách Tin Mừng theo thánh Matthêu, tôi
nghĩ rằng người đó sẽ gặp được ở đó, vì là những lời răn dạy tốt nhất, một quy
luật trọn hảo của đời sống Kitô hữu. Bài giảng này chứa đựng tất cả những mệnh
lệnh mà nhớ đó đời sống Kitô hữu được nặn đúc nên” (T. Âu-tinh bài
giảng 1,1)
1967. Luật
Tin Mừng hoàn thành (X.Mt 5,17-19), tinh luyện, vượt qua và kiện toàn
Luật cũ. Trong các mối phúc, Luật mới hoàn thành các lời hứa thần linh
khi nâng cao chúng lên và quy hướng
chúng về “Nước Trời”. Luật Tin Mừng dành cho những ai sẵn sàng đón nhận niềm hy
vọng mới này với lòng tin: những người nghèo, người khiêm tốn, người đau khổ,
người có trái tim trong sạch, người bị bách hại vì Đức Kitô, như vậy Luật Tin
Mừng phác họa những con đường chưa từng thấy của Nước Trời.
1968. Luật
Tin Mừng hoàn thành các mệnh lệnh
của Lề Luật. Bài giảng của Chúa không hủy bỏ hay làm giảm giá trị các qui định
luân lý của Luật cũ, nhưng rút ra những sức mạnh còn ẩn kín của chúng, và làm
cho từ nơi chúng phát sinh những đòi hỏi mới: Luật Tin Mừng mạc khải toàn bộ
chân lý thần linh và nhân linh của Luật cũ. Luật mới không thêm những mệnh lệnh
mới từ bên ngoài, nhưng đi đến chỗ biến đổi gốc rễ của các hành vi, là trái
tim, nơi con người chọn lựa giữa thanh sạch và ô uế (x. Mt 15,18-19), nơi hình
thành đức tin, đức cậy, đức mến, và cùng với chúng, các nhân đức khác. Như vậy,
Tin Mừng đưa Lề Luật tới sự viên mãn của nó nhờ bắt chước sự trọn hảo của Cha
trên trời (x. Mt 5,48), nhờ việc tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho những
người bách hại, giống như lòng quảng đại của Thiên Chúa
(x. Mt 5 ,44).
1969. Luật mới thực
thi các hành vi tôn giáo: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, khi quy hướng
các việc đó về “Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”, khác với những
người muốn “được người ta thấy” (x. Mt
6,1-6, 16-18). Lời cầu nguyện của Luật mới là kinh “Lạy Cha”. (x. Mt 6,9-13)
1970. Luật
Tin Mừng bao hàm sự chọn lựa dứt khoát giữa ”hai con đường” (x. Mt 7,13-14) và
thực hiện các lời dạy của Chúa (x. Mt 7,21-27). Luật Tin Mừng được tóm lược trong khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm
cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môisen và lời các
ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12) (x. Lc 6,31).
Toàn bộ Luật Tin Mừng
được chứa đựng trong điều răn mới của
Chúa Giêsu (Ga 13,34), là chúng ta hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương
chúng ta (x. Ga 15,12).
1971. Phải
thêm vào bài giảng của Chúa giáo lý
luân lý trong giáo huấn của các
Tông Đồ, như các đoạn Rm 12,15;
1Cr 12-13; Cl 3-4; Eph 4-5; v.v.... Giáo huấn này lưu truyền đạo lý của Chúa với quyền bính của các Tông đồ, đặc biệt trong
việc trình bày các nhân đức xuất phát từ đức tin vào Đức Kitô và là các nhân
đức được đức mến, hồng ân chủ yếu của Chúa Thánh Thần, làm cho sinh động. “Lòng
bác ái không được giả hình giả bộ... thương mến nhau với tình huynh đệ... Hãy
vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy
chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần
tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12,9-13). Giáo lý này cũng dạy chúng ta giải quyết
những vấn đề lương tâm dưới ánh sáng của mối tương quan giữa chúng ta với Đức
Kitô và với Hội Thánh (x. Rm 14; 1Cr
5-10).
1972. Luật
mới được gọi là luật của tình yêu, bởi
vì dạy chúng ta hành động vì tình yêu mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ, hơn là vì sợ
hãi; Luật mới được gọi là luật của
ân sủng, bởi vì mang lại sức
mạnh của ân sủng để hành động nhờ đức tin và các bí tích; Luật mới là luật
của sự tự do (x. Gcb 1,25; 2,12), bởi vì
giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc về nghi thức và pháp lý của luật cũ,
khiến chúng ta sẵn sàng tự nguyện hành động theo sự thúc đẩy của đức mến, và
sau hết làm cho chúng ta chuyển từ thân phận tôi tớ “không biết việc chủ làm”,
sang tình trạng là bạn hữu của Đức Kitô “vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi
Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15), hoặc còn tới địa vị là một người
con thừa tự nữa (x. Gl 4,1-7. 21-31; Rm
8,15).
1973. Luật Mới, ngoài các điều răn của mình, cũng bao gồm những lời khuyên Phúc Âm.
Sự phân biệt của truyền thống giữa các điều răn của Thiên Chúa với các lời khuyên Phúc Âm được thiết lập liên quan đến
đức mến, là sự trọn hảo của đời sống Kitô hữu. Các điều răn nhằm giúp tránh
những gì không phù hợp với đức mến. Các lời khuyên có mục tiêu giúp tránh những
gì, mặc dầu không đối nghịch, nhưng có thể ngăn cản sự phát triển của đức mến
(T.Tô-ma Aquinô 2-2; 184,3).
1974. Các
lời khuyên Phúc Âm biểu lộ sự sung mãn sống động của một đức mến không bao giờ
hài lòng, vì đã không cho đi nhiều hơn nữa. Các lời khuyên chứng tỏ sự thúc đẩy của đức mến và
khích động sự sẵn sàng thiêng liêng của chúng ta. Luật mới chủ yếu cốt tại các
điều răn là mến Chúa yêu người. Các lời khuyên chỉ ra những con đường trực tiếp
hơn, những phương tiện dễ dàng hơn và phải được
thực thi tùy theo ơn gọi của mỗi
người :
“Thiên
Chúa không muốn mỗi người đều phải giữ
tất cả các lời khuyên, nhưng chỉ giữ những lời khuyên nào thích hợp với sự khác
biệt của các nhân vị, các thời đại, các hoàn cảnh và các sức lực, như đức mến
đòi hỏi; thật vậy,chính đức mến, như là nữ hoàng của mọi nhân đức, mọi giới
răn, mọi lời khuyên, và cuối cùng, mọi lề luật và mọi hành động Kitô giáo, nên
đức mến ban cho tất cả những điều đó chỗ đứng, trật tự, thời gian và giá trị của chúng” (T.
