CHƯƠNG X

SỐNG LỜI CHÚA

 

I. Gặp Chúa, tin Chúa, nghe Lời Chúa, dẫn tới việc thay đổi cách sống.

      1. Trường hợp ông Da-kêu   (Lc 19, 1-10) .

Ông Da-kêu là một người thu thuế giầu có. Người Do Thái xem ông cũng như những người thu thuế khác là những người tội lỗi. Sau  khi Chúa Giêsu gặp ông, ông tuyên bố “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”  (Lc 19, 8) .

      2. Trường hợp Thánh Phanxicô Xaviêâ :

Phanxicô Xaviê là một giáo sư đại học, đam mê danh vọng. Nhưng với Lời Chúa do người bạn là Thánh Ignatiô luôn nhắc nhở : “ Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì”  (Lc 9, 25), thánh nhân đã đổi đời : từ bỏ tất cả, gia nhập Dòng Tên của Thánh Ignatinô và đã trở thành một người truyền giáo nổi tiếng ở Á Châu, Quan Thầy của các xứ truyền giáo.

II. Khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu  luôn mời gọi người nghe sống điều Người dậy.

      1. Sau mỗi bài giảng, dụ ngôn là lời mời gọi áp dụng thực hành :

- Sau dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu : “Hãy đi và làm như vậy”  (Lc 10, 37).

- Với chàng thanh niên đến hỏi : “Tôi phải làm gì để được sống”, Chúa Giêsu nói : “Hãy bán những gì ngươi có và đến đây theo Ta”  (Mc 10, 21) .

      2. Chúa Giêsu kêu gọi dân chúng sống lời Người dậy.

- Sau bài giảng trên núi, Chúa Giêsu nói : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa! Lậy Chúa!’ Là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy … mới được vào mà thôi”   (Mt 7, 21) .

- “Vậy ai nghe những Lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” 
(Mt 7, 24) .

III. Giáo lý phải dẫn đến việc sống Lời Chúa.

      1. Giáo lý viên đề ra cho các em học sinh một quyết tâm để sống trong tuần dựa vào bài học Giáo lý.

Nguồn mạch chính của Giáo lý là Lời Chúa. Vì thế, một tiết dậy Giáo lý phải dẫn đến việc thực hành Lời Chúa dậy.

Sau khi các em học sinh đã nghe Lời Chúa, hiểu Lời Chúa qua phần giải thích Lời Chúa và gặp gỡ Chúa trong phần cầu nguyện, Giáo lý viên rút ra một quyết tâm để các em sống.

      2. Quyết tâm phải  phù hợp với Lời Chúa và nội dung bài Giáo lý :

Từ nội dung bài Giáo lý, Giáo lý viên rút ra một quyết tâm sống, nghĩa là quyết tâm sống phải phù hợp với nội dung bài Giáo lý.

      3. Quyết tâm sống phải cụ thể, phù hợp với hoàn cảnh sống của các em.

Từ một bài Giáo lý, chúng ta có thể rút ra được nhiều điều thực hành. Chúng ta chỉ nên chọn một điều phù hợp với hoàn cảnh sống, tình trạng, cách sống của các em. Chúng ta xem các em hay có những sai lỗi nào, thiếu sót nào, điều gì các em có thể thực hành được, để đưa một quyết tâm sống cụ thể. Chúng ta đừng bao giờ đưa ra một quyết tâm mà các em không thể làm được, chẳng hạn mỗi tuần các em hãy giúp người nghèo một trăm ngàn đồng hay mỗi tuần các em hãy đi lễ 7 ngày trong khi các em ở xa nhà thờ trên chục  cây số …

      4. Giáo lý viên giúp các em xét lại việc sống Lời Chúa.

a. Nhắc nhở sống điều quyết tâm : Vào cuối giờ Giáo lý trong lời cầu nguyện kết thúc, Giáo lý viên nhắc nhở điều đã quyết tâm qua lời nguyện xin Chúa giúp các em thực hành điều quyết tâm.

b. Xét lại việc sống điều quyết tâm : Vào giờ học Giáo lý tuần tới, Giáo lý viên hãy giúp các em xét lại việc sống quyết tâm này như thế nào, trước khi đưa ra một quyết tâm mới.

