ĐỨC TIN VÀ VIỆC
THÔNG TRUYỀN ĐỨC TIN.
Suy tư về việc tân
phúc âm hóa trong nỗ lực loan báo Tin Mừng (giaolyductin.org 27/12/11, 5:56 pm)
Ngày bế mạc Đại hội Đặc biệt của Thượng
Hội Đồng Giám Mục cho vùng Trung Đông, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã quyết
định lấy chủ đề: Nova evangelization ad christianam fidem tradendam cho
Thượng Hội Đồng Giám Mục thường kỳ năm 2012. Chủ đề tân phúc âm hóa đã được Đức
Thánh Cha quan tâm cách đặc biệt khi nói đến bổn phận và các hoạt động truyền
giáo của Giáo Hội trong thời đại hôm nay.
Để có thể hiểu ý nghĩa cụm từ tân phúc
âm hóa, chúng ta thử khám phá ý nghĩa đoạn văn của Sắc lệnh Ad gentes,
số 36 đã được các nghị phụ Công Đồng Vatican II trình bày: “tất cả con
cái Giáo Hội phải tích cực ý thức trách nhiệm của mình đối với thế giới, phải
hun đúc cho mình có tinh thần thực sự công giáo, và phải hy sinh góp sức vào
công việc rao giảng Phúc Âm. Tuy nhiên, mọi người phải biết rằng bổn phận đầu
tiên và quan trọng nhất đối với việc truyền bá đức tin là sống sâu xa đời sống
Kitô hữu. Vì chính khi nhiệt thành phụng sự Thiên Chúa và bác ái đối với tha
nhân, họ mang lại cho toàn thể Giáo Hội một cảm hứng tinh thần mới và làm cho
Giáo Hội xuất hiện như là một dấu chỉ nổi lên giữa các dân là "ánh
sáng thế gian" (Mt 5,14) và là "muối đất" (Mt 5,13)” (AG, s. 36).
Như thế nào là “sống sâu xa đời sống
Kitô hữu” (vitam christianam profunde vivere)? Có thể hiểu đó là cách thế Phúc
âm hóa môi trường mình sống, có nghĩa là“đem Tin Mừng vào trong mọi cảnh vực nhân
loại và nhờ sự tiếp xúc này làm thay đổi tự bên trong, đổi mới chính nhân loại…
Giáo Hội Phúc Âm hóa, khi chỉ nhờ sức mạnh thần linh của sứ điệp mà Giáo Hội
công bố (Rm
1,16), Giáo Hội tìm cách hoán cải cùng lúc lương tâm cá nhân và tập thể của con
người, hoán cải sinh hoạt mà con người đang dấn thân, hoán cải đời sống và hoàn
cảnh cụ thể của họ”[1]. Như vậy, phúc âm hóa là làm cho nhân
loại hoán cải nhờ tiếp xúc với Tin Mừng qua các hoạt động truyền giáo của người
Kitô hữu ngay chính trong các hoàn cảnh sống của mình.
Việc phúc âm hóa được thực hiện bao gồm
một tiến trình với ba yếu tố: mục đích, nội dung và cách thế. Trong tiến trình này hai yếu tố mục đích và nội
dung có thể được hiểu như “bản thể” của sứ vụ loan báo Tin Mừng, yếu tố cách
thế có thể ví như là “tùy thể” của sứ vụ. Vì là “bản thể” cho nên mục đích và
nội dung sứ vụ mang tính bất di bất dịch, không thay đổi, yếu tố có thể thay
đổi và tốt nhất nên thay đổi chính là cách thế phúc âm hóa. Sự thay
đổi cách thế này được bản lineamenta của Thượng Hội Đồng Giám mục thuờng kỳ lần
XIII gọi là Tân Phúc âm hóa. Để hiểu cụm từ này không là chuyện đơn giản, như
Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp nhận định: “Đứng trên phương diện suy tư thần
học, diễn ngữ “Tân Phúc Âm hóa” (Nouvelle évangélisation, New evangelization
hay Nueva evangelización, Nuova Evangelizzazione) khá hàm hồ và có thể
tạo nên ngộ nhận như thể muốn phủ nhận những giá trị của công cuộc Phúc Âm hóa
hay truyền giáo cũ. Trên thực tế có người đã vô tình đồng hóa “Tân Phúc Âm hóa”
với “Tái Phúc Âm hóa”, và gián tiếp cho rằng việc rao giảng Tin Mừng trước đây
có những thiếu sót cơ bản, sai lạc hoặc không còn hiệu năng, cho nên phải “Tái
Phúc Âm hóa”, nghĩa là hầu như phải xóa bàn làm lại từ đầu và tất cả”.[2] Hiểu được vấn đề, bản Lineamenta nỗ
lực giải nghĩa: Tân Phúc âm hóa “được hiểu như đồng nghĩa với những cố gắng
canh tân thiêng liêng về đời sống đức tin trong các Giáo Hội địa phương, bắt
đầu bằng một tiến trình phân định những thay đổi trong các khung cảnh văn hoá
và xã hội khác nhau và tác động của những thay đổi này đối với đời sống Kitô
hữu, đọc lại ký ức đức tin và đảm nhận những trách nhiệm mới cũng như phát sinh
những nghị lực mới để rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô một cách hân hoan và
thuyết phục”[3]. Nỗ lực đó “cho thấy rằng người Kitô hữu
không bao giờ được từ bỏ sự bạo dạn trong việc loan báo Tin Mừng và tìm kiếm
mọi phương thức tích cực để mở ra những con đường đối thoại, ở đó chúng ta có
thể thảo luận về những mong đợi thâm sâu nhất của con người và lòng khát khao
Thiên Chúa của họ”.[4] Vâng, Tân Phúc âm hóa là mạnh dạn kiến
tạo một con đường để Tin Mừng có thể đến với nhân loại trong bối cảnh xã hội
ngày nay, một xã hội đang đối diện với nhiều biến đổi trong các lãnh vực liên
quan đến cuộc sống. Sự biến đổi của xã hội đương nhiên tác động không nhỏ đến
đời sống các Kitô hữu, do đó khởi sự công cuộc Tân Phúc âm hóa trước tiên
là canh tân cách tư duy của người Kitô hữu về hồng ân đức tin mình được trao
ban, về nhiệm vụ của người kitô hữu trong Giáo Hội, đặc biệt về sứ vụ loan báo
Tin Mừng.