Phanxicô Xalêsiô, 8,6).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Luật
luân lý là gì?
T. Luật luân lý là công trình khôn ngoan của Thiên Chúa, chỉ cho
con người những con đường và quy luật sống, dẫn đến hạnh phúc Thiên Chúa đã
hứa, và ngăn cấm những nẻo đường đưa con người xa lìa Thiên Chúa.
2. Luật
luân lý tự nhiên hệ tại điều gì?
T. Được Đấng Tạo Hoá khắc ghi trong tâm hồn mọi người, luật tự
nhiên hệ tại việc tham dự vào sự khôn ngoan và lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Luật tự nhiên diễn tả cảm thức luân lý nguyên thủy, nhờ đó con người sử dụng lý
trí để phân định điều tốt điều xấu. Luật tự nhiên mang tính phổ quát và bất
biến, đặt nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của con người, cũng
như của cộng đồng nhân loại và của chính luật dân sự.
3. Mọi
người có nhận thức được luật tự nhiên không?
T. Vì tội lỗi,
mọi người không thể nhận thức được luật tự nhiên cách rõ ràng và trực tiếp như
nhau. Vì vậy, “Thiên Chúa đã viết trên
các bảng Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong tâm hồn họ”
(thánh Augustinô).
4.
Tương quan giữa luật tự nhiên và Luật Cựu Ước như thế nào?
T. Luật Cựu Ước là cấp độ đầu tiên của Luật mạc khải, trình bày
nhiều chân lý mà lý trí tự nhiên có thể đạt tới; những chân lý này được xác
nhận và chính thức hóa trong các Giao ước cứu độ. Các quy luật luân lý của luật
Cựu Ước được tóm lại trong Mười Điều Răn, đặt nền tảng cho ơn gọi của con
người. Các quy định này ngăn cấm những gì nghịch lại tình yêu đối với Thiên
Chúa và đối với tha nhân, và ấn định những đòi hỏi căn bản của tình yêu ấy.
5. Luật
Cựu Ước có vị trí nào trong kế hoạch cứu độ?
T. Luật Cựu Ước giúp chúng ta nhận biết nhiều chân lý mà lý trí có
thể đạt được. Luật Cựu Ước chỉ cho thấy điều người ta phải làm hay không được
phép làm, và nhất là, như một nhà sư phạm khôn ngoan, chuẩn bị con người sám
hối để đón nhận Tin Mừng. Tuy nhiên, dù thánh thiện, thiêng liêng và tốt lành, Luật
Cựu Ước vẫn bất toàn, vì tự nó không ban sức mạnh và ân sủng của Chúa Thánh
Thần để giúp người ta tuân giữ nó.
6. Luật
Mới hay Luật Tin Mừng là gì?
T. Luật Mới hay Luật Tin Mừng được Đức Kitô rao giảng và thực hiện,
là sự viên mãn và hoàn thành Luật Thiên Chúa, tự nhiên và mạc khải. Luật Mới
được tóm kết trong giới răn mến Chúa yêu người, “yêu thương nhau như Đức Kitô
đã yêu thương chúng ta”. Luật Mới cũng là một thực tại trong thâm tâm con
người, đó là ân sủng của Chúa Thánh Thần giúp chúng ta có thể thực hiện một
tình yêu như thế. Đó là “luật tự do” (Gc 1,25), hướng dẫn chúng ta mau mắn hành
động dưới sự thúc đẩy của tình yêu. “Trước
tiên, Luật Mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần, được ban cho các tín hữu trong
Đức Kitô” (thánh Tôma Aquinô).
7.
Chúng ta gặp được Luật Mới ở đâu?
T. Chúng ta gặp được Luật Mới trong suốt cuộc đời và lời rao giảng
của Đức Kitô, cũng như trong huấn giáo luân lý của các Tông đồ. Bài giảng trên
núi là cách diễn tả chính yếu của luật này.
MỤC 2
ÂN SỦNG
VÀ SỰ CÔNG CHÍNH HÓA
I. SỰ CÔNG CHÍNH HÓA
1987. Ân sủng
của Chúa Thánh Thần có sức mạnh công chính hóa chúng ta, nghĩa là, rửa chúng ta
sạch tội lỗi, và truyền thông cho chúng ta sự công chính của Thiên Chúa nhờ đức
tin vào Chúa Giêsu Kitô (Rm 3,22) và nhờ bí tích Rửa Tội (T. Tô-ma A-qui-nô
1-2; 90,4) :
“Nếu chúng ta đã cùng chết với
Đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: Đó là niềm tin của chúng ta. Thật
vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không
bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã
chết là chết đối tội lỗi, và một lần là
đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như
đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu
Kitô” (Rm 6, 8-11).
1988. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự
vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô khi chết cho tội lỗi, và được tham dự vào sự phục
sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới;
chúng ta là những chi thể của Thân Thể Người là Hội Thánh (x. 1Cr 12),
là những ngành nho được ghép vào Cây nho là chính Đức Kitô (x. Ga 15,1-4):
“Nhờ Thần Khí chúng ta được dự
phần vào Thiên Chúa. Nhờ sự truyền thông Thần Khí, chúng ta được trở nên những
người đồng phận với bản tính thần linh....Vì thế, những ai có Thần Khí ngự nơi
mình, đều được thần linh hóa (T. A-ta-na-si-ô 1, 24).
1989. Công
trình đầu tiên của ân sủng của Chúa Thánh Thần là sự hoán cải, việc này thực hiện sự công chính hóa theo lời rao
giảng của Chúa Giêsu lúc khởi đầu Tin Mừng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời
đã đến gần” (Mt 4,17). Dưới tác động của ân sủng, con người quay về với Thiên
Chúa và quay lưng lại với tội lỗi, và như vậy đón nhận ơn tha thứ và sự công
chính từ trên cao. “Sự công chính hóa… không chỉ là sự tha tội, nhưng còn là sự
thánh hóa và canh tân con người nội tâm”(Cđ Tren-tô: DS 1528).
1990. Sự
công chính hóa giải thoát con người
khỏi tội lỗi là điều đối nghịch lại với tình yêu của Thiên Chúa, và
thanh tẩy trái tim họ khỏi tội lỗi. Sự công chính hóa là do sáng kiến của lòng
thương xót của Thiên Chúa, Đấng ban ơn tha thứ. Nó giao hòa con người với Thiên
Chúa. Nó giải thoát khỏi sự nô lệ tội lỗi và nó chữa lành.
1991. Sự công chính hóa đồng thời là việc đón nhận sự công
chính của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Ở đây, sự công chính cho
thấy sự ngay thẳng của tình yêu của
Thiên Chúa. Cùng với sự công chính hóa, đức tin, đức cậy và đức mến được đổ
tràn vào trái tim chúng ta và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa được ban cho
chúng ta.