 

{ BÀI TẬP

       Chọn một bài Giáo lý và rút ra một điều quyết tâm sống phù hợp.

 

BÀI GIÁO LÝ MẪU

BÀI MẪU 1  :

« Sử dụng các phương pháp : quy nạp, phát vấn và trực quan.

« Sách Giáo lý Căn bản I, bài 1 :

CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA

- Lời Chúa : Rm 1, 19.

- Ý chính  : Em xác tín có Thiên Chúa là Đấng yêu thương em, muốn cho em được hạnh phúc đời đời.

- Học cụ  : Một bình hoa tươi cắm thật đẹp

Trình bầy  : 

I. Cầu nguyện đầu giờ.

- Lạy Thiên Chúa của chúng con, trong bài học đầu tiên này, xin tỏ cho chúng con biết Chúa là ai, và xin ban cho chúng con vững tin vào Chúa.

-  Đọc kinh  “Xin Chúa sáng soi”.

II. Dẫn vào Lời Chúa.

Có một người muốn thử lòng tin của một em bé, liền hỏi những câu sau đây  :

- Cháu tin có Thiên Chúa không ?

+ Thưa ông, có.

- Vậy Thiên Chúa ở đâu ?

+ Thưa ông, Thiên Chúa  ở khắp mọi nơi.

- Thế Thiên Chúa của cháu có to lớn không ?

          + Thưa ông, rất to lớn.

          - Thế Thiên Chúa của cháu có nhỏ bé không ?

          + Thưa ông, rất nhỏ bé.

          - Vô lý quá! Làm sao lại vừa to lớn, vừa nhỏ bé được ?

          + Thưa ông, Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Ngài to lớn đến nỗi cả bầu trời không chứa được và Ngài cũng nhỏ bé đến nỗi ngự vào tâm hồn cháu được.

          Người ấy tỏ vẻ ngạc nhiên rồi cười xoà  : “Cháu đúng là một đứa bé có lòng tin”.

          Các em thân mến ! Để có được lòng tin vững chắc như cô bé ấy. Mời các em đứng lên lắng nghe Lời Chúa.

III. Công Bố Lời Chúa  : (Rm 1, 19)

IV. Giải thích Lời Chúa

      1. Dẫn giải Lời Chúa.

- Lời Chúa mà các em vừa nghe là của thánh nào ? gửi cho ai ? (Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma).

- Thánh Phaolô muốn nói gì qua câu Lời Chúa này?

(Ngài nói rằng lý trí chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa qua thiên nhiên).

Chúng ta thử đi tìm Thiên Chúa qua bình hoa trên bàn này nhá!

- Nhìn những bông hoa này các em có thấy đẹp không ? Do đâu mà có ? (Do anh  [chị] đem đến).

- Vậy để có bình hoa này trước hết phải có bông hoa. Muốn có hoa thì phải làm gì ? (Phải gieo trồng). Muốn gieo trồng thì phải có cái gì ?  (Cần có hạt giống). Ai làm ra hạt giống cây hoa này ? (Thiên Chúa).

Như vậy, qua thiên nhiên lý trí ta có thể nhận biết có Thiên Chúa.

Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ lưỡng hơn điều thánh Phaolô nói trong bài học Giáo lý hôm nay nhá !

      2. Giải thích câu hỏi-thưa.

Câu 1  : Ta sống ở đời này để làm gì ?

       a. Giải thích   :

- Các em thấy những người sống chung quanh các em hằng ngày họ làm gì ? Có người làm vườn, có người chăn nuôi súc vật, có người buôn bán, có người dậy học, có người là bác sĩ  chữa bệnh, có người là thợ xây dựng…

- Họ làm việc để làm gì ? Để kiếm tiền sinh sống, xây dựng nhà cửa, nuôi con cái ăn học, giúp người nghèo, làm việc công ích.

