Đức tin là gì và phải sống đức tin
như thế nào?
Hỏi: Nhân Năm Đức Tin sắp mở ra trong Giáo Hội, xin cha giải thích
tầm quan trọng của đức tin trong đời sống Kitô giáo.
Trả lời:
Đức tin là 1 trong 3 nhân đức
đối thần hay thần học (Theological Virtue) nhờ đó chúng ta nhận biết và
tin có Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật trong đó có con
người, “được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,27).
Nhưng muốn có đức tin thì trước
hết phải có ơn Chúa ban cho như một quà tặng quý giá mà không ai có thể tự sắm
cho mình hay nhờ phương thế tự nhiên nào, hoặc học ở trường học nào trên thế
giới mà có được đức tin.
Nghĩa là tiên vàn phải là ơn
Chúa ban cho ai thì người đó được đức tin. Qua quà tăng này, Thiên Chúa
đã tự mặc khải mình để cho phép ta tin có Chúa, dù không hề trông thấy Người mà
vẫn vững chắc tin và sống theo Thánh ý của Người để được chúc phúc và cứu rỗi.
Nói khác đi, nếu Thiên Chúa không tự mặc khải Người cho chúng ta thì không bao
giờ chúng ta có thể biết Ngài là AI để tin và yêu mến, đúng như Chúa Giêsu đã
nói:
“Không ai đến với Thầy được,
nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65).
Có nghĩa là không ai có thể biết
Chúa Con, nếu Chúa Cha không ban ơn mở trí cho người ấy.
Nơi khác, Chúa Giêsu đã cảm tạ
Chúa Cha về ơn mặc khải dành cho những người bé mọn, tức những người thấp hèn
như chúng ta mà lại được hạnh phúc biết Chúa qua đức tin:
“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất,
con xin ngượi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha,
đó là điều đẹp ý Cha” (Mc 10,21).
Như thế, chính nhờ ơn mặc khải
đức tin mà chúng ta, những kẻ bé mọn đã nhận được, nên chúng ta mới biết và tin
có Thiên Chúa là Cha toàn năng, tin Chúa Ngôi Hai đã xuống trần gian làm Con
Người để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội, cũng như tin Chúa Thánh Thần
là Thần Chân Lý và là Đấng ban sự sống.
Đó là Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
(The Holy Trinity), tức Một Thiên Chúa với Ngôi vị riêng rẽ nhưng cùng một bản
thể (Consubstantial) và uy quyền như nhau. Mầu nhiệm này đòi hỏi phải có đức
tin thì mới chập nhận được, mặc dù không thể giải thích hợp lý theo luận lý
(logic) hay bất cứ khoa học nào của con người. Khoa học và thông thái của con
người chỉ giúp sáng tạo ra những tiện nghi cho cuộc sống vất chất cũng như chế
tạo ra những vũ khí cực mạnh để giết hại lẫn nhau chứ không thể giúp con người
nhận biết có Thiên Chúa là Chủ Tể của mọi loài, mọi vật hữu hình và vô hình.
Chỉ có đức tin mới giúp con người khám phá ra Thiên Chúa để tin yêu mến Ngài mà
thôi.
Thật vậy, khi Chúa Giêsu sinh
xuống trần gian làm Con Người, chính Chúa Cha đã mở trí cho những kẻ chăn
chiên và 3 đao sĩ phương Đông, nên họ đã mau mắn đi tìm để thờ lạy “một Hài
Nhi” nằm trong máng cỏ, vì họ tin đó “là Đấng Thiên Sai (Messiah) đã đến để
giải thoát cho con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và hy vọng được cứu rỗi, nhờ
tin vào Người và sống theo đường lối của Người là “Con Đường, là Sự Thật và
là Sự Sống” (Ga 14,6).
Ngược lại, đa số người Do Thái,
đặc biệt là các trưởng lão, đạo sĩ, và luật sĩ - đã không đến thờ lạy Chúa vì
họ không có đức tin để nhận biết Chúa Giêsu là chính Đấng Thiên Sai, Messiah,
mà các ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế họ đã thờ ơ, không đón
tiếp Người như Tin Mừng Thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Chẳng chịu đón nhận vì họ không
tin rằng Đấng Thiên Sai lại có thể giáng sinh trong cảnh khó hèn như vậy. Chính
sự cứng lòng tin này từ đầu của dân Do Thái mà cuối cùng đã đưa họ đến
đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá. “Một điều mà người Do Thái coi là ô nhục
không thể chấp nhận, dân ngoại cho là điên rồ, nhưng đối với những ai được
Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức
mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24).
