Đức
tin là gì?
(EMTY) - Mỗi một ngày, chúng ta
luôn cần đến đức tin. Đức tin để tin tưởng và đón nhận Lời được viết; để nghe
những Lời từ Thiên Chúa một cách riêng tư; để vâng phục và thi hành Lời Chúa;
để tin rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta những thứ chúng ta cần; để sử dụng
những vũ khí thần linh; để tin tưởng Thiên Chúa trong những lúc khó khăn; để
phó dâng cuộc sống, kế hoạch của chúng ta và những người chúng ta yêu thương
vào trong tay Chúa; để tin rằng những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được đáp
trả; để tin có những phép lạ chữa lành; để đối mặt với đủ mọi loại thử thách và
ngay cả những hoàn cảnh không thể. Đức tin cho ta rất nhiều thứ!
Nếu chúng ta muốn hoàn thành
những kế hoạch mà Thiên Chúa dành cho cuộc đời chúng ta, chắc chắn chúng ta
phải cần đến đức tin! Đức tin của chúng ta phải mạnh mẽ - và chúng ta không thể
đợi đến lúc khẩn thiết mới xây dựng và gia tăng đức tin. Chúng ta phải làm việc
ấy ngay hôm nay! Chúng ta sẽ không có được đức tin để chuẩn bị cho tương lai
nếu chúng ta không bắt đầu luyện tập và củng cố thêm đức tin của chúng ta ngay
từ bây giờ.
Rất nhiều người trong số các bạn
có lẽ không cảm thấy mình có được mức độ đức tin mà mình cần, và rất ít người
trong chúng ta cảm thấy sẵn sàng “cầu xin lửa từ Trời” trong ngày hôm nay!
Đức tin là gì? Làm thế nào bạn
biết được mình có đức tin hay có đủ đức tin? Điều gì gây cản trở đức tin? Làm
thế nào bạn tăng cường đức tin của mình? Làm thế nào bạn chắc rằng bạn có được
đức tin cho một việc cụ thể nào đó? Làm thế nào bạn củng cố đức tin của mình?
Làm thế nào bạn rèn luyện đức tin?
Loạt bài về “Đức Tin” sẽ đưa ra
câu trả lời.
Đức tin là gì?
Đức tin không phải là một vấn đề
phức tạp. Những hoàn cảnh vốn phức tạp, nhưng bản thân đức tin lại rất đơn
giản. Tin chính là biết - biết rằng Thiên Chúa là ai, biết rằng Ngài yêu thương
chúng ta và muốn giúp đỡ chúng ta, biết rằng những lời hứa của Ngài là dành cho
chính mỗi người chúng ta, biết rằng Ngài đáp trả lời cầu nguyện, biết rằng Ngài
sẽ thực hiện cho dù sự hiểu biết ấy trái ngược với những hiểu biết thông thường
của chúng ta. Đức tin chính là biết cho dù chúng ta có nhìn thấy gì hoặc nghĩ
gì.
Những đứa trẻ có đức tin và
chúng chính là mẫu gương tốt về lòng tin. Chúng có lòng tin vào bố mẹ của
chúng. Chúng biết nếu chúng khóc, sẽ có ai đó đến; nếu chúng đói, chúng sẽ được
cho ăn; nếu chúng cần giúp đỡ, chúng sẽ nhận được sự giúp đỡ. Vì thế, chúng ta
nên giống như trẻ thơ, và lòng tin của chúng ta cũng nên giống như lòng tin của
trẻ thơ. Chúa Giêsu thường lấy những đứa trẻ làm ví dụ khi giảng dạy, Ngài đã
gọi những đứa trẻ đến bên Ngài và bảo những môn đệ của Ngài phải nên giống như
chúng, rằng họ nên khiêm tốn và đón nhận tất cả giống như trẻ thơ - tin tưởng,
biết chắc và có lòng tin (x. Lc 18,15-17; Mt 18,2-4).