- Họ đã tìm điều gì khi làm như thế ? Họ đi tìm hạnh phúc.

- Liệu họ có tìm được hạnh phúc mãi mãi không? Họ có thể tìm được hạnh phúc, nhưng hạnh phúc này không kéo dài mãi mãi vì cái chết sẽ đến chấm dứt hạnh phúc của họ.

- Vậy làm thế nào để có được hạnh phúc mãi mãi ?

Ai có thể giúp ta tìm được hạnh phúc mãi mãi ?

- Chỉ có người không bao giờ chết mới giúp ta được, người ấy chính là Thiên Chúa. Vậy để sống hạnh phúc mãi mãi ta phải đi tìm nhận biết Ngài.

Như thế mục đích chính yếu khi ta sống ở đời này là nhận biết Thiên Chúa và tin vào tình thương của Ngài để ta được sống hạnh phúc mãi mãi.

ð Các em cùng nhau đọc câu 1 nào !

       b. Đọc chung câu 1.

             H. Ta sống ở đời này để làm gì ?

               T. Để nhận biết Thiên Chúa và tình thương Ngài dành cho ta nơi Chúa Giêsu Kitô và nhờ đó mà được sống hạnh phúc đời đời.

Câu 2 : Nhờ đâu ta có thể nhận biết Thiên Chúa ?

       a. Giải thích :

- Khi các em  có xe đạp, các em muốn có chiếc xe Honda. Khi có chiếc Honda, các em muốn xe gì ? Chắc chắn là xe hơi vì đi xe hơi đỡ phải chịu nắng mưa, cảm thấy an toàn hơn, tiện nghi hơn.

Loài người chúng ta luôn ước muốn cái gì tốt hơn và chẳng bao giờ hết ước muốn.

Để thoả mãn các ước muốn này, con người dùng lý trí suy nghĩ chế tạo ra các vật dụng, các tiện nghi  : xe cộ, máy bay, máy giặt, máy tính…

- Nhưng lý trí con người có khả năng làm thoả mãn mọi ước mơ của con người không ? Chắc chắn là không vì con người không bao giờ ngừng ước mơ mà lý trí con người thì có giới hạn.

- Ai có thể thoả mãn các ước mơ của chúng ta ? Chỉ có người không bị giới hạn mới có thể thoả mãn chúng ta được. Người ấy là Thiên Chúa. Do đó con người vận dụng lý trí để tìm kiếm Thiên Chúa.

Sự ước ao, lý trí suy luận nơi chúng ta là do Chúa dựng nên để chúng ta đi tìm kiếm Ngài.

       b. Đọc chung câu 2.

                H. Nhờ đâu ta có thể nhận biết Thiên Chúa ?

                   T. Nhờ Thiên Chúa ban cho ta lòng ước ao khao khát và lý trí suy luận để ta kiếm tìm Ngài và lắng nghe được điều Ngài nói với ta.

Câu 3 : Với trí khôn tự nhiên,
ta dựa vào đâu mà nhận biết có Thiên Chúa ?

       a. Giải thích  :

- Phòng Giáo lý các em đang ngồi học đây có phải tự nhiên mà có không ? Chắc chắn là không, phải có người xây  nên mới có.

- Cũng vậy, nhìn núi non, sông biển, bầu trời, … chắc chắn phải có ai dựng nên mới có. Người đó là ai ? (Thiên Chúa).

Như thế, với lý trí ta dựa vào thiên nhiên mà nhận biết có Thiên Chúa.

- Có bao giờ các em định làm một điều xấu, ví dụ ăn cắp một cái gì đó, chợt nghe có tiếng nói trong tâm hồn ngăn cản ta đừng làm không ? (Có).

Tiếng nói ngăn cản ta này là tiếng nói của lương tâm và cũng chính là tiếng nói của Thiên Chúa đó.

Như thế lý trí có thể dựa vào tiếng nói của lương tâm để nhận biết có Thiên Chúa.

Do đó, lý trí của ta dựa vào thiên nhiên, tiếng nói của lương tâm để nhận biết có Thiên Chúa.

       b. Đọc chung câu 3.