1. Hồng ân đức tin
Khởi đầu của nghi thức khai tâm dành cho
người lớn là cuộc đối đáp: “Anh (chị) xin gì cùng Hội Thánh?” – “Con xin đức
tin”. Cuộc đối đáp này là nền tảng cho một quyết định quan trọng liên
quan đến toàn bộ cuộc sống của người Kitô hữu. Trở thành người Kitô hữu “không
phải là kết quả của một sự lựa chọn đạo đức hay của một ý tưởng cao cả, nhưng
là sự gặp gỡ
với một biến cố, một con người, nó đem sức sống đến cho một chân trời mới và
một hướng đi có tính quyết định”[5], kết quả cuộc gặp gỡ là lời tuyên
xưng: “tôi tin”, như là lời đáp trả trước “cảm nghiệm” về tình yêu bao la mà
Thiên Chúa ban tặng cho con người nói chung và từng cá nhân nói riêng.
Bởi đó, đức tin trước hết là quà tặng
của Thiên Chúa trao ban cách nhưng không cho con người qua Hội Thánh. Quà tặng
đó chính là tình yêu, đã được tỏ bày và trao ban qua Người Con duy nhất của
Ngài, vâng, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16).
Vì thế, khi thân thưa “con xin đức tin” là khao khát một cuộc gặp gỡ với con
người Giêsu, Lời yêu thương của Thiên Chúa, như Zacheu khi ông tìm cách leo lên
cây để xem Chúa (x. Lc 19, 3). Chính sự khao khát này, Zacheu đã thực sự được
thỏa lòng mong ước, ông đã gặp được Đức Kitô, và qua đó ông đã được biến đổi
hoàn toàn, “Lạy Thầy, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo,
và nếu tôi có chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19, 8).
Nói như đức Bênêđictô XVI, khi còn là một giáo sư thần học: “tin là một cuộc
gặp gỡ với con người Giêsu, và qua cuộc gặp gỡ đó mà nhận ra rằng, ý nghĩa
của thế giới là một con người, một Ngôi vị sống động”[6]. Cuộc gặp gỡ này được gọi là đức tin vì
con người mà chúng ta gặp gỡ đó không đơn thuần là một con người trần thế,
nhưng đó là “vị Thiên Chúa làm người”, là Logos: Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa,
và là chính Thiên Chúa, Logos đó “đã trở nên người phàm” (Ga 1, 14).