1992. Sự
công chính hóa là công trạng nhờ cuộc
khổ nạn của Đức Kitô cho
chúng ta, Người là Đấng đã tự hiến trên thập giá như của lễ sống động,
thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên dụng cụ đền tội vì tội
lỗi của mọi người. Sự công chính hóa được ban nhờ Phép Rửa, là bí tích của đức tin. Nó làm cho ta nên phù hợp với sự công
chính của Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của lòng thương xót của Ngài làm cho
chúng ta nên công chính tự bên trong. Sự công chính hóa có mục tiêu là vinh
quang của Thiên Chúa và của Đức Kitô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu (Cđ. Tren-tô : DS 1529).
“Nhưng
ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật
Môisen. Điều này, sách luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được
Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những
ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị
tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do hồng ân
Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.
Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng
tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng Công Chính. Trước kia, trong
thời Thiên Chúa nhẫn nại, Ngài đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây
giờ, Ngài muốn cho thấy rằng Ngài vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin
vào Đức Giêsu Kitô được nên công chính” (Rm
3,21-26).
1993. Sự
công chính hóa thiết lập sự cộng tác
giữa ân sủng của Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, sự công chính hóa được diễn
tả trong sự ưng thuận của đức tin đối với lời Thiên Chúa, Đấng mời gọi con
người hối cải, và trong sự cộng tác của đức mến với sự thúc đẩy của Chúa Thánh
Thần, Đấng khởi xướng và gìn giữ sự ưng thuận đó:
“Khi Thiên Chúa đánh động trái
tim con người nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, con người không phải là
không làm gì khi đón nhận sự linh hứng này vì họ có thể khước từ sự linh hứng
đó; tuy nhiên, nếu không có ân sủng Thiên Chúa, họ không thể đạt tới sự công
chính trước mặt Ngài bằng ý chí tự do của mình” (Cđ. Tren-tô, DS 1525).
1994. Sự công
chính hóa là công trình vô cùng tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ
trong Đức Giêsu Kitô và được Chúa Thánh Thần ban tặng. Thánh Augustinô cho rằng
“việc công chính hóa kẻ vô đạo là một công trình còn lớn lao hơn cả trời đất...
Quả vậy, trời đất sẽ qua đi; còn ơn cứu độ và công chính hóa những người được
tiền định sẽ tồn tại” (x. Ev, G 72,3). Thánh nhân còn cho rằng sự công chính
hóa các kẻ tội lỗi vượt trên công trình
tạo dựng các Thiên Thần trong sự công chính, vì điều này làm chứng lòng
thương xót lớn lao của Thiên Chúa.
1995. Chúa
Thánh Thần là vị thầy nội tâm. Sự công chính hóa, khi làm cho “con người nội
tâm” được sinh ra (x. Rm 7,22; Eph 3,16), bao hàm sự thánh hóa toàn thể con người:
“Trước đây
anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy
dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện... Nhưng giờ đây,
anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa;
anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời
đời” (x. Rm 6,19.22).
II. ÂN SỦNG
1996. Sự công chính hóa của chúng ta là do ân sủng của Thiên
Chúa. Ân sủng là một hồng ân,
một sự trợ giúp nhưng không mà
Thiên Chúa ban cho chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Ngài: trở thành con cái
Thiên Chúa (x. Ga 1,12-18), làm nghĩa tử (x. Rm 8,14-17), tham dự vào bản tính
Thiên Chúa (x. 2Pr 1, 3-4) và vào sự sống muôn đời (Ga 17,3).
1997. Ân sủng là sự
tham dự vào sự sống Thiên Chúa, đưa chúng ta vào sự thân mật của sự sống
Chúa Ba Ngôi: nhờ bí tích Rửa Tội, Kitô hữu tham dự vào ân sủng của Đức Kitô,
Đầu của Thân Thể Người. Với tư cách là “nghĩa tử”, họ có thể gọi Thiên Chúa là
“Cha”, trong sự kết hợp với Người Con Một. Họ lãnh nhận sự sống của Thần Khí,
Đấng thổi hơi đức mến trên họ và là Đấng hình thành Hội Thánh.
1998. Ơn
gọi vào sự sống vĩnh cữu này là một ơn siêu
nhiên. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa,
bởi vì chỉ mình Ngài có thể tự mặc khải và tự ban tặng chính mình. Ơn gọi đó
vượt mọi tài năng của trí tuệ và sức mạnh của ý chí nhân linh, cũng như của mọi
thụ tạo (x. 1Cr 2,7-9).
1999. Ân
sủng của Đức Kitô là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban cho chúng ta từ sự
sống của Ngài, nhờ Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn chúng ta để chữa trị nó
khỏi tội lỗi và thánh hóa nó: Đó là ơn
thánh hóa hay ơn thần linh hóa,
được lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội. Ân sủng này là nguồn mạch của công
trình thánh hóa chúng ta (x. Ga 4,14; 7,
38-39):
“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều
là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi
Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được giao hòa với Ngài” (2
Cr 5,17-18).
2000. Ơn
thánh hóa là một hồng ân thường xuyên, một trạng thái bền vững và siêu nhiên,
kiện toàn chính linh hồn để nó có khả năng sống với Thiên Chúa và hành động vì
tình yêu của Ngài. Chúng ta phân biệt ơn
thường sủng là trạng thái trường tồn để sống và hành động theo lời kêu
gọi của Thiên Chúa, và các ơn hiện
sủng là những can thiệp của Thiên Chúa, hoặc vào lúc khởi đầu cuộc hối
cải, hoặc trong tiến trình của công cuộc thánh hóa.
2001. Sự chuẩn bị của con người để đón
nhận ân sủng đã là một công trình của ân sủng. Điều này là cần thiết để khơi
dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, và
vào việc thánh hóa nhờ đức mến. Thiên Chúa kiện toàn nơi ta điều Ngài đã khởi
sự, “vì Ngài khởi sự bằng cách tác động để chúng ta ước muốn, Ngài kiện toàn
bằng cách cộng tác với những người đã muốn” (T.Âu-tinh, 17):
“Thật ra, khi chúng ta cũng làm
việc, là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc, bởi vì lòng thương xót của
Ngài đi bước trước đến với chúng ta. Ngài đi bước trước, để chúng ta được chữa
lành, và Ngài dõi theo sau để sau khi được chữa lành, chúng ta nên cường tráng;
Ngài đi bước trước để chúng ta được kêu gọi, Ngài dõi theo sau để được vinh
quang; Ngài đi bước trước, để chúng ta sống một cách đạo đức, Ngài dõi theo sau
để chúng ta được luôn luôn sống với Ngài; bởi vì không có Ngài, chúng ta không thể
làm được gì” (T.Âu-tinh, 31).