               H. Với trí khôn tự  nhiên, ta dựa vào đâu mà nhận biết có Thiên Chúa ?

               T. Với trí khôn tự nhiên, ta có thể dựa vào sự tốt đẹp và trật tự của vũ trụ và dựa vào tiếng nói của lương tâm mình mà nhận ra chắc chắn có Thiên Chúa.

Câu 4  : Còn những sự thật nào cần phải được
chính Thiên Chúa tỏ bầy cho ta nữa không ?

       a. Giải thích  :

Lý trí của ta dựa vào thiên nhiên, tiếng nói của lương tâm nhận ra có Thiên Chúa, nhưng ta không biết rõ Ngài là ai, Ngài có chương trình gì dành cho ta.

Chúng ta chỉ biết Ngài là ai, biết được ý định của Ngài khi chính Ngài nói ra, tỏ bầy ra cho chúng ta biết.

Việc Ngài tỏ cho chúng ta biết gọi là mạc khải. Mạc là tấm màn, khải là mở ra, ý muốn nói  : Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết mầu nhiệm của Ngài, nghĩa là những điều thuộc về Thiên Chúa mà lý trí loài người chúng ta không thể suy thấu.

       b. Đọc chung câu 4.

             H. Còn có sự thật nào cần phải đươc chính Thiên Chúa tỏ bầy cho ta nữa không ?

               T. Là chính mầu nhiệmThiên Chúa và chương trình của Ngài muốn cứu vớt ta trong Chúa Giêsu Kitô, là những điều cần phải được mạc khải, tức là cần phải được chính Thiên Chúa tỏ bầy cho ta.

V. Cầu nguyện giữa giờ.

Lạy Thiên Chúa Toàn Năng Hằng Hữu, khi nhìn bầu trời cao xanh, núi đồi trùng điệp, chim chóc líu lo, cây cối xanh tươi, muôn hoa khoe sắc, con nhận ra có Chúa. Con còn nhận ra Chúa qua tiếng nói của lương tâm và qua chính Chúa Giêsu Kitô. Xin Chúa thương ban cho chúng con luôn biết vững tin vào Chúa, để được sống hạnh phúc với Chúa ở đời này và mãi mãi đời sau – Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen

VI. Sinh Hoạt

          * Băng Reo.

- Chúa ở đâu ?  - Ở trên trời cao (chỉ tay phải lên trời).

- Chúa ở đâu  ? - Ở bên cạnh em (chỉ người bên phải).

- Chúa ở đâu ?  - Ở trong lòng em (đặt tay phải lên ngực).

Tất cả cùng reo  : A ! Chúa ở khắp mọi nơi, la la la (vỗ tay).

VII. Bài tập Giáo lý

    * Bài tập 1  :

Em hãy khoanh tròn vào đầu câu mà em cho là đúng, và gạch ngang vào đầu câu mà em cho là sai.

         a- Ta sống ở đời này để vui chơi, muốn làm gì thì làm.

         b- Ta sống ở đời này để nhận biết Thiên Chúa và sống hạnh phúc với Ngài.

* Bài tập 2 :

Em hãy khoanh tròn vào câu trả lời đúng nhất.

     Con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa qua :

a. Vũ trụ          b. Lương tâm          c. Chúa Giêsu Kitô

d. Tất cả đều sai              e. Tất cả đều đúng

VIII. Sống Lời Chúa  :

Em  quyết tâm chăm chỉ học Giáo lý
để nhận biết Thiên Chúa.

IX. Cầu nguyện kết thúc  :

Lạy Thiên Chúa là Đấng mà chúng con tin thờ, kính mến. Chúng con cảm ơn Chúa, vì qua bài học hôm nay chúng con đã được biết Chúa. Xin Chúa thương giúp chúng con biết siêng năng chăm học Giáo lý, để càng ngày càng hiểu biết về Chúa và càng yêu mến Chúa nhiều hơn. – Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

- Đọc Kinh Sáng Danh kết thúc.

 

BÀI MẪU 2  :

« Sử dụng phương pháp : diễn dịch, phát vấn và trực quan.