Đức Giêsu Kitô, người được Đức Trinh Nữ sinh ra là Ngôi Lời Thiên Chúa và đã
trở nên đồng bản thể với chúng ta[7]. Hồng ân đức tin chính là qua cuộc gặp gỡ
này, chúng ta vừa nhận ra tình yêu “không thể tưởng tượng” mà Thiên Chúa dành
để cho con người qua việc nhập thể của Ngôi Lời, biểu tỏ một tình yêu gần gũi
thân thương của Cha đối với con; sự tự hiến của Đức Kitô trên Thập Giá thể hiện
tột đỉnh một tình yêu dám chết cho người mình yêu: tình yêu phu – phụ; sự Phục
sinh vinh hiển, tỏ bày niềm hân hoan của tình yêu vĩnh hằng dành cho con người
để từ đây sự chết không còn gây sự chia cắt giữa Thiên Chúa với con người. Từ
việc khám phá này chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa lại có thể yêu tôi như
thế? Vậy tôi là ai? Giữa tôi với Thiên Chúa có mối tương quan gì? Thắc mắc đó
có thể tìm thấy câu trả lời dựa theo tư duy của con người: chúng ta chỉ có thể
yêu những gì thuộc về chúng ta, một cách tương tự (analogie), Thiên Chúa yêu
chúng ta bởi chúng ta thuộc về Người, có nghĩa là giữa chúng ta với Thiên Chúa
có mối tương quan thật đặc biệt, thật thân thuộc, từ loại suy đó chúng ta có
thể khẳng định: Thiên Chúa yêu tôi bởi tôi thuộc về Người, chính Người tạo dựng
nên tôi, Người là Cha của tôi. Một nhận định như thế sẽ đưa chúng ta đến việc
hoán cải, quay trở về với Cha, với tình yêu của Cha. Việc quay trở về này lôi
kéo chúng ta ra khỏi lối sống ích kỷ, trái lại giúp chúng ta đạt tới một tình
yêu trọn vẹn đúng nghĩa của nó. Điều đó có nghĩa là qua việc gặp gỡ với Đấng là
tình yêu, nẩy sinh trong chúng ta một niềm hân hoan khôn tả, nó không bắt nguồn
từ cảm xúc tự nhiên chóng qua, nhưng được trào dâng từ việc khám phámối tương
quan giữa chúng ta với Thiên Chúa. Việc khám phá này “là con đường đi đến tình
yêu và tiếng thưa vâng của ý chí chúng ta đối với ý muốn của Người kết hợp sự
hiểu biết, ý chí và cảm xúc trở thành một hành động trọn vẹn của tình yêu. Đây
rõ ràng là một tiến tình vẫn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ ‘kết
thúc’ và trọn vẹn được; tình yêu chuyển động trong suốt thời gian sống, tăng
trưởng dần và nhờ đó luôn trung thành với chính mình... Lịch sử tình yêu
giữa Thiên Chúa và con người bao hàm sự kiện: sự hiệp thông ý chí tăng triển
trong mối hiệp thông tư tưởng và tình cảm, như thế ý muốn của chúng ta luôn
trùng khớp với ý muốn của Thiên Chúa: ý muốn của Thiên Chúa không phải là ý
muốn xa lạ đối với tôi mà các giới luật áp đặt lên tôi từ bên ngoài, nhưng là ý
muốn của chính tôi xuất phát từ kinh nghiệm cho thấy, trong thực tế, Thiên Chúa
hiện diện rất thâm sâu trong tôi hơn là tôi đối với tôi. Từ đó sự phó thác vào
Thiên Chúa càng ngày càng lớn lên và Thiên Chúa thực sự trở thành niềm vui cho
chúng ta”[8].
Có thể nói ngắn gọn, tin chính là gặp gỡ
với Đấng yêu thương không thể so sánh với bất cứ một cuộc gặp gỡ nào trong trần
thế nầy, một Đấng thật gần gũi với tôi trong cuộc sống, Đấng đó không chỉ chia
sẻ cuộc sống này với tôi, nhưng còn mang lại cho tôi một cuộc sống mới mang
tính vĩnh hằng, để qua cuộc gặp gỡ này tôi hoán cải và tín thác vào tình yêu
của Đấng mà tôi gặp gỡ. Tuyên xưng đức tin là làm chứng cho cuộc gặp gỡ đó. Một
cuộc gặp gỡ sống động như đang đụng chạm, đang đối thoại với Đấng đã được Thiên
Chúa phái đến để thực hiện ý định cứu chuộc nhân loại, Đấng đó đã bị giao nộp
vào tay kẻ dữ và bị đóng đinh trên Thập Giá nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người
sống lại, nhờ đó Người đã chiến thắng sự chết và đau khổ, và đã phục hồi sự
sống cho nhân loại (x. Cv 2,22-24), chứ không phải là đọc thuộc lòng những công
thức, những giáo huấn cách máy móc, hoặc câu nệ vào những hình thức bên ngoài
mang tính phô trương.
Tuy nhiên hồng ân đức tin không là một
ân huệ chỉ dừng lại ở chiều kích cá nhân, bởi cuộc gặp gỡ với Đấng là tình yêu
luôn hướng tới cộng đoàn. Vì Thiên Chúa là một cộng đoàn Ngôi vị: Cha – Con –
Thánh Thần, nên khi nhận lãnh được hồng ân đức tin, mỗi người chúng ta đều được
mời gọi hoán cải, thanh luyện để trở thành một con người mới, con người không
còn sống cho chính mình, mà là cho Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta (x. Rm 14,7-8).