Đức tin thì không giao động hoặc
hoài nghi. Nó có thể bị cám dỗ làm như thế, và có thể nó có ý nghĩ làm như thế.
Thiên Chúa biết chúng ta không hoàn hảo. Nhưng cuối cùng, đức tin sẽ đứng vững,
vì nó tin tưởng vào Chúa, và nó tin chắc rằng Ngài có thể thực hiện những gì
Ngài đã hứa (x. Rm 4,21). Đức tin giúp chúng ta tin rằng Thiên Chúa có thể làm
những điều vượt hơn tất cả những gì chúng ta cầu xin hay nghĩ tới (x. Ep 3,20).
Đức tin biết rằng không có gì là quá khó khăn đối với Chúa, và với Ngài, mọi sự
đều có thể (x. Mc 10,27; Lc 1,37). Đức tin biết rằng Thiên Chúa trung tín trong
Lời Ngài. Đức tin bảo đảm chắc chắc rằng Ngài sẽ thực hiện, bởi vì đức tin ấy
biết rõ Ngài và ý định của Ngài.
Khi chúng ta có lòng tin, lòng
chúng ta sẽ vững vàng, tin tưởng vào Ngài, và sẽ không bị lay động bởi những
tin tức xấu hoặc những xu hướng xấu (x. Tv 112,7). Chúng ta sẽ không có một tâm
trí nghi ngờ, nhưng luôn vững tin vào Chúa. Chúng ta không bao giờ mất đi sự
tin tưởng và lòng tin của mình, cũng như không hề giao động như sóng biển bị
gió đẩy lên giật xuống (x. Dt 10,35; Gc 1,6). Chúng ta biết Thiên Chúa có thể
thực hiện, Ngài muốn thực hiện và Ngài sẽ thực hiện. Đó chính là lòng tin, và
điều đó làm đẹp lòng Chúa, vì giờ đây chính là kỷ nguyên của lòng tin, của sự
tin tưởng và biết rõ, ngay cả khi chúng ta không thể nhìn thấy Thiên Chúa và
không còn gì để cậy dựa vào ngoài Lời của Ngài.
Mỗi người tuỳ theo lượng đức tin
Thiên Chúa đã phân phát cho (Rm 12,3), vì thế, chúng ta phải xây dựng đức tin
và gia tăng đức tin. Có rất nhiều cách để làm việc đó. Chúng ta có thể cầu xin
Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin, một trong những món quà của Thần Khí,
và Ngài sẽ ban cho (x. 1 Cr 12,9). Chúng ta có thể cầu xin Thiên Chúa gia tăng
lòng tin của chúng ta (x. Lc 17,5). Ngài chính là Đấng khai mở và kiện toàn
lòng tin của chúng ta (x. Dt 12,2).
Chúng ta cũng có thể gia tăng
lòng tin của mình thông qua Lời của Chúa. Đức tin có được là nhờ nghe giảng, mà
nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô (x. Rm 10,17). Chúng ta càng đọc nhiều
Lời Ngài trong Kinh Thánh, thì Lời Ngài sẽ càng linh hứng và nuôi dưỡng lòng
tin của chúng ta. Lời của Ngài xây dựng lòng tin của chúng ta. Khi chúng ta
nghe hoặc đọc những lời đáp trả việc cầu xin, những phép lạ chữa lành, ban ơn
hoặc giải thoát hoặc nhiều điều khác nữa, đức tin của chúng ta sẽ được gia
tăng. Thậm chí chúng ta sẽ càng tin chắc rằng những gì Thiên Chúa đã làm trong
quá khứ, Ngài có thể làm lại và sẽ làm lại, bởi vì Ngài vẫn là một, hôm qua
cũng như hôm nay và mãi đến muôn đời (Dt 13,8).
Những điều gì gây
cản trở cho lòng tin?