« Lớp Căn bản 4, bài 2  :

HỘI THÁNH THỜ PHƯỢNG THIÊN CHÚA

-Lời Chúa  : Tv 94, 1-7

-Ý chính  : Phụng vụ là việc thi hành chức tư tế của Chúa Kitô, do Chúa Kitô và toàn thể Hội Thánh cử hành để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hóa con người.

-Học cụ  : Tranh dân Israel rước hòm bia giao ước.

I. Cầu nguyện đầu giờ  :

          Để bắt đầu giờ học ngày hôm nay, chị  mời các em hãy dâng lòng trí mình cho Chúa. Xin Chúa soi sáng,  gìn giữ và giúp chúng ta sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa, để chúng ta biết và yêu mến Chúa nhiều hơn.

          Đọc kinh  “Xin Chúa sáng soi”.

II. Dẫn vào Lời Chúa  :

      1. Kiểm tra bài cũ  : 

-Hội Thánh dành ngày Chúa Nhật để làm gì ?

(Để kính nhớ Chúa Kitô phục sinh).

-Hội Thánh sắp xếp các ngày lễ trong năm như thế nào ? (Theo lịch sử cứu độ).

-Ta nên cầu nguyện theo sách kinh nào của Hội Thánh ? (Sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ).

      2. Dẫn vào Lời Chúa  :

Vào năm – 1250, Thiên Chúa sai ông Môsê cứu dân Israel ra khỏi đất Ai Cập, về Canaan là đất Thiên Chúa đã hứa. Khi về tới Canaan, dân Israel phải chiến đấu chống lại những dân xung quanh, đặc biệt là quân Philitinh. Ngày xưa, dân Do Thái là dân du mục (GLV treo tranh và giải thích), họ ở trong các lều bằng vải, đi đến đâu họ luôn luôn mang theo Hòm Bia Giao Ước, đặt trong một mái lều, gọi là “Trướng tao phùng”. Sự hiện diện của Khám Giao Ước là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân. Các em có biết Khám Giao Ước là gì không ? Đó là một cái hòm dùng để đặt hai bia đá khắc Mười Giới Răn mà Thiên Chúa đã ban cho dân tại núi Sinai.

Thế rồi Israel trải qua bao nhiêu năm tháng  : từ thời các ngôn sứ, các thủ lãnh, các vua, Saolê là vị vua đầu tiên của Israel, rồi tới vua Đavít. Năm 1.000 TCN, vua Đavít lên làm vua cả hai miền Nam – Bắc. Sau khi thống nhất đất nước, ông cho toàn dân đi rước Hòm Bia Thiên Chúa vào thành Giêrusalem. Dân chúng đi rước Hòm Bia với các loại nhạc cụ  : đàn cầm, đàn sắt, não bạt, phèng la, …. Còn vua Đavít đi trước Hòm Bia mà nhảy múa, tung hô, ngợi khen Thiên Chúa.

Các em thân mến ! Ngay từ thời Cựu Ước đã có những nghi thức phụng vụ để thờ lạy, ngợi khen Thiên Chúa. Ngày nay Hội Thánh vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta hãy luôn thờ lạy Thiên Chúa trong mọi giây phút.

Bây giờ chị mời các em lắng nghe Lời Chúa qua Thánh vịnh 94. Đây là Thánh vịnh dùng để mời gọi mọi người hãy ca tụng Thiên Chúa.

III. Công bố Lời Chúa

      1. Dẫn giải Lời Chúa  :

- Lời Chúa chúng ta vừa nghe là Thánh vịnh nào ?

- Thánh vịnh 94 kêu gọi chúng ta làm gì ?

- Ai có thể nhắc lại một câu trong Thánh vịnh này không ?

Ngày xưa dân Do Thái dùng Tv 94 này để kêu gọi dân chúng hãy reo hò mừng Đức Chúa (GLV trích dẫn câu 1+ 2, câu 6 +7).