2002. Sáng
kiến tự do của Thiên Chúa đòi hỏi sự
đáp trả tự do của con người, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người
theo hình ảnh Ngài, khi ban cho họ, cùng với sự tự do, khả năng nhận biết và
yêu mến Ngài. Linh hồn chỉ tự nguyện mới có thể tiến vào sự hiệp thông của tình
yêu. Thiên Chúa trực tiếp đụng chạm và đánh động trái tim con người. Ngài đặt
trong con người sự khát vọng chân lý và điều thiện mà chỉ mình Ngài có thể làm
thỏa mãn. Các lời hứa ban “sự sống đời đời” đáp lại khát vọng này, vượt quá mọi
hy vọng:
“Lạy Chúa, sau những công trình
rất tốt đẹp của Chúa, mặc dầu Chúa đã thanh thản làm nên chúng, Chúa đã nghỉ
ngơi ngày thứ bảy, chính là để nói trước với chúng con qua tiếng nói trong sách
của Chúa rằng, sau những công trình rất tốt đẹp của chúng con mà chính Chúa đã
ban cho chúng con, thì chúng con sẽ nghỉ ngơi trong ngày Sabat của đời sống
vĩnh cửu trong Chúa (T.Âu-tinh, tự thuật 13, 36. 51).
2003. Ân
sủng, trước hết và đặc biệt, là hồng ân của Thần Khí, Đấng công chính hóa và
thánh hóa chúng ta. Nhưng ân sủng cũng gồm các hồng ân Thần Khí rộng ban cho
chúng ta để liên kết vào công trình của Ngài, để làm cho chúng ta có khả năng
cộng tác vào công trình cứu độ những người khác và làm phát triển Thân Thể Đức
Kitô là Hội Thánh. Đó là các ân sủng bí tích, là những hồng ân
riêng cho những bí tích khác nhau. Ngoài ra, còn có các ân sủng đặc biệt gọi là các đặc sủng theo từ Hi Lạp, mà thánh Phaolô sử dụng, có nghĩa
là đặc ân, hồng ân nhưng không, phúc lợi (x. LG 12). Dù có đặc tính nào đi nữa,
đôi khi là ngoại thường, như ơn làm phép lạ hay ơn nói tiếng lạ, các đặc sủng
đều qui hướng về ơn thánh hóa và có mục tiêu là công ích của Hội Thánh. Các đặc
sủng đều phục vụ đức mến là nhân đức để
xây dựng Hội Thánh (x. 1Cr 12).
2004. Trong
các ân sủng đặc biệt, phải kể đến các
ơn chức phận là những ơn được ban để thực thi các trách nhiệm của đời
sống Kitô hữu và các thừa tác vụ trong Hội
Thánh:
“Chúng ta có những đặc sủng khác nhau tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban
cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin.
Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai được khuyên
răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải
có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì vui vẻ mà làm” (Rm 12, 6-8).
2005. Ân sủng, vì là siêu nhiên, nên vượt tầm kinh nghiệm của chúng ta, và chỉ có thể nhận biết được
bằng đức tin. Vì vậy, chúng ta không thể dựa trên tình cảm hay các việc làm của
chúng ta để từ đó suy ra rằng chúng ta đã được công chính hóa hay được cứu độ
(Cđ. Trentô: DS 1533-15324 ). Tuy nhiên, theo lời Chúa phán: “Cứ xem họ sinh
hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,20), việc nhìn xem các hồng ân của Thiên
Chúa, trong đời sống chúng ta và trong đời sống các Thánh, mang lại cho chúng
ta một bảo chứng là ân sủng đang hoạt động trong chúng ta và khơi dậy nơi chúng
ta một đức tin lớn mạnh hơn, và một thái độ nghèo khó đầy tín thác.
“Một trong những minh họa đẹp
nhất của thái độ này là câu trả lời của thánh nữ Jeanne d’Arc trước một câu hỏi
gài bẫy của các quan tòa của Giáo Hội: “Khi bị hỏi: cô có biết mình đang sống
trong ân sủng của Thiên Chúa hay không cô trả lời : “Nếu tôi chưa có, xin Chúa
ban cho tôi; nếu tôi có rồi, xin Chúa thương gìn giữ tôi trong ân sủng Ngài”
(T.Gioana thành Ars).
III. CÔNG TRẠNG
“Chúa được tôn vinh trong cộng đồng các
Thánh, và khi tuyên dương công trạng của các ngài, Chúa tuyên dương bằng chính
hồng ân của Chúa” (x. Sách lễ Rôma, tiền tụng lễ các thánh, dựa theo lời của
thánh Âutinh, vị tiến sĩ về ân sủng, Tv 102,7).
2006. Từ
“công trạng” thường được dùng để chỉ sự
trả công mà cộng đồng hay xã hỗi đánh giá hành động của một vị thành
viên của mình, xét như điều đó tốt hay xấu, đáng được thưởng hay bị phạt. Công
trạng thuộc về nhân đức công bằng theo nguyên tắc về sự bình đẳng, là nguyên
tắc chi phối nhân đức đó.
2007. Trước
mặt Thiên Chúa, theo nghĩa hẹp về quyền lợi, con người không có công trạng gì.
Giữa Thiên Chúa và chúng ta có sự bất bình đẳng không thể đo lường, bởi vì
chúng ta đón nhận mọi sự từ nơi Ngài, là Đấng Tạo Hóa của chúng ta.
2008. Công
trạng của con người trước mặt Thiên Chúa trong đời sống Kitô hữu là do Thiên Chúa đã tự ý muốn liên kết con người
với công trình của ân sủng của Ngài. Hành động đầy tình phụ tử của Thiên
Chúa, bằng sự thúc đẩy của ân sủng, là trước hết, thứ đến mới là hành động tự
do của con người trong sự cộng tác của họ, cho nên các công trạng của các việc
tốt lành trước hết phải được quy về ân sủng của Thiên Chúa, rồi mới quy về tín
hữu. Ngoài ra chính công trạng của con người phải quy về Thiên Chúa, bởi vì các
việc tốt lành của họ đều diễn ra trong Đức Kitô, nhờ những khởi xướng và trợ
giúp của Chúa Thánh Thần.
2009. Nhờ ân sủng, ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta được tham
dự vào bản tính Thiên Chúa, có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công
chính nhưng không của Thiên Chúa. Đây là một quyền có được nhờ ân sủng, quyền
sung mãn của tình yêu, làm cho chúng ta nên những người “đồng thừa tự” với Đức
Kitô và xứng đáng được hưởng phần gia tài đã được hứa ban là đời sống vĩnh cửu
(Cđ. Tren-tô: DS 1546). Công trạng do các việc tốt lành của chúng ta là những
hồng ân của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. “Ân sủng đã được ban trước giờ, giờ
đây nợ được trả…. Các hồng ân của Thiên Chúa là những công trạng của bạn (T.