Có nghĩa khi tuyên tín “tôi tin”, người đó được tháp nhập vào cộng đoàn của
những người tin, và lúc này không chỉ là “tôi tin” mà còn là “chúng tôi tin”
một lời tuyên xưng của Thân mình Chúa Kitô. Cộng đoàn đó, thân mình đó được gọi
là Giáo Hội. Chính trong cộng đoàn này, chúng ta sẽ được dẫn tới gặp gỡ với Đức
Kitô một cách mật thiết đến nỗi nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không
còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Điều đó xảy ra trước
tiên ngay chính trong việc cử hành Phụng vụ, bởi “Chúa Kitô hằng hiện diện
trong Giáo Hội, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện thực sự
trong Hy Lễ…, nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình thái của bí tích Thánh
Thể. Người hiện diện thiết thực trong các Bí Tích nhờ quyền năng của Người; vì
thế, ai được rửa tội thì chính là được Chúa Kitô rửa. Người hiện diện thiết
thực trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong
Giáo Hội. Sau hết Người hiện diện khi Giáo Hội khẩn cầu và hát Thánh Vịnh, như
chính Người đã hứa: ‘Ðâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở
giữa họ’ (Mt
18,20). Thực vậy, trong công cuộc vĩ đại tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo và
thánh hóa mọi người, Chúa Kitô hằng kết hiệp với Giáo Hội là hiền thê rất quý
yêu và Giáo Hội kêu cầu Người như Chúa mình và nhờ chính Người phụng thờ Chúa
Cha Hằng Hữu.”(SC,
s.7).
Vì vậy, việc gắn bó với Giáo Hội là điều
kiện thiết yếu để cuộc gặp gỡ với Đức Kitô thực sự đạt tới giá trị cứu độ, đó
là cùng đích của cuộc gặp gỡ này. Việc gắn bó với Giáo Hội đồng nghĩa với việc
dự phần và tham gia vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Việc tham gia đó
trước tiên được biểu tỏ qua việc tích cực tham dự cử hành phụng vụ cách ý thức
và linh động. “Việc tham dự ấy do chính bản tính Phụng Vụ đòi hỏi; lại nữa, nhờ
phép Rửa Tội, việc tham dự Phụng Vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân
Kitô giáo, ‘là giòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là dân thánh, là
con dân được tuyển chọn” (1 Pr 2,9; x. 2,4-5), (SC, s.14).
Với ý thức đó, chúng ta sẽ loại bỏ thái
độ tiêu cực đối với các cử hành Phụng vụ. Một tâm trạng chung của người giáo
hữu Việt Nam hôm nay là cố gắng chu tất luật buộc liên quan đến việc cử hành
Phụng vụ, luật xựng tội một năm ít là một lần vào mùa Phục Sinh, luật đi lễ các
ngày Chúa Nhật, luật kết hôn theo nghi thức Kitô giáo..., để cho an lương tâm,
và vì vậy, việc cử hành đó mang nặng tính máy móc, hình thức chiếu lệ. Việc
tham dự đó chỉ mang nặng tính cá nhân chủ nghĩa, vì đó chẳng qua là để ru ngủ
lương tâm, hay vì một hành vi lợi lộc nào đó cho mình, cho gia đình mình. Việc
tham dự phụng vụ như thế không thể có được một cuộc gặp gỡ đích thực với Đức
Kitô, cho nên cũng không thể kiến tạo mối tương quan để có thể gặp gỡ người
khác, những chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô, vì thế, khuôn mặt của Chúa
Kitô chưa có thể được giới thiệu cách đúng nghĩa đến với nhân loại, và cuộc
sống vẫn còn đầy dẫy những bất công, những ganh ghét hận thù, vẫn xa lạ với
nhau, vẫn bất an trong đời sống gia đình…
Để có thể phúc âm hóa môi trường mình
sống, nhờ đó người ta nhận ra Tin Mừng chúa Kitô, từng tín hữu được mời gọi
canh tân việc tham gia cử hành Phụng vụ, để Phụng Vụ, nhất là Lễ Tạ Ơn, trở
thành nguồn mạch “tuôn tràn ân sủng vào trong chúng ta và làm cho con người
được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách hữu hiệu, đồng thời Thiên Chúa được tôn
vinh; đó là điều mà mọi công việc khác của Giáo Hội đều qui hướng về như là cứu
cánh” (SC,
s. 10). Việc tham dự vào các cử hành Phụng vụ, nhất là cử hành Thánh Lễ Tạ ơn
phải được coi đó là một hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại,
để qua đó con người được dự phần vào công việc của Thiên Chúa, bởi Phụng vụ được
xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô, cho nên “mọi việc
cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không một hành vi nào khác của
Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp” (SC, s. 7).
Thật đáng tiếc, khi phần đông tín hữu chúng ta thay vì nhận ra việc tham dự các
cử hành Phụng vụ là một hồng ân, lại coi đó như là một bổn phận bắt buộc, cho
nên chúng ta không thể nào loan báo Tin Mừng sự sống được, không thể nào giới
thiệu cho người khác về sức sống của Phụng vụ, và sự cần thiết của việc cử hành
Phụng vụ, để rồi người ta coi việc đi lễ của chúng ta cũng giản đơn như việc đi
chùa của các phật tử, việc xưng tội của chúng ta như là cách thế để bao che cho
những việc làm xấu xa của chúng ta.