Ngày nay Hội Thánh dùng Tv 94 để mở đầu kinh sáng để thờ phượng Chúa. Việc thờ phượng Chúa trong Hội Thánh được gọi là Phụng vụ. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu việc thờ phượng Chúa của Hội Thánh.  

      2. Giải thích các câu hỏi thưa :

          * Đọc chung câu 1 và câu 2  :

1-  H. Phụng vụ là gì ?

T. Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức của Hội Thánh, để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hoá con người.

2- H. Phụng vụ gồm những việc nào ?

T. Phụng vụ gồm thánh lễ, các bí tích, các giờ kinh phụng vụ.

- Vào các ngày lễ, nhất là vào ngày tết Nguyên Đán, chúng ta tới nhà ông bà để làm gì ?

(Để chúc tuổi, cầu chúc cho ông bà, ba mẹ, chú bác, cô gì,.. được bình an, mạnh khoẻ trong năm mới).

Đó là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam chúng ta, giúp chúng ta nhớ ơn các bậc tổ tiên, ông bà đã sinh thành ra chúng ta, và giúp mọi người trong gia đình sống đoàn kết, yêu thương nhau hơn. Những truyền thống văn hoá này giúp chúng ta có được đời sống phong phú hơn.

Cũng vậy đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu cũng gắn liền với việc tôn thờ Thiên Chúa trong Hội Thánh được gọi là Phụng vụ.

-  Vậy phụng vụ là gì ?

Phụng là thờ phượng, vụ là việc, phụng vụ là việc thờ phượng chính thức của Hội Thánh để chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hoá con người.

Phụng vụ là hành vi thờ phượng : nhằm tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.

Phụng vụ là việc thờ phượng mà Hội Thánh dâng lên Chúa Cha để cảm tạ về phúc lộc Người đã ban cho loài người trong Đức Kitô, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần nhằm thánh hoá con người.

Qua phụng vụ, Thiên Chúa Ba Ngôi tiếp tục thực hiện công trình cứu chuộc là thi ân giáng phúc cho mọi người (xem Ep 1, 9).

Để phụng vụ là việc thờ phượng chính thức của Hội Thánh đòi phải có đủ ba yếu tố sau đây  :

-Yếu tố 1  : Phải là lời kinh chính thức của Hội Thánh được ấn định trong trong sách phụng vụ, chứ không phải là lời nguyện tự phát.

-Yếu tố 2  : Phải do một thừa tác viên hợp pháp chủ sự cử hành, nghĩa là những người được Hội Thánh cắt đặt và ban quyền chủ sự, chứ không phải bất cứ ai cũng được.

-Yếu tố 3  : Phải cử hành nhân danh toàn thể Hội Thánh vì phụng vụ không bao giờ có tính cá nhân cho dù thừa tác viên cử hành một mình. Ví dụ, khi một linh mục dâng lễ một mình, linh mục ấy dâng lễ nhân danh toàn thể Hội Thánh.

Như thế có ba việc sau đây được coi là phụng vụ vì có đủ ba yếu tố trên. Em nào cho biết ba việc ấy là gì ?

Thánh lễ, bảy bí tích, các giờ kinh phụng vụ.

Tóm lại, phụng vụ là gì ? (-Việc tôn thờ chính thức của Hội Thánh).

Ø Khi cử hành phụng vụ, Hội Thánh nhằm mục đích gì ? (Tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hoá con người).

Ø  Phụng vụ gồm những việc nào ?

   * Đọc chung câu 3

      H. Ai cử hành phụng vụ ?

      T. Mọi tín hữu, dù là linh mục hay giáo dân đều tuỳ chức phận mình mà kết hợp với Chúa Kitô là đầu để cử hành phụng vụ.

            -Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của ai ? (Chúa Kitô).

           -Ai là đầu của Hội Thánh? (Chúa Kitô).

           -Mỗi tín hữu là gì của Chúa Kitô ?

              (Là chi thể của Chúa Kitô).