Âu-tinh, bài giảng 298,4-5)
2010. Vì sự khởi xướng trong lãnh vực ân sủng thuộc về Thiên
Chúa, nên không ai có thể có công
trạng gì để lãnh nhận ân sủng đầu tiên nơi cội nguồn việc hối cải, ơn
tha thứ và sự công chính hóa. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần và của đức mến,
chúng ta mới có thể lập công
cho bản thân và cho tha nhân để được những ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa,
cho việc gia tăng ân sủng và đức mến của chúng ta, cũng như để đạt tới sự sống
vĩnh cửu. Theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để
đáng lãnh nhận những lợi ích trần thế, như sức khỏe, tình bằng hữu. Những ân
sủng và hồng ân này là đối tượng của kinh nguyện Kitô giáo. Việc cầu nguyện đem
lại ân sủng cần thiết cho chúng ta để các hành động có được công trạng.
2011. Tình yêu Đức Kitô trong chúng ta là nguồn
mạch mọi công trạng của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Ân sủng, khi kết
hợp chúng ta với Đức Kitô bằng một tình yêu năng động, bảo đảm phẩm tính siêu
nhiên của các hành vi của chúng ta và do đó, bảo đảm công trạng của các việc đó
trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt người ta. Các Thánh luôn ý thức mãnh
liệt rằng các công trạng của các ngài hoàn toàn là ân sủng.
Sau cuộc lưu đày trần thế, con
hy vọng sẽ được về vui hưởng Chúa nơi Quê hương, nhưng con không muốn thu thập
công trạng để được lên trời, con muốn làm
việc chỉ vì tình yêu
Thiên Chúa mà thôi.... Lúc cuộc đời xế bóng, con sẽ đến trước mặt Chúa với đôi
bàn tay trắng, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Mọi sự
công chính của chúng con đều mang tì vết trước mắt Chúa. Vì vậy, con muốn được
mặc lấy sự công chính của chính
Chúa và đón nhận từ tình yêu Chúa phần sở hữu muôn đời là chính
Chúa… (FT. Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu, tận hiến cho tình yêu nhân từ).
IV. SỰ THÁNH THIỆN CỦA KITÔ HỮU
2012. “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai
yêu mến Ngài… Vì những ai Ngài đã biết từ trước, thì Ngài đã tiền định cho họ
nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, để Con của Ngài làm trưởng tử giữa
một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi;
những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; những ai Ngài
đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang” (x. Rm 8,
28-30 ).
2013. “Tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị
nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô hữu và đến sự trọn
hảo của đức mến” (x. LG 40). Mọi người đều được kêu gọi nên thánh: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh
em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
“Để đạt được sự trọn hảo đó,
các tín hữu phải sử dụng những sức mạnh mình đã lãnh nhận tùy theo mức độ Đức
Kitô đã ban, để... khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong mọi sự, họ sẽ hiến thân
với hết tâm hồn cho vinh quang Thiên Chúa và cho việc phục vụ người lân cận. Như
vậy, sự thánh thiện của dân Thiên Chúa sẽ trổ sinh hoa trái dồi dào, như đã
thấy một cách rõ ràng trong lịch sử Hội Thánh qua đời sống của bao vị thánh” (
x. LG 40).
2014. Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng hướng đến sự kết hợp
ngày càng mật thiết hơn với Đức Kitô. Sự kết hợp này được gọi là “thần bí”, bởi
vì tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô nhờ các bí tích “các mầu nhiệm thánh”, và
trong Người, tham dự mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh. Thiên Chúa kêu gọi tất cả
chúng ta đến sự kết hợp mật thiết này với Ngài, mặc dù những ân sủng đặc biệt
và những dấu chỉ ngoại thường của đời sống thần bí này chỉ được ban cho một số
người, để biểu lộ hồng ân nhưng không được ban cho mọi người.
2015. Con
đường của sự trọn hảo phải đi qua thập giá. Không thể có sự thánh thiện, nếu
không có sự từ bỏ và cuộc chiến đấu thiêng liêng. Sự tiến bộ về đời sống thiêng
liêng bao hàm sự khổ chế và hy sinh hãm mình, là những điều từng bước dẫn tới
việc sống trong bình an và hoan lạc của các mối phúc:
“Ai trèo lên, người đó không
bao giờ ngừng từ bắt đầu này tiếp sau bắt đầu kia, qua những bắt đầu không chấm
dứt. Người đó không bao giờ ngừng ao ước đều người đó đã biết rồi” (T.
Ghê-gô-ri-ô thành Nit-sê, bài giảng 8).
2016. Các con
cái của Mẹ thánh chúng ta là Hội Thánh, hy vọng một cách chính đáng được Thiên
Chúa là Cha ban ơn bền đỗ đến cùng
và sự trả công vì những công
việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng của Ngài trong sự hiệp thông với
Chúa Giêsu. Các tín hữu, tuân giữ cùng một quy luật sống, được tham dự vào
“niềm hy vọng hồng phúc” của những người mà lòng thương xót của Thiên Chúa đã
quy tụ trong “Thành thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà
xuống, sẵn sàng như tân nương tang điểm để đón tân lang” (Kh 21,2).
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Công
chính hóa là gì?
T. Công chính hóa là công trình tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa.
Đó là hành động nhân từ và nhưng không của Thiên Chúa, Đấng tha thứ tội lỗi cho
chúng ta và làm cho chúng ta nên công chính, thánh thiện trong trọn vẹn bản
thân chúng ta, điều đó được thực hiện nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, ân sủng
mà chúng ta đáng được nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, và được trao ban cho chúng
ta qua Bí tích Rửa Tội. Việc công chính hóa mở đường cho lời đáp trả tự do của
con người, nghĩa là cho đức tin vào Đức Kitô và cho sự cộng tác với ân sủng của
Chúa Thánh Thần.
2. Ân sủng công chính hóa chúng ta là gì?
T. Ân sủng là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban giúp chúng ta tham
dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động vì tình yêu
Thiên Chúa. Ân sủng này được gọi là ơn
thường sủng, ơn thánh hóa
hay ơn thần hóa, vì ân sủng thánh hóa và thần hóa
chúng ta. Ân sủng siêu nhiên, vì tùy thuộc hoàn toàn vào sáng kiến nhưng không
của Thiên Chúa và vượt quá mọi khả năng lý trí và sức lực của con người. Vì
vậy, ân sủng vượt khỏi kinh nghiệm của chúng ta.
3. Các
loại ân sủng khác là gì?
T. Ngoài ơn thường sủng,
còn có ơn hiện sủng (ân sủng
tùy hoàn cảnh), các ơn Bí tích
(ân sủng đặc biệt của mỗi Bí tích), các ân sủng đặc biệt hay đặc sủng (có mục
đích là sự thiện ích của Hội Thánh), trong đó có ơn chức phận, là ơn đi kèm theo việc thi hành các thừa tác vụ
trong Hội Thánh và các trách nhiệm của đời sống.