Tâm trí của chúng ta chính là
một trong những rào cản chính đối với lòng tin. Việc này không có nghĩa là
Thiên Chúa muốn chúng ta không nên sử dụng tâm trí của mình, nhưng Ngài muốn
chúng ta không nên để tâm trí và lý lẽ tự nhiên của chúng ta lừa gạt và gây trở
ngại cho lòng tin của chúng ta.
Chúng ta bước đi bằng lòng tin,
chứ không phải bởi được nhìn thấy, bởi những lập luận, bởi những phân tích,
hoặc bởi những gì hiện diện rõ ràng. Đức tin chính là tin tưởng vào Thiên Chúa
và không dựa vào những hiểu biết riêng. Đức tin biết rằng đường lối của chúng
ta không phải là đường lối của Thiên Chúa, và tư tưởng của Thiên Chúa không
phải là tư tưởng của chúng ta (x. Is 55,8-9). Đức tin tin tưởng vào quyền năng
của Đức Chúa hơn là sự khôn ngoan của nhân loại. Đức tin thì đui mù trước những
hoài nghi, những ngờ vực và những ý nghĩ rằng có thể Thiên Chúa không làm được
việc ấy. Đức tin biết, và nếu bị cám dỗ bởi sự hoài nghi hay ngờ vực hay lập
luận tự nhiên, nó sẽ gạt tất cả sang một bên và vẫn sẽ tin tưởng. Đức tin luôn
tiếp tục tiến lên phía trước mặc cho bất cứ điều gì.
Chúng ta cũng có thể gây cản trở
lòng tin nếu chúng ta sử dụng thuật ngữ lòng tin một cách hời hợt, không suy
nghĩ hoặc không biết rằng Ngài sẽ thực hiện. Hãy nhớ rằng, đức tin không phải
hy vọng, hoặc ao ước, hoặc khao khát. Đức tin là biết một cách chắc chắn và tin
tưởng rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa. Vì thế, nếu trong hoàn
cảnh nào đó, chúng ta chỉ hơi tin tưởng, hoặc bị dẫn dắt nhiều bởi những khao
khát của bản thân hơn là bởi ý định của Chúa, và tự nhủ rằng chúng ta có lòng
tin cho điều gì đó hoặc tin rằng Ngài sẽ thực hiện, nhưng lại không có sự tin
chắc chắn, như thế chúng ta sẽ có thể sắp té ngã.
Nếu chúng ta không biết điều gì
đó xảy ra là ý định của Thiên Chúa, nếu chúng ta không biết liệu chúng ta có
đang vâng lời hay không, nếu chúng ta không biết mình có đang dựa vào Lời Ngài
và những lời hứa của Ngài hay không, thì chúng ta không nên nói rằng mình có
lòng tin cho việc gì đó hoặc rằng chúng ta có lòng tin rằng Ngài sẽ thực hiện.
Có lẽ chúng ta hy vọng Thiên Chúa sẽ thực hiện, hoặc nghĩ rằng Ngài sẽ thực
hiện, và những gì xảy ra trong quá khứ cho chúng ta thấy rằng Chúa sẽ thực
hiện, nhưng điều đó không giống với việc chúng ta tuyên xưng rằng chúng ta tin
Ngài sẽ thực hiện. Đức tin không phải là khao khát hay mong muốn hay hy vọng;
đức tin chính là biết chắc.
Nếu chúng ta dùng cụm từ “tôi có
lòng tin” một cách hời hợt, không chắc chắn, và khi niềm hy vọng hoặc điều ao
ước hoặc khao khát của chúng ta không thành hiện thực, chúng ta sẽ dễ dàng hoài
nghi và ngờ vực. Chúng ta có thể nghi ngờ liệu Thiên Chúa có thể thực hiện hay
không, liệu Ngài có thể hoàn thành những lời hứa hay không. Đừng nao núng, hãy
kiên tâm bền chí cho đến cùng dẫu có thế nào. Hoặc chúng ta nên kiểm tra
lại với Chúa xem liệu việc đáp ứng yêu cầu của chúng ta có phải là ý của Ngài
không.