Vì thế, khi Hội Thánh cử hành phụng vụ thì mỗi người tùy theo chức phận của mình  : linh mục, tu sĩ, giáo dân, kết hợp với Chúa Kitô là đầu để cử hành phụng vụ :

- Trong thánh lễ  :

+ Xưa Chúa Giêsu đã dâng mình trên thánh giá, thì nay chính Ngài cũng dâng mình trên bàn thờ qua tay các linh mục. Vậy ai là người dâng lễ  ? (Chúa Giêsu là người dâng lễ).

+ Chúa Kitô hiện diện nơi hình bánh và rượu. Vậy của lễ được dâng trong Thánh lễ là gì ? (Là chính  Chúa Giêsu).

- Trong các bí tích  :

+ Ai ban các bí tích cho ta ?

     Qua tay linh mục, Chúa Giêsu ban các bí tích cho ta.

-Trong Lời Chúa  :

 Khi ta nghe Lời Chúa, đặc biệt trong Thánh lễ, ai nói với ta ? (Chính Chúa Giêsu nói với ta qua thừa tác viên đọc sách).

- Trong giờ cầu nguyện của Hội Thánh  :

      Chúa Kitô hiện diện khi chúng ta cầu khẩn và hát Thánh Vịnh như chính Ngài đã hứa : “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đó giữa  họ” (Mt 18, 20).

Tóm lại, những ai được cử hành phụng vụ ?

   Ø Mọi tín hữu kết hợp với Chúa Kitô để cử hành phụng vụ.

   * Đọc chung câu 4 :

         H. Ta phải tham dự phụng vụ thế nào ?

          T. Ta phải tham dự cách tích cực, thành kính, đầy ý thức và yêu mến. Muốn được vậy, ta cần tìm hiểu ý nghĩa những lời nói, cử chỉ và các dấu hiệu tượng trưng trong nghi thức phụng vụ.

- Ta phải có thái độ thế nào khi tham dự phụng vụ ?

(Phải tham dự cách tích cực, đầy ý thức và yêu mến)

- Đầy ý thức và yêu mến nghĩa là gì ?

(Nghĩa là tham dự với sự hiểu biết, tin tưởng và tâm tình yêu mến. Có hiểu biết mới gợi nên trong chúng ta lòng yêu mến.

-Muốn hiểu biết phụng vụ chúng ta phải làm gì ?

(Chúng ta phải học hiểu ý nghĩa lời đọc, cử chỉ, và dấu hiệu tượng trưng trong nghi thức phụng vụ)ï.

- Cách tích cực, thành kính nghĩa là gì ?

(Nghĩa là cùng thưa kinh, ca hát chung với cộng đoàn, hiệp lòng hiệp ý với chủ tế, với cộng đoàn, không thụ động lười biếng).

- Cách đầy đủ nghĩa là gì ?

(Nghĩa là tham dự đầy đủ từ đầu đến cuối, không bỏ sót bất cứ phần nào).

 

Tóm lại  :

        @  Khi tham dự phụng vụ ta cần có tâm tình nào ?

        @  Để có những thái độ, tâm tình trên, chúng ta cần làm gì ? (Tìm hiểu học hỏi các nghi thức phụng vụ).

     * Đọc chung câu 5 :

         H. Trong phụng vụ, Lời Chúa đóng vai trò nào ?

           T. Lời Chúa giúp ta thấm nhuần ý nghĩa những điều đang cử hành để đáp lại bằng đức tin.

Các em có nhớ, sau khi nghe sứ thần truyền tin, Đức Mẹ đã đáp lại thế nào không ? [“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”(Lc 1, 38).]

Vào ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ mới mạnh dạn rao giảng Tin Mừng cho mọi người, dân chúng nghe theo các tông đồ rất đông, ngày hôm ấy có khoảng ba ngàn người theo đạo (x. Cv 2, 14-41).

Các em thân mến ! Sau khi nghe thiên thần truyền tin, Mẹ Maria đã thưa “xin vâng”, ba ngàn người nghe các tông đồ rao giảng đã theo đạo vào ngày lễ Ngũ Tuần cho chúng ta thấy đức tin là một sự đáp lại Lời Chúa nói với mình.