4. Đâu
là tương quan giữa ân sủng với tự do con người?
T. Ân sủng dọn đường, chuẩn bị và khơi dậy lời đáp trả tự do của
con người. Ân sủng thỏa mãn những khát vọng thâm sâu của sự tự do con người,
mời gọi tự do cộng tác, và hướng dẫn tự do đến sự hoàn thiện.
5. Công
phúc là gì?
T. Công phúc là điều đem lại quyền được thưởng cho một hành động
tốt. Trong những liên hệ với Thiên Chúa, con người tự mình không có gì được gọi
là công phúc, vì học lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho
con người có khả năng lập công nhờ kết hợp vào đức ái của Đức Kitô, nguồn mạch
các công phúc của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, công phúc của những
việc lành trước hết là do ân sủng của Thiên Chúa, thứ đến mới do ý chí tự do
của con người.
6.
Chúng ta có thể lập công để lãnh nhận những điều thiện hảo nào?
T. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thẻ lập công để
lãnh nhận, cho chính mình và cho người khác, những ân sủng hữu ích cho việc
thánh hóa bản thân và cho việc đạt tới đời sống vĩnh cửu, cũng như của cải vật
chất cần thiết cho chúng ta, theo kế hoạch của Thiên Chúa. Tuy nhiên, không ai
có thể lập công để lãnh nhận ân sủng đầu tiên, là ân ban lúc khởi đầu để sám
hối và được nên công chính.
7. Có
phải mọi người đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện Kitô giáo không?
T. Mọi tín hữu đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện Kitô giáo.
Sự thánh thiện này là sự viên mãn của đời sống Kitô hữu, sự hoàn hảo của tình
yêu, được thực hiện trong việc kết hợp mật thiết với Đức Kitô và trong Người,
với Thiên Chúa Ba Ngôi. Con đường nên thánh của người Kitô hữu, sau khi kinh
qua thập giá, sẽ được hoàn thành trong cuộc phục sinh chung cuộc của những
người công chính, trong đó “Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi loài”.
MỤC 3
HỘI
THÁNH, MẸ VÀ THẦY
2030. Chính trong Hội Thánh, trong sự hiệp thông với tất cả
những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội mà Kitô hữu chu toàn ơn gọi của mình.
Từ Hội Thánh, họ đón nhận Lời Thiên Chúa chứa đựng các đạo lý của “Luật Đức
Kitô” (Gl 6,2). Từ Hội Thánh, họ lãnh nhận ân sủng của các bí tích nâng đỡ họ
trên “đường”. Từ Hội Thánh, họ học mẫu
gương của sự thánh thiện; họ nhận ra hình ảnh và nguồn mạch sự thánh
thiện này nơi Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, phân định ra sự thánh thiện này qua
chứng từ chân chính của những người đang sống theo sự thánh thiện; họ khám phá
sự thánh thiện này trong truyền thống linh đạo và trong lịch sử lâu dài của các
Thánh, những vị đã đi trước họ và phụng vụ đang mừng kính các ngài theo chu kỳ
các Thánh.
2031. Đời sống luân
lý là một việc phượng tự thiêng liêng. “Chúng ta dâng hiến thân xác mình
làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Rm 12,1), trong
Thân Thể Đức Kitô mà chúng ta họp thành, và trong sự hiệp thông với hiến lễ Thánh Thể của Người. Trong phụng vụ và trong việc cử hành các bí tích, lời cầu
nguyện và đạo lý được kết hợp với ân sủng Đức Kitô, để soi sáng và nuôi dưỡng
cách hành động của Kitô hữu. Cũng như toàn bộ đời sống Kitô hữu, đời sống luân
lý gặp được nguồn mạch và tột đỉnh của mình trong Hy lễ Thánh Thể.
I. ĐỜI SỐNG LUÂN LÝ VÀ HUẤN
QUYỀN CỦA HỘI THÁNH:
2032. Hội
Thánh, là ”cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1Tm 3,15), “đã lãnh nhận từ các
Tông Đồ mệnh lệnh long trọng của Đức Kitô là phải loan báo chân lý cứu độ” (x.
LG 17) “Hội Thánh phải loan báo các nguyên tắc luân lý trong mọi thời và ở mọi
nơi, kể cả những nguyên tắc về trật tự xã hội, cũng như phải phán đoán về tất
cả các thực tại nhân sinh, trong mức độ mà các quyền căn bản của con người hay
việc cứu độ của các linh hồn đòi hỏi (x.CIC, can, 747).
2033. Huấn Quyền của các mục tử Hội
Thánh về vấn đề luân lý, thường được thực thi
trong việc dạy giáo lý và giảng dạy, với sự trợ giúp của các công trình của các
nhà thần học và các tác giả linh đạo. Như vậy, từ đời nọ đến đời kia, dưới sự
hướng dẫn và cảnh giác của các mục tử, “kho tàng” luân lý Kitô giáo được lưu
truyền, kho tàng đó là một tổng hợp đặc trưng các quy luật, các mệnh lệnh và
các nhân đức xuất phát từ đức tin vào Đức Kitô và được ban sự sống bởi đức mến.
Một cách theo truyền thống, việc dạy giáo lý này lấy Mười Điều Răn, cùng với
Tín biểu và Kinh Lạy Cha, làm nền tảng, vì Mười Điều Răn loan báo những nguyên
tắc của đời sống luân lý, hữu hiệu cho tất cả mọi người.
2034. “Đức
Giáo Hoàng và các Giám mục, với tư cách là “những thầy dạy đích thực, nghĩa là
những người giảng dạy bằng quyền bính của Đức Kitô, rao giảng cho dân được trao
phó cho các ngài, những điều phải tin và phải áp dụng vào cách ăn nết ở” (x. LG
25). Huấn Quyền thông thường và
phổ quát của Đức Giáo Hoàng và các Giám mục hiệp thông với ngài, dạy các tín
hữu chân lý phải tin, đức mến phải thực thi,
vinh phúc phải trông cậy.
2035. Cấp độ
tối thượng của việc tham dự vào quyền bính của Đức Kitô được đảm bảo bởi đặc sủng là ơn bất khả ngộ. “Kho tàng mặc khải thần linh rộng bao nhiêu, thì
ơn này trải rộng bấy nhiêu” (x. LG 25); ơn này cũng trải rộng tới tất cả các
yếu tố của đạo lý về luân lý, trong đó có đạo lý về luân lý, nếu không có những
yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không được bảo toàn, trình bày
hay tuân giữ (x. CDF, décl. “Mysterium Ecclesiae” 3).