Nếu lòng khao khát của chúng ta
không được đáp ứng, thì chúng ta không nên trách móc bản thân vì đã không có
lòng tin cho việc ấy. Hành động ấy có thể làm sứt mẻ lòng tin của chúng ta. Có
thể chúng ta không biết rằng sự việc nào đó không xảy ra chính là ý định của
Thiên Chúa. Có lẽ chúng ta đã luyện tập sự khao khát và ước muốn của bản thân
nhiều hơn lòng tin của chúng ta. Vì thế, đừng để lòng tin của chúng ta phải
nhận sự khiển trách khi ước muốn của chúng ta không thành hiện thực.
Vâng phục cũng là một thành phần
quan trọng trong việc rèn luyện lòng tin, vì thế nếu chúng ta không vâng phục
Thiên Chúa và Lời của Ngài, thì chúng ta không thể có được lòng tin mạnh mẽ.
Hãy nhớ, đức tin và đức vâng phục phải có trước tiên, và rồi Thiên Chúa sẽ đáp
trả lời cầu nguyện. Ví dụ, nếu chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta
điều gì đó nhưng lại không làm tất cả những gì Ngài bảo chúng ta làm, hoặc thậm
chí làm những điều Ngài bảo chúng ta đừng làm, như thế, chúng ta không thể cầu
xin với một lòng tin mạnh mẽ hoặc không thể được bảo đảm sẽ có được câu trả lời
từ Chúa. Thiên Chúa có lòng thương xót, và có quyền năng ban mọi ơn lành, nhưng
Ngài sẽ không làm nếu chúng ta không vâng phục.
Đôi khi việc thiếu đức vâng lời
sẽ dẫn đến kết quả là thiếu sự hoà hợp. Ví dụ, có thể Thiên Chúa hành động đàng
sau hậu trường để thực hiện thông qua một người nào đó, hoặc theo một cách thức
mới, và mở ra một cánh cửa để ban chúng ta điều gì đó chúng ta cần - nhưng
chúng ta lại không bước vào. Có thể chúng ta đã bỏ qua việc kiểm tra với Ngài
để nói chuyện với ai đó, hỏi ai đó và nhờ họ giúp đỡ…
Ngay cả khi ý định của Thiên
Chúa muốn ban điều gì đó cho chúng ta, Ngài vẫn không thể làm được nếu chúng ta
không chú ý đến tiếng nói của Ngài và không nhạy cảm với nó; hoặc chúng ta
quyết định không thích cánh cửa được mở ra cho chúng ta; hoặc chúng ta cho rằng
mình đã thử cách ấy trong quá khứ, và vì nó đã không có tác dụng, nên lần này
nó cũng sẽ như thế. Điều này chính là mất đi sự hoà hợp chứ không hẳn là mất đi
lòng tin, nhưng kết quả thì như nhau.
Sự kiêu ngạo của chúng ta sẽ ăn
mòn dần lòng tin và làm chậm đi quá trình gia tăng của lòng tin, bởi vì chúng
ta dựa vào sự tự tin của bản thân hơn là dựa vào Thiên Chúa và sức mạnh của
Ngài. Vì thế, chúng ta kết luận rằng những kết quả cuối cùng của nỗ lực giải
quyết vấn đề chẳng liên quan gì nhiều đến lòng tin vào Thiên Chúa, nhưng là do
khả năng và sự khéo léo của bản thân. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy
của đức tin trong huyết mạch của chúng ta, bởi vì huyết mạch tinh thần của
chúng ta bị tắc nghẽn bởi những việc làm của bản thân thay vì là được lưu thông
bởi dòng chảy của Thần Khí bên trong chúng ta.