Cần phải canh tân lối mòn suy nghĩ này,
chẳng hạn đối với hành vi tham dự việc cử hành Thánh Lễ, phải canh tân để
làm sao chúng ta ý thức được rằng từ khởi đầu Thánh Lễ cho tới lời kết thúc
Thánh Lễ là một tiến trình của đời sống Kitô hữu. Nhập lễ với đoàn rước từ cuối
nhà thờ đi lên cung thánh không là hình ảnh của một Giáo Hội lữ hành đang tiến
bước về Nhà Cha dưới sự dẫn đầu của Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên Thập Giá
và đã Phục sinh đó sao? Vậy thì làm sao chúng ta lại đứng ngoài lề của sự tiến
bước này khi chúng ta hiện diện cách thờ ơ, chiếu lệ? Và lời kết thúc Thánh Lễ
đó không là một lời sai đi của Chúa dành cho chúng ta sao? “Lễ xong chúc anh
chị em đi bình an” “đó cũng là lời sai chúng ta đi làm những việc thiện ích mà
ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa”[9], bởi nói như thánh nữ Têrêsa thành Avila:
“Đức Kitô ngày nay, không có thân xác nào ngoài thân xác của bạn, không có đôi
tay nào ngoài đôi tay của bạn, không có đôi chân nào ngoài đôi chân của bạn.
Cặp mắt mà qua đó Đức Kitô động lòng trắc ẩn chăm chú nhìn vào thế giới là cặp
mắt của bạn. Đôi chân đưa Người đi đây đó thi thố việc lành là đôi chân
của bạn. Đôi tay Người đưa lên chúc phúc cho người ta hôm nay là đôi tay của
ban”[10], vậy tại sao chúng ta hối hả ra về khi
chưa kịp nhận lãnh “bài sai” để tiếp tục công việc của Đức Kitô? Giữa phần nhập
lễ và kết thúc là tiến trình mời chúng ta dự vào bàn tiệc Thánh với Lời Chúa và
Thánh Thể, hai nguồn lương thực quan trọng nuôi dưỡng chúng ta trên đường lữ
hành về Nhà Cha, nói lên sự quan tâm chăm sóc tràn đầy yêu thương của Thiên
Chúa dành cho chúng ta. Thử hỏi có bao nhiêu người tham dự Thánh Lễ thật lòng
chú tâm lắng nghe Lời Chúa và qua đó gặp được Chúa? Việc hiệp thông Thánh Thể
có thực sự là nỗi khao khát do lòng mến thúc đẩy để được biến đổi trở nên một với
Chúa? Hay tất cả chỉ là một tập quán được lập đi lập lại cách buồn chán?
2. Thông truyền đức tin
Ngày 24.12.2009, tại Sở Kiện – Hà Nội,
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam long trọng khai mạc Năm Thánh 2010, kỷ niệm 350 năm
thành lập hai Giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, 50 năm thành lập Hàng Giáo
phẩm Việt Nam. Đây là cơ hội thuận tiện để Giáo Hội Việt Nam “dâng lời tạ ơn
Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, đồng thời nỗ lực đào sâu và làm tăng
trưởng đức tin cũng như hâm nóng lại nhiệt tình loan báo Tin Mừng”[11]. Đây cũng là dịp để Giáo Hội Việt
Đứng trước con số thống kê này, có lẽ ai
trong chúng ta cũng tự hỏi: tại sao công việc truyền giáo có vẻ dậm chân tại
chỗ? Vấn đề nằm ở đâu? Phải chăng Hàng Giáo Phẩm Việt
Nhận định sai lầm đó phần nào có sự đóng
góp của người tín hữu chúng ta, do chúng ta chưa thực sự sống theo giáo huấn
của Lời Chúa, chưa nói cho người khác về con người của Chúa Giêsu, chưa yêu và
phục vụ người khác theo cách thế mà Chúa Giêsu đã yêu và đã phục vụ. Bởi đó,
tân phúc âm hóa để thông truyền đức tin kitô giáo là một đòi hỏi cấp bách đối
với đời sống tín hữu chúng ta, “vì đối với Giáo Hội, việc trình bày sứ điệp Tin
Mừng không phải là một sự đóng góp tùy hứng: Đó chính là bổn phận đòi buộc Giáo
Hội, do Chúa Giêsu truyền lại, để nhân loại có thể tin và được cứu thoát. Thực
thế, sứ điệp Tin Mừng thật cần thiết, duy nhất mà không gì có thể thay thế
được. Sứ điệp Tin Mừng không chấp nhận sự lãnh đạm, sự dung hợp và một thêm bớt
nào. Vì chính đây là vấn đề cứu rỗi của con người”[14].
Để công việc tân phúc âm hóa đạt tới mục
đích của nó, việc phải làm là thay đổi tư duy về truyền giáo vốn in sâu trong
tâm trí người tín hữu Việt Nam: truyền giáo là lên đường rao giảng Tin Mừng,
đặc biệt là đến những vùng đất xa xôi hẻo lánh, chưa có bóng dáng của người tín
hữu, và vì thế đây là công việc của riêng hàng giáo sĩ và của những cán bộ
chuyên trách về truyền giáo. Và muốn truyền giáo thì cần phải qua các khóa huấn
luyện, cần phải nắm vững kỹ thuật truyền giáo, mà quên rằng truyền giáo trước
tiên chính là thông truyền đức tin mà mình đã được thông ban.