2036. Quyền
bính của Huấn Quyền cũng trải rộng đến các mệnh lệnh đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì việc tuân giữ
các mệnh lệnh đó do đấng tạo hoá đòi hỏi, là cần thiết để được cứu độ. Khi nhắc
lại các quy định của luật tự nhiên, Huấn quyền của Hội Thánh thực thi phần
chính yếu của nhiệm vụ tiên tri của mình, là loan báo cho mọi người họ thật sự
là gì, và nhắc nhở họ phải là gì trước mặt Thiên Chúa (x. DH 14) .
2037. Luật
của Thiên Chúa, được ký thác cho Hội Thánh, với tính cách là con đường của sự
sống và chân lý, được trao cho các tín hữu. Vì vậy, các tín hữu có quyền
(x. CIC can, 213) được giáo huấn về các mệnh lệnh cứu độ của Thiên Chúa, chúng
thanh luyện trí phán đoán và nhờ ân sủng, chữa lành lý trí con người đã bị tổn
thương. Các tín hữụ có nghĩa vụ
tuân giữ các hiến chế và sắc lệnh do quyền bính hợp pháp của Hội Thánh công bố.
Những quyết định này, mặc dầu mang tính kỷ luật, vẫn đòi sự mau mắn vâng phục
trong đức mến.
2038. Trong
việc giảng dạy và áp dụng luân lý Kitô giáo, Hội Thánh cần đến sự tận tâm của
các mục tử, kiến thức của các nhà thần học và sự đóng góp của mọi Kitô hữu và
mọi người thiện chí. Đức tin và việc thực hành Tin Mừng đem lại cho mỗi người
một kinh nghiệm về đời sống “trong Đức Ki-tô”, kinh nghiệm này soi sáng cho họ
và giúp họ có khả năng đánh giá những thực tại thần linh và nhân linh theo Thần
Khí của Thiên Chúa (x.1Cr 2,10-15). Như vậy, Chúa Thánh Thần có thể dùng những kẻ thấp hèn nhất, để soi sáng
những người thông thái và những người có chức phận cao trọng hơn.
2039. Các
thừa tác vụ phải được thực thi trong tinh thần phục vụ huynh đệ và tận tụy đối
với Hội Thánh, nhân danh Chúa (x.Rm 12,8.11). Đồng thời khi đưa ra phán đoán
luân lý về các hành vi cá vị của mình, lương tâm mỗi người phải tránh đừng khép
kín trong sự quan tâm cá nhân. Hết sức có thể, phải cố gắng tự mở rộng để quan
tâm đến lợi ích của mọi người, như được trình bày trong luật luân lý tự nhiên
và được mạc khải, và tiếp đó trong luật Hội Thánh và trong đạo lý đích thực của
Huấn quyền về các vấn đề luân lý. Không được đối nghịch lương tâm cá vị và lý
trí với luật luân lý hay với Huấn Quyền của Hội Thánh.
2040. Như
vậy, giữa các Kitô hữu, một tinh thần
con thảo đích thực với Hội Thánh có
thể tăng trưởng. Tinh thần đó là sự triển nở bình thường của ân sủng
Phép Rửa, ân sủng này đã sinh chúng ta vào trong lòng Hội Thánh và làm cho
chúng ta trở nên những chi thể của Thân Thể Đức Kitô. Hội Thánh, với sự quan
tâm từ mẫu của mình, ban cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng
thương xót này vượt trên mọi tội lỗi của chúng ta, và hành động một cách đặc
biệt trong bí tích Hòa Giải. Hội Thánh, như một người mẹ ân cần, cũng rộng ban
cho chúng ta mỗi ngày, trong phụng vụ của mình, lương thực là Lời và Thánh Thể
của Chúa.
II. CÁC ĐIỀU RĂN HỘI THÁNH
2041. Các
điều răn Hội Thánh được đặt trong đường hướng một đời sống luân lý gắn liền với
đời sống phục vụ và được đời sống phụng vụ nuôi dưỡng. Tính cách bắt buộc của
các luật thiết định này được công bố bởi các quyền bính mục vụ, có mục đích
cung cấp cho các tín hữu mức tối thiểu rất cần thiết về tinh thần cầu nguyện và
về nỗ lực luân lý, để gia tăng lòng mến Chúa yêu người.
2042. Điều răn thứ nhất (“Vào các Chúa nhật
và các ngày lễ buộc, các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ và tránh những công việc
nô dịch”) đòi các tín hữu thánh hóa ngày tưởng niệm cuộc Phục Sinh của Chúa,
cũng như những lễ phụng vụ chính để tôn
kính các mầu nhiệm của Chúa, của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc và của các Thánh,
trước hết bằng việc tham dự cuộc cử hành Bí Tích Thánh Thể, trong đó cộng đoàn
Kitô hữu được quy tụ, và tránh không làm những việc tự bản chất có thể ngăn trở việc thánh hóa những ngày đó (x.
CIC, 1246-1248; CCEO 880, 3; 881).
Điều
răn thứ hai: (“Xưng tội trong một năm ít là một lần”) bảo đảm việc chuẩn bị
rước Thánh Thể bằng việc lãnh nhận bí tích Hòa Giải, nối tiếp công việc hối cải
và tha thứ của bí tích Rửa Tội (x. CIC, 989, CCEO, 719).
Điều
răn thứ ba: (“Rước Mình Thánh Chúa ít là một lần trong mùa Phục Sinh”) bảo đảm mức tối thiểu trong việc rước
Mình và Máu Thánh Chúa, được liên kết với các lễ trong mùa Phục Sinh, vì Phục
Sinh là nguồn gốc và trung tâm của phụng vụ Kitô giáo (x. CIC, 920, CCEO,
708-881).
2043. Điều răn thứ tư:
(“Kiêng thịt và giữ chay trong những ngày thống hối do Hội Thánh quy định”) bảo
đảm thời gian khổ chế và thống hối để chuẩn bị cho chúng ta mừng các lễ phụng
vụ, và giúp chúng ta làm chủ được các bản năng và đạt tới sựu tự do của trái
tim (x. CIC, 1246, CCEO, 881,1,4; 880,3).
Điều
răn thứ năm (“Đóng góp cho các nhu cầu của Hội Thánh”) dạy các tín hữu có
bổn phận đóng góp cho các nhu cầu vật chất của Hội Thánh, tùy theo khả năng mỗi
người (x. CIC, 222; CCEO 25).
III. ĐỜI SỐNG LUÂN LÝ VÀ CHỨNG
TỪ TRUYỀN GIÁO
2044. Lòng
trung thành của những người đã lãnh Phép Rửa là điều kiện tiên quyết đối với
việc loan báo Tin Mừng và đối với sứ
vụ của Hội Thánh trong trần gian. Để tỏ cho mọi người thấy sức mạnh của
nó về chân lý và sự rạng ngời, sứ điệp cứu độ phải được chứng thực bằng chứng
từ của đời sống các Kitô hữu và các việc tốt lành được thực thi với tinh thần
siêu nhiên, có sức mạnh lôi kéo người ta đến với đức tin và đến với Thiên Chúa
(x. AA. 6).