             Chính vì thế phụng vụ Lời Chúa là thành phần cốt yếu trong phụng vụ vì Lời Chúa giúp ta thấm nhuần ý nghĩa  những điều chúng ta đang cử hành để chúng ta đáp lại bằng đức tin.

    * Đọc chung câu 6.

     H. Trong phụng vụ, ca nhạc giúp ta thế nào ?

       T. Ca nhạc giúp cho phụng vụ thêm tươi đẹp và trang trọng, đồng thời giúp ta tham dự cách tích cực và sống động.

Thánh vịnh 94, mà hôm nay chúng ta vừa nghe, là Thánh vịnh Hội Thánh dùng để khai mạc giờ kinh sáng, mời gọi ta hãy thờ phượng Chúa theo điệu hát cung đàn :

               “Vào trước thánh nhan dâng lời cảm tạ,

              cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 94, 2).

Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu  : “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem  cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, Thánh Thi và Thánh ca do thần khí linh hứng” (Ep 5, 19). Thánh Augustinô còn nói  : “Hát là cầu nguyện hai lần”.

Như vậy hát giúp cho phụng vụ thêm trang trọng và tươi đẹp, giúp ta tham dự cách tích cực và sống động hơn.

V. Cầu nguyện giữa giờ  :

      1. Gợi tâm tình cầu nguyện  :

Các em thân mến ! Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức của Hội Thánh. Trong phụng vụ ta được kết hợp với Chúa Kitô là đầu và toàn thể Hội Thánh mà tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời giúp chúng ta trở nên thánh thiện hơn. Với tâm tình thành kính và yêu mến, chị mời các em đứng lên, chúng ta cùng với muôn loài muôn vật hát dâng Thiên Chúa lời ca ngợi.

      2. Cầu nguyện  :

(GLV phải tập trước cho học sinh bài hát)

MUÔN TẠO VẬT ƠI

ĐK : Muôn tạo vật ơi cùng tôi hát lên một bài, ca mừng Thượng Đế quyền uy tác sinh muôn loài. Hỡi người công chính hãy cất cao lên muôn lời, ngợi khen Chúa Trời chan hoà ngàn tiếng nơi nơi.

1. Ngài ban cho tôi biển khơi, núi cao, sông dài. Trời mây tinh tú, trong mát suối reo rừng sâu. Vầng dương chiếu ban ngày, vầng trăng sáng đêm dài. Xuân hạ, thu, đông chan chứa biết bao hồng ân.

 

VI. Sinh hoạt

 

VII. Bài tập :

          Em hãy tìm câu ở cột B cho hợp nghĩa với câu ở cột A :

Cột A

Cột B

1.   Phụng vụ gồm những việc  :

a.    thấm nhuần ý nghĩa điều đang cử hành để đáp lại bằng đức tin.

2.    Trong Hội Thánh, Phụng vụ được cử hành để

b.   tìm hiểu ý nghĩa những lời nói cử chỉ và dấu hiệu tượng trưng trong nghi thức phụng vụ.

3.    Khi tham dự phụng vụ, ta phải có thái độ

c.    tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hóa con người.

4.    Muốn tham dự phụng vụ cách thành kính và yêu mến, ta cần

d.    tích cực, thành kính, đầy ý thức và yêu mến.

5.   Trong phụng vụ, Lời Chúa giúp ta

e.    thánh lễ, các bí tích, các giờ kinh phụng vụ và phụ tích.

VIII. Sống Lời Chúa

               Tuần này mỗi khi tham dự thánh lễ, em nhớ tham dự cách tích cực  : cùng thưa kinh, ca hát chung với cộng đoàn để bày tỏ lòng thành kính, và yêu mến Thiên Chúa Ba Ngôi.

IX. Cầu nguyện kết thúc  :

               Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lập ra nhiều phương thế để ban ơn cho chúng con, đặc biệt là Thánh lễ. Xin Chúa giúp chúng con biết đem hết tâm tình mà thờ lạy, ngợi khen, cảm tạ Chúa mỗi khi tham dự Thánh lễ. Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.


Mục Lục
Trở Về Trang Nhà