Việc thông truyền đức tin khởi sự từ
việc “Phúc âm hóa chính mình. Là cộng đoàn những kẻ tin, là cộng đoàn sống và
chuyển thông niềm cậy trông, là cộng đoàn tình yêu huynh đệ, Giáo Hội cần phải
lắng nghe luôn điều mình phải tin, những lý do để trông cậy, điều răn mới của
tình yêu. Là dân Chúa sống giữa thế gian và thường bị các thần tượng cám dỗ,
Giáo Hội cần được nghe công bố những kỳ công của Thiên Chúa (x. Cv 2,11),
bởi vì chính những kỳ công đó đưa cộng đoàn trở về cùng Chúa. Giáo Hội cần được
Thiên Chúa kêu gọi và quy tụ luôn luôn. Tóm lại, Giáo Hội luôn luôn cần được
Phúc âm hoá nếu muốn giữ được vẻ tươi mát, sinh khí và sức mạnh để loan báo Tin
Mừng… Phải Phúc Âm hóa chính mình bằng sự trở lại và đổi mới liên tục để thế
giới dễ chấp nhận Tin Mừng”.[15]
Để có thể làm cho đức tin của mình thực
sự trở thành sức hấp dẫn, đánh động người khác cần phải bắt tay vào việc canh
tân chính đời sống kitô hữu của mình qua chứng tá cuộc sống giữa trần thế. Việc
canh tân này là cuộc hoán cải để “tái khám phá niềm vui đức tin và tìm lại sự
hăng say thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu - vốn
là điều không thể thiếu - kín múc được sức mạnh và năng lực trong sự khám phá
hằng ngày tình yêu của Chúa. Thực vậy, đức tin tăng trưởng khi được sống như
một cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh và khi được thông truyền như một kinh
nghiệm về ơn thánh và niềm vui. Đức tin phong phú hóa, vì mở rộng con tim trong
niềm hy vọng và giúp mang lại một chứng tá có khả năng sinh sản: nó mở rộng tâm
trí của những người lắng nghe và đón nhận lời Chúa mời gọi gắn bó với Lời Ngài
để trở thành môn đệ của Ngài”[16].
Thật vậy, thông truyền đức tin là động
thái muốn xẻ chia niềm hân hoan vì hồng ân đức tin được nhận lãnh, qua hồng ân
này người nhận lãnh gặp gỡ được nguồn tình yêu, gặp gỡ được Đức Giêsu Kitô, Lời
yêu thương của Thiên Chúa, Đấng mà theo Đức Bênêđictô diễn tả: là một vị Thiên
Chúa yêu thương đến nỗi “quay lại chống đối chính mình”[17] để biểu tỏ tình yêu lạ lùng đối với nhân
loại, khi Người tự hiến chính mình trên Thập tự, nhằm nâng con người lên, đưa
con người ra khỏi vũng lầy tội lỗi và sự chết, trao ban sự sống đời đời cho họ.
Được yêu thương như thế phải chăng là do chúng ta xứng đáng. Thưa không, ngàn
lần không. Đây là món quà nhưng không Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta, vì vậy
truyền giáo khởi sự bằng việc chia xẻ với mọi người niềm vui to lớn mà chúng ta
nhận được, như người phụ nữ trong Phúc Âm Luca, khi tìm thấy đồng bạc bị
đánh mất liền “mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi
đã tìm đuợc đồng quan tôi đã đánh mất’” (Lc 15,10).
Do đó, truyền giáo không là chinh phục
nhưng là lời mời gọi dự phần chung vui vì cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, Lời của
Thiên Chúa, đã đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga
10,10). Nhưng để người được mời hiểu được, cảm nhận được niềm vui đang
làm ngây ngất người mời, và mau mắn đáp lại lời mời gọi, đòi hỏi người mời phải
thực sự cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa qua cuộc gặp gỡ với Đức Kitô để rồi
tiến tới sự hiệp thông với Người. Chính trong sự hiệp thông này đã thắp lên
trong chúng ta ngọn lửa yêu mến thúc bách chúng ta (x. 2 Cr 5,14) nói
về Chúa Giêsu với sự xác tín rằng: không nhận biết Tin Mừng là một thiếu sót
không có chi bù đắp được, vì chỉ có Tin Mừng mới mang lại sự sống đích thật.