2045. Bởi vì là chi thể của Thân Thể mà Đức Ki-tô là Đầu (x.
Eph1,22), các Kitô hữu góp phần vào việc
xây dựng Hội Thánh bằng sự kiên trì trong xác tín của mình và trong đời
sống luân lý của mình. Hội Thánh được tăng số, lớn lên và triển nở bằng sự thánh
thiện của các tín hữu của mình (x.LG 39), cho tới khi chính họ làm thành “con
người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Eph 4,13).
2046. Bằng
đời sống theo Đức Kitô của mình, các Kitô hữu làm cho Nước Thiên Chúa mau đến, đó là “Nước của công bằng, của
tình yêu và của bình an” (x. MR). Nhưng không vì thế mà họ xao lãng nhiệm vụ
trần thế của mình; chính họ, trung thành với Thầy mình, chu toàn nhiệm vụ đó
với sự ngay thẳng, với sự nhẫn nại và với tình yêu .
TÓM
LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo)
1. Hội
Thánh nuôi dưỡng đời sống luân lý của người Kitô hữu như thế nào?
T. Hội Thánh là cộng đoàn các người Kitô hữu. Trong Hội Thánh, họ
đón nhận Lời Chúa và những giáo huấn về “Luật của Đức Kitô” (Gl 6,2), lãnh nhận
ân sủng các Bí tích, kết hợp bản thân vào hy lễ Thánh Thể của Đức Kitô, để đời
sống luân lý của họ trở thành một phượng tự thiêng liêng. Trong Hội Thánh, họ
học gương thánh thiện của Đức Trinh Nữ Maria và của các thánh.
2. Tại
sao Huấn quyền Hội Thánh can thiệp vào lĩnh vực luân lý?
T. Bởi vì Trách nhiệm của Huấn quyền Hội Thánh là rao giảng đức tin
để mọi người tin và áp dụng đức tin vào đời sống cụ thể. Trách nhiệm này cũng
bao gồm cả những điều răn đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì tuân giữ những điều
răn đó rất cần thiết cho ơn cứu độ.
3. Các
điều răn của Hội Thánh có mục đích gì?
T. Năm điều răn của Hội Thánh có mục đích đảm bảo cho người tín hữu
những điều tối thiểu thiết yếu về tinh thần cầu nguyện, đời sống Bí Tích, dấn
thân luân lý và tăng trưởng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.
4. Năm điều răn của Hội Thánh
là gì?
T. Năm điều răn của Hội Thánh là: 1) tham dự Thánh lễ Chúa nhật
cũng như các ngày lễ buộc, kiêng việc xác và những hoạt động có thể cản trở
việc thánh hóa những ngày đó; 2) xưng tội để lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa ít là
mỗi năm một lần; 3) Rước lễ ít là trong mùa Phục Sinh; 4) Kiêng thịt và giữ
chay trong những ngày Hội Thánh quy định; 5) Mỗi người theo khả năng, đóng góp
cho các nhu cầu vật chất của Hội Thánh.
5. Tại
sao đời sống luân lý của người Kitô hữu rất cần thiết để loan báo Tin Mừng?
T. Nhờ đời sống luân lý phù hợp với Chúa Giêsu, các người Kitô hữu
lôi kéo mọi người tin vào Thiên Chúa thật; họ xây dựng Hội Thánh; đem tinh thần
Tin Mừng vào giữa lòng đời và chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa đến
MỤC LỤC
Chương
một: Phẩm giá của nhân vị---------------- 05
Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa---- 06
Mục 2: Ơn gọi chúng ta là đến hưởng vinh phúc-- 09
I. Các mối phúc-------------------------------- 09
II. Khao khát hạnh phúc----------------------- 10
III. Vinh phúc Kitô Giáo------------------------ 11
Mục 3: Sự tự do của con người------------------- 15
I. Tự do và trách nhiệm----------------------- 15
II. Sự tự do của con người trong nhiệm cục Cứu độ 17
Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh---- 21
I. Nguồn gốc của tính luân lý------------------ 21
II. Hành vi tốt và hành vi xấu----------------- 23
Mục 5: Tính luân lý của các đam mê-------------- 26
I. Các đam mê--------------------------------- 26
II. Các đam mê và đời sống luân lý----------- 27
Mục 6: Lương tâm--------------------------------- 29
I. Phán đoán của lương tâm------------------- 29
II. Việc huấn luyện của lương tâm------------- 31
III. Chọn lựa theo lương tâm------------------ 32
IV. Phán đoán sai lầm------------------------- 33
Mục 7: Các nhân đức------------------------------ 37
I. Các nhân đức nhân bản--------------------- 37
II. Các nhân đức Đối Thần--------------------- 41
III. Hồng ân và hoa trái của Thánh Thần------ 47
Mục 8: Tội lỗi-------------------------------------- 52
I. Lòng thương xót người tội lỗi---------------- 52
II. Định nghĩa tội lỗi--------------------------- 53
III. Các tội lỗi khác nhau---------------------- 54
IV. Mức độ nghiêm trọng của tội: tội trọng và tội
nhẹ 55
V. Tội sinh sôi nảy nở-------------------------- 59
Chương
hai: Cộng đồng nhân loại------------------- 63
Mục 1: Cá vị và xã hội---------------------------- 63
I. Tính cộng đồng của ơn gọi nhân linh-------- 63
II. Sự hối cải và xã hội------------------------ 66
Mục 2: Tham gia vào đời sống xã hội------------- 70
I. Quyền bính---------------------------------- 70
II. Công ích------------------------------------ 72
III. Trách nhiệm và sự tham gia--------------- 75
Mục 3: Công bằng xã hội-------------------------- 78
I. Tôn trọng nhân vị--------------------------- 78
II. Sự bình đẳng và những khác biệt giữa con người 79
III. Tình liên đới nhân loại--------------------- 81
Chương
ba: Ơn Cứu Độ của Thiên
Chúa, lề luật và ân sủng 85
Mục 1: Luật luân lý------------------------------- 85
I. Luật luân lý tự nhiên------------------------ 87
II. Luật cũ------------------------------------- 90
III. Luật mới hay luật Tin Mừng--------------- 92
Mục 2: Ân sủng và sự công chính hoá------------ 99
I. Sự công chính hoá--------------------------- 99
II. Ân sủng----------------------------------- 102
III. Công trạng------------------------------- 106
IV. Sự Thánh thiện của Kitô hữu------------- 109
Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy------------------ 114
I. Đời sống luân lý và huấn quyền của Hội Thánh 115
II. Các điều răn Hội Thánh------------------- 118
III. Đời sống luân lý và chứng từ truyền giáo 119