Như thế, chỉ có đức tin mới cho
phép con người nhận ra trước hết: “Một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong
máng cỏ” (Lc 2,12) và sau này một “tử tội bị đóng đinh cách nhục nhã
trên thập giá” là Đức Kitô, Đấng Thiên Sai đã đến để “hiến mạng sống
mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20,28).
Qua những bằng chứng Kinh Thánh
trên đây, chúng ta thấy rõ đức tin là điều kiện căn bản tối cần cho phép con
người đến với Thiên Chúa là Đấng vô hình nhưng đã mặc khải Người cách hữu
hình nơi Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, để “ai thấy Thầy thì thấy Chúa
Cha” (Ga 14,9) như Chúa Giêsu đã trả lời cho môn đệ Philipphê. Nhưng, như
đã nói ở trên, đức tin phải là một ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa ban
cho con người, như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô khi môn đệ này tuyên xưng Chúa
là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Chúa nói: “Này anh Simon, con
ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh
điều đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên cao” (Mt 16,17).
Như vậy, chứng tỏ cho thấy đức
tin là một ơn mặc khải của Thiên Chúa ban cho con người để giúp con người tin
có Ngài là Đấng đã vì yêu thương mà tạo dựng con người, cũng như đã cứu
chuộc con người nhờ Chúa Kitô, Đấng đã “yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi”
(Gl 2,20).
Nhưng hạt giống đức tin mà chúng
ta nhận được qua phép Rửa không thể tự nó lớn lên và sinh hoa kết trái trong
tâm hồn ta được, nếu ta không cộng tác với ơn Chúa để nuôi dưỡng hạt giống đức
tin đó được lớn lên trong ta đến mức trưởng thành.
Thật vậy, đức tin đòi hỏi việc
lành, việc đạo đức để tăng trưởng như hạt giống cần được tưới nước để nẩy mầm,
sinh cây kết trái. Đó là lý do tại sao Thánh Tông Đồ Giacôbê đã nói:
“Thật thế, một thân xác không
có hơi thở là một xác chết. Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin
chết” (Gc 2,26).
Hành động mà Thánh Giacôbê nói
trên đây là những việc đạo đức mà ta cần làm để thể hiện đức tin như siêng năng
cầu nguyện để thắt chặt tình thân với Chúa. Sau đó, đọc, suy gẫm Lời Chúa, và
năng lãnh nhận các bí tích ban sự sống như Thánh Thể và Hoà Giải để đức tin
được lớn mạnh thêm trong ta. Nghĩa là ai không cầu nguyện, không tham dự Thánh
Lễ, không nghe Lời Chúa và nhất là không rước Mình và Máu Chúa Kitô, thì đức
tin của người ấy sẽ ví như cục than hồng bỏ ra ngoài lò sưởi và sẽ mau chóng tự
tàn lụi thành tro mà thôi.
Đó là tất cả ý nghĩa của lời
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa:
“... phàm ai đã có thì được
cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy
đi” (Mt 25,29).
Đã có đức tin thì sẽ được cho
thêm nếu biết vun sới đức tin đó bằng những việc đạo đức. Ngược lại, thờ ơ hay
dửng dưng mọi việc đạo đức thì đức tin sẽ chết dần mòn trong tâm hồn đến mức
không còn tin tưởng gì nữa. Thực tế đã chứng minh điều này: Trong số những kẻ
đang phạm tội ác, đang giết người, trộm cắp và hiếp dâm... cũng có người trước
đây đã được rửa tội, đã mang danh Kitô hữu, nhưng nay đã dấn thân vào con đường
tội lỗi chỉ vì không lo nuôi dưỡng đức tin bằng việc lành, đạo đức nên đức tin
đã như cây cỏ chết khô vì không được tưới nước đầy đủ.
Khi đã không còn đức tin nữa,
thì người ta dễ buông thả chiều theo những đòi hỏi bất chính và dễ dàng đi vào
con đường tội lỗi để làm những sự dữ, ví như chiếc xe lao xuống dốc, xuống vực
thẳm vì không có thắng ngăn chặn.
Đây là kinh nghiệm thiêng liêng
của mỗi người tín hữu chúng ta sống giữa trần gian với bao quyến rũ và dịp tội
thách đó đức tin của chúng ta. Chỉ cần nhìn qua cách sống của những người quanh
ta cũng đủ cho ta thấy rõ lằn ranh giữa những người tin và không tin có Chúa hiện
nay ở khắp nơi trên thế giới.