Việc thiếu đi sự quyết tâm đối
với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện cũng cản trở việc phát triển lòng tin của
chúng ta. Nếu chúng ta không cầu nguyện, Thiên Chúa bị giới hạn trong thế giới
tâm linh, điều đó thường có nghĩa là những vấn đề mà chúng ta đang đối mặt có
thể kéo dài không biết đến bao giờ. Khi điều ấy xảy ra, với tâm trí trần tục,
chúng ta kết luận rằng những lời hứa Thiên Chúa dành cho chúng ta thật sự không
có tác dụng gì cả. Nhưng nếu chúng ta không cầu nguyện với lòng nhiệt thành và
bằng lòng tin và sự tha thiết - những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lời cầu
nguyện - thì làm sao chúng ta có thể trông đợi được nhìn thấy những kết quả có
tác động mạnh mẽ.
Lời cầu nguyện đòi hỏi phải có
lòng tin. Chúng ta phải tin tưởng rằng lời cầu nguyện thật sự có tác dụng, và
đó không phải chỉ là một nghi thức trần tục để thể hiện việc sùng đạo. Chúng ta
phải tin tưởng hết lòng rằng khi cầu nguyện, Thiên Chúa sẽ thay mình hành động,
cho dù là cần mất thời gian trước khi chúng ta nhìn thấy hết những kết quả.
Lòng tin của chúng ta không được giao động chỉ bởi vì câu trả lời lâu đến. Và
bởi vì lòng tin của chúng ta không hoài nghi, vẫn tin tưởng, nên khi Thiên Chúa
ban câu trả lời, lòng tin của chúng ta sẽ được gia tăng và được củng cố. Nhưng
nếu không có một mục đích mạnh mẽ và lòng tin trong lời cầu nguyện, đức tin của
chúng ta sẽ bỏ qua một cơ hội được phát triển thông qua việc phó thác để Thiên
Chúa thực hiện, và hoàn toàn tin tưởng và trông đợi rằng Ngài sẽ làm phép lạ
theo cách mà Ngài biết là tốt nhất.
Việc thiếu lòng tin tạo ra mảnh
đất màu mỡ để những hạt hoài nghi nảy mầm, việc thiếu lòng tin đối với những
lời hứa của Thiên Chúa nếu không được chế ngự và nếu để cho việc này kéo dài,
cuối cùng nó có thể dẫn đến việc không tin tưởng vào Ngài.
Phạm tội mà không xưng thú, hoặc
phạm tội do không biết chế ngự, cũng có thể cản trở lòng tin của chúng ta.
Trong những trường hợp như thế, rất khó để chúng ta có lòng tin vào Thiên Chúa
và Lời của Ngài nếu chúng ta không biết mình đang sai và không hoàn toàn vâng
lời Ngài. Việc ấy có thể sẽ ăn mòn lòng tin của chúng ta, bởi vì chúng ta không
thể tự tin đến trước ngai Thiên Chúa để trông chờ câu trả lời (x. Dt 4,16).
Thay vào đó, chúng ta lại vừa rón rén đến trước Ngài, hy vọng Ngài sẽ trả lời,
nhưng lại vừa mang một cảm giác tội lỗi về lời cầu xin của mình khi chúng ta
nhận ra rằng mình đã không tuân theo những yêu cầu đòi hỏi để có thể nhận được
những ân sủng của Ngài và hoa trái của sự vâng phục.
Việc thiếu đức tin có những
nguyên nhân khác nhau đối với từng cá nhân. Một số người do tất cả những nguyên
nhân nêu ra ở trên, số khác thì do những nguyên nhân riêng tư, có thể là do những gánh nặng trong quá khứ đè nặng trên họ.
Đó là lý do tại sao việc tìm kiếm Thiên Chúa thường xuyên để tìm ra nguyên nhân
hoặc trở ngại trong việc gia tăng lòng tin là một việc rất quan trọng. Câu trả
lời có thể không luôn luôn giống nhau - đó là lý do tại sao câu hỏi ấy là câu
hỏi mà chúng ta phải hỏi Thiên Chúa một cách thường xuyên.
Làm thế nào để củng
cố lòng tin của bản thân?
Thiên Ân dịch
(emty.org Cập nhật: 29/01/2012 -
22:00:14)