Nói về Chúa Giêsu không là kể về một nhân vật, một câu chuyện, nhưng là trình
bày một khuôn mặt sống động nơi mỗi người kitô hữu, một Đức Kitô luôn quan tâm
đến nỗi bất hạnh của người khác về thể xác cũng như tinh thần, một Đức Kitô đầy
lòng trắc ẩn, không bao giờ bỏ qua lời van xin chữa lành, một Đức Kitô ngập
tràn tình yêu và lòng khoan dung để thứ tha, để bênh đỡ chở che cho những người
cô thân cố thế, một Đức Kitô không mệt mỏi trên đường tìm kiếm những con chiên
lạc đường chính lộ… Nhờ việc trình bày như thế chúng ta thực sự đang truyền bá
đức tin của mình, một đức tin sống động diễn tả một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức
Giêsu Kitô, qua đó chúng ta tiếp tục “tạo ra ở mọi nơi và mọi thời những điều
kiện để có thể có cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô”[18] đối với hết mọi người. Vâng, chúng ta
thông truyền đức tin không phải nói về một Đức Giêsu được tường thuật, nhưng về
một con người mà chúng ta đã cảm nghiệm qua sự gặp gỡ với Người, như người phụ
nữ
Kết
Đọc lại những trang sử trong thời bình
minh của Giáo Hội Việt Nam, chúng ta dám tự hào vì cha ông của chúng ta
đưa nhiều người ngoại trở về với đức tin Công Giáo không theo một khoa sư phạm
truyền giáo nào ngoài việc hăng say phục vụ người khác theo tinh thần Tin Mừng.
Thống kê sau đây là một thí dụ: tại Cochinchina (Đàng Trong) năm 1631 có 5.727
tân tòng, đến năm 1641 con số tân tòng lên tới 108.000[19]; tại
Tongking (Đàng Ngoài) năm 1630 có 7.942 tân tòng, đến năm 1646 con số tân
tòng lên đến khoảng 200.000[20]. Một
điều chắc chắn sự phát triển nầy là nhờ công lao của các nhà Thừa sai, nhưng
lịch sử cũng không thể phủ nhận công lao to lớn của người giáo dân cộng tác
với các cha Thừa sai trong việc loan báo Tin Mừng. “Khi nghiên cứu về lịch sử
Giáo Hội Việt Nam, câu hỏi được đặt ra là với số ít ỏi nhà Thừa sai,
làm sao mà con số trở lại đạo công giáo càng ngày càng đông. Câu trả lời thật
rõ ràng: chính nhờ việc cảm nhận được sự cao quí hồng ân đức tin đã lãnh nhận,
và lòng ước muốn thông truyền đức tin thúc bách người giáo dân mạnh dạn nói cho
dân ngoại về sự sống mà đức tin mang lại”[21]. Nhà Thừa Sai Cardim cũng công nhận:
người giáo dân Việt Nam hăng say trong việc giúp đỡ người nghèo và bệnh
hoạn. Họ muốn sống theo lời Chúa dạy. Họ sẵn sàng bỏ tiền ra để xây cất
những bệnh xá. Đứng trước tấm lòng bác ái của họ nhiều người ngoại giáo đã
xin gia nhập đạo công giáo[22]. Quả thật,
“yêu mến Thiên Chúa dẫn đến sự dự phần trong công lý và trong sự quảng đại của
Thiên Chúa đối với tha nhân. Yêu mến Thiên Chúa đòi hỏi một tự do nội tại vượt
lên trên tất cả những của cải và mọi thứ vật chất: tình yêu Thiên Chúa được bày
tỏ nơi trách nhiệm của ta đối với tha nhân[23]. Truyền giáo là thế đó, là thông truyền
cho người khác cảm nghiệm về niềm vui mình đang có nhờ cuộc gặp gỡ với Đức
Kitô. Việc thực thi đức ái bắt nguồn từ niềm vui gặp gỡ này.
Từ cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, đức
tin dẫn đưa chúng ta tiến tới sự hiệp thông thâm sâu với Người, và qua đó,
chúng ta được dẫn vào lối sống của Người là “sống cho mọi người”. Sự hiệp thông
với Đức Kitô luôn thúc đẩy chúng ta sống cho tha nhân[24], hay nói cách khác, đức tin tự bản chất
luôn là động lực thúc đẩy chúng ta truyền giáo bao gồm “việc làm chứng và dấn
thân công khai. Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là một điều riêng
tư. Đức tin là quyết định đứng về phía Chúa để sống với Ngài… Chính vì đức tin
là một hành vi tự do, nên cũng đòi hỏi một trách nhiệm xã hội về những gì ta
tin. Giáo Hội, trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, đã chứng tỏ rõ ràng
chiều kích công khai ấy của việc tin tưởng và loan báo không chút sợ hãi về
niềm tin của mình cho mỗi người. Đó là một hồng ân của Chúa Thánh Linh làm cho
ta có khả năng thi hành sứ mạng và củng cố việc làm chứng tá của chúng ta, biến
chứng tá ấy thành điều thẳng thắn và can đảm”[25].