Trước hết là những kẻ sống theo
“văn hoá của sự chết” đang mải mê tìm tiền của và mọi thú vui vô luân vô
đạo, hoặc đang cai trị với bạo lực để vơ vết của cải và bóc lột người dân cách
vô nhân đạo. Đây chính là những kẻ không có niềm tin vào một Thiên Chúa cực tốt
cực lành. Ngược lại, có những người đang xả thân phục vụ cho người nghèo khó,
bệnh tật, đói khát theo gương Mẹ Têrêxa, nay là Chân phước (Blessed), hoặc đang
dấn thân, hy sinh đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ ở những nơi xa xôi nghèo
đói bên Phi châu và Ấn Độ. Họ là ai? Phải chăng đó chính là những người có niềm
tin vững chắc vào Thiên Chúa nên đã hăng say thể hiện niềm tin của mình bằng
việc tông đồ, truyền giáo rất đáng ca ngợi?
Tóm lại, nếu ta thực tâm tin có
Chúa, tin có sự sống mai sau trên Nước Trời, thì ta phải tỏ thiện chí quyết tâm
sống theo đường lối của Chúa ngay từ bây giờ, có như thế đức tin của chúng ta
mới có giá trị cứu rỗi. Ngược lại, nếu chỉ tuyên xưng ngoài môi miệng là có
Thiên Chúa, nhưng lòng trí lại hướng chiều theo những lôi cuốn của các khuynh
hướng xấu trong bản năng, chạy theo những quyến rũ của thế gian, nhất là những
cám dỗ rất tinh vi, xảo quyệt của ma quỷ, địch thù của chúng ta, ví như “sư
tử gầm thét rao quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8), thì chắc chắn đức tin sẽ
không giúp ích gì cho ta được sống đẹp lòng Chúa, như Chúa Giêsu đã nói rõ với
các môn đệ xưa:
“Không phải bất cứ ai thưa
với Thầy, Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ
những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời mới được vào mà
thôi” (Mt 7,21).
Nói khác đi, không phải cứ nhận
mình là người Công giáo, cứ nói tôi tin có Chúa, nhưng đời sống của tôi lại
hoàn toàn mâu thuẫn với niềm tin đó, vì vẫn ăn gian nói dối, ngoại tình,
gian tham, tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất, oán thù, nghen ghét, cờ bạc,
mãi dâm, nhảy nhót, ca hát vui chơi sa đoạ… thì có nói cả ngàn lần “Lạy
Chúa, Lạy Chúa” cũng vô ích mà thôi! Chắc chắn như vậy.
Do đó, muốn đứng vững trong đức
tin, trong ơn nghĩa Chúa để bảo đảm ơn cứu độ, chúng ta phải luôn tỉnh thức và
cầu nguyện để “khỏi lâm vào cơn cám dỗ, vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể
xác lại yếu đuối” (Mt 26,41) như Chúa Giêsu đã nói với mấy môn đệ đi theo
Người vào vườn Giệtsêmani trong đêm Người bị nộp vì Giuđa phản bội.
Phản bội vì mê tiền của hơn yêu
mến Thầy, vì yêu mến tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất hơn tôn thờ một Thiên
Chúa duy nhất là cội nguồn mọi giàu sang phú quý và hạnh phúc bất diệt.
Nói rõ hơn, người tín hữu Chúa
Kitô ngày nay bán Chúa hay phản bội Chúa chỉ vì không sống đức tin thực sự, đòi
hỏi phải cương quyết xa tránh mọi tội lỗi do ma quỷ xúi giục với sự tiếp tay
của thế gian và chiều theo những khuynh hướng xấu còn tồn tại trong mỗi người
chúng ta. Không nỗ lực chiến đấu chống lại những nguy cơ này thì không thể tự
nhận mình là người có đức tin được.
Cho nên, phải tuyên xưng đức tin
bằng chính đời sống của mình, từ bên trong tâm hồn sâu thẳm cho đến lời nói và
hành đông bên ngoài trước mặt người đời và trong mọi hoàn cảnh sống để có thể
nói được như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức
Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm là sống trong niềm tin
vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).
Ước mong mọi người tín hữu chúng
ta ý thức đúng mức sự cần thiết phải sống đức tin cách cụ thể như các Thánh
Tông đồ Giacôbê và Phaolô dạy trên đây trong Năm Đức Tin (The Year of Faith) sẽ
được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chính thức khai mạc tại Toà Thánh La Mã ngày
11-10 năm nay và sẽ bế mạc vào ngày 24-11-2013.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho sự
thành công tốt đẹp của Năm Đức Tin nhằm quảng bá sâu rộng thêm Tin Mừng Cứu Độ
và củng cố đức tin Kitô giáo sao cho thích ứng với hoàn cảnh thế giới ngày nay.
(emty.org Cập nhật: 11/09/2012 -
00:36:28)