Vì vậy, việc thi hành sứ vụ loan báo Tin
Mừng không phải là ngồi chờ đợi những chỉ dẫn của Ủy Ban Truyền giáo, hay là
phó mặc cho hàng giáo sĩ, hoặc cho các cán bộ truyền giáo, nhưng phải là công
việc của từng Kitô hữu, và phải được thực thi từng giây phút trong đời sống với
khát vọng giới thiệu Tin Mừng đến với mọi người, để họ gặp được Chúa Giêsu, gặp
được ơn cứu độ. Vì thế “các gia đình cần phải trở thành những dấu chỉ
đích thực của tình yêu và sự chia sẻ, với khả năng hi vọng vì sự cởi mở của họ
đối với cuộc đời”[26]. Người kitô hữu chúng ta cần có trái tim
nhạy cảm để phục vụ cho những mảnh đời bất hạnh theo tinh thần của Tin Mừng,
đưa ra các sáng kiến cho công bằng xã hội và tình liên đới. Một yếu tố không
thể thiếu của việc truyền bá đức tin là “lòng dũng cảm để lên tiếng chống những
bất trung và gương xấu nảy sinh trong các cộng đoàn Kitô hữu” và “can đảm nhìn
nhận lỗi lầm”[27] .
Lm Antôn Hà văn Minh – Mùa Giáng Sinh
2011
[1] Đức PHAOLÔ VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 08.12.1975, s. 18.
[2]GM. PHAOLÔ NGUYỄN THÁI HỢP OP, Chung quanh vấn đề tân phúc âm hóa, Lễ bế mạc Năm thánh 2010
tại Thánh địa La Vang.
Nguồn:http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/PhucAmHoa/03VanDePhucAmHoa.htm
[3]Bản Lineamenta của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường niên lần thứ
XIII, s. 5.
[4]Nt.
[5]Đức BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Deus caritas est, 25.12.2005, s. 1.
[6]J. RATZINGER, Einfuehrung in das Christentum (Đức tin Kitô giáo –
Hôm qua và Hôm nay), chuyển Việt ngữ: Lm Athanasio
Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam, Tôn Giáo 2009, 79.
[7]X. Đức BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông Huấn Verbum Domini, 30.09.2010, s. 7.
[8] Đức BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Deus caritas est, 25.12.2005, s.17.
[9] ỦY BAN GIÁO HOÀNG VỀ ĐẠI HÔI THÁNH THỂ THẾ GIỚI, “Thánh Thể: Hiệp
thông với Đức Kitô và với nhau”, tài liệu suy tư thần học và mục vụ hướng tới
Đại hôi Thánh Thể Quốc tế lần thứ 50 tại Dublin, Ireland (10-17.6.2012), s.
122.
[10]ỦY BAN GIAO HOANG VỀ ĐẠI HÔI THÁNH THỂ THẾ GIỚI, “Thánh Thể: Hiệp
thông với Đức Kitô và với nhau”, tài liệu suy tư thần học và mục vụ hướng tới
Đại hôi Thánh Thể Quốc tế lần thứ 50 tại Dublin, Ireland (10-17.6.2012), s.
122.
[11] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT
[12] Nguồn: http://vi.wikipedia.org
[13]Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc, «Con
số tín hữu không làm nên Giáo Hội», s. 1837 – 1838 từ 16.12 – 22.12.2011, 50.
[14]Đức PHAOLÔ VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, 08.12.1975, s. 5.
[15]Nt, s. 15.
[16]Đức BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông sắc Porta Fidei về việc khai mở năm Đức
tin, 17.10.2011, s. 7.
[17]Đức BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Deus caritas est, 25.12.2005, s. 12.
[18]Văn phòng Tổng thư ký THĐGM XIII, bảnLineamenta: Tân Phúc Âm
Hóa Để Truyền Bá Đức Tin Kitô Giáo, 02.02.2011, s. 11.
[19]F. CARDIM, Relation de la province du Japon, Tournai 1645, 20.
[20]A. BONIFACY, Les débuts du christianisme en Anam, des origines au XVIII Siècle,
[21]Lm ANTÔN HÀ VĂN MINH, Lòng Đạo Đức Bình Dân Trong Đời Sống Người Giáo Dân
Việt Nam – Nhìn vào Lịch sử để định hướng cho thời đại hôm nay, trong: Sống đạo
theo cung cách Việt Nam, do Ủy Ban Giáo Dân trực thuộc Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam phát hành, Tôn Giáo 2004, 81-82.
[22] X. F. CARDIM, Relation de ce qui s’est passé depuis quelques
année à l’an 1644 au Japon, à la Cochinchine, au Malabar … Paris
1645.
[23]Maxime le Confesseur (+ 662), Chapters on charity, Centuria 1, ch. 1:
PG 90,
962-966.
[24]X. Đức BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, 30.11.2007, s. 28.
[25] Đức BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông sắc Porta Fidei về việc khai mở năm Đức
tin, 17.10.2011, s. 10.
[26] Văn phòng Tổng thư ký THĐGM XIII, bảnLineamenta: Tân Phúc Âm
Hóa Để Truyền Bá Đức Tin Kitô Giáo, 02.02.2011, s. 17.
[27]Nt.