Năm Đức Tin: Trách nhiệm ngôn sứ của
người tông đồ và của tín hữu giáo dân
Thánh Lễ khai mạc Năm Đức Tin
sẽ được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI long trọng cử hành tại
Rôma ngày 11-10 tới đây. Năm Đức Tin được mở ra nhân kỷ niêm 50 năm sau
Công đồng Vatican II kết thúc, và cũng kỷ niệm 20 năm ngày công bố Sách Giáo lý
mới của Giáo hội Công giáo, đồng thời cũng là dịp Thượng Hội đồng Giám mục Thế
giới (Synod of Bishops) họp phiên kháng đại lần thứ 13.
Đây là thời điểm thích hợp để
toàn thể Giáo Hội nhìn lại đời sống đức tin của mình dựa trên nền tảng Tin Mừng
Cứu Độ của Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người để rao giảng Tin
Mừng, và hy sinh “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người”
(Mt 20,28).
Nghĩa là mọi người trong Giáo
Hội - Hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân - đều được mời gọi để canh
tân, củng cố và sống niềm tin của mình vào Chúa Kitô cách hữu hiệu hơn nữa để
ứng phó với những thách đố của thời đại tục hoá (vulgarism) tôn thờ khoái lạc
(hedonism) vô thần (atheism) và phi luân (amoralism), là những đặc trưng của
“văn hoá sự chết” đang lan tràn ở khắp nơi trên thế giới ngày nay để lôi cuốn
biết bao người vào hố diệt vong. Diệt vong vì không có niêm tin vào một
Quyên Lực, hay một Đấng Tối Cao mà người tín hữu chúng ta tôn thờ là Thiên
Chúa, Đấng dựng nên và thưởng phạt con người về những việc mình làm trong
cuộc sống trên đời này. Vì không có niềm tin này, nên người ta tự do sống thác
loan, làm những sự dữ và tội ác không sao tả cho xiết được… Thực trạng này phải
là mới ưu tư hàng đầu của những ai muốn sống niềm tin có Thiên Chúa cực tốt cực
lành, đã sai Con Một là Chúa Kitô đến trần gian vì “muốn cho mọi người được cứu
độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).
Nhưng muốn được cứu độ và nhận
biết chân lý thì phải thực sự và thực tâm tin Chúa Kitô và thể hiện niềm tin ấy
cách cụ thể bằng thực hành hay sống theo Tin Mừng Cứu Độ của Ngài.
Thật vậy, Phức Âm Sự Sống hay
Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Kitô đã rao giảng và trả giá bằng chính mạng sống của
Ngài trên thập giá cách nay trên 2.000 năm, cho đến nay vẫn còn xa lạ đối
với đa số người trên trái đất này, vì hiện còn trên 5 tỷ
người chưa biết Chúa Kitô và đang còn ở ngoài Giáo hội Công giáo là phương tiện
hữu hiệu nhất để chuyên chở ơn cứu độ của Chúa Kitô đến cho mọi dân mọi nước
trên khắp địa cầu cho đến ngày mãn thời gian.
Vì thế, sứ mang Phúc Âm hoá thế
giới vẫn là trọng trách và là mối ưu tư hàng đầu của Giáo Hội. Và để thi hành
sứ mang này cách hiệu quả hơn, Giáo Hội cần nhìn lại chính mình để xem Tin Mừng
của Chúa Kitô đã thấm sâu vào tim óc của mình đến đâu cũng như đã biến đổi
chính mình ra sao, trước khi tiếp tục sứ mạng Phúc Âm hoá người khác, tức mời
gọi thêm nhiều người nữa đón nhận và tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc duy nhất
của nhân loại.
Đó là lý do Giáo Hội mở Năm Đức
Tin để toàn thể Giáo Hội được dịp kiểm điểm đời sống đức tin của mình trước khi
quảng bá đức tin ấy cho những người chưa nhận được Tin Mừng này.
Ngày 22-9 vừa qua, nhân tiếp
kiến một số đông tân Giám mục ở Roma, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã lưu ý các
tân Giám mục về sứ mệnh Phúc Âm hoá:
“Công cuộc Phúc Âm
hoá quả thực không phải là công việc của các chuyên gia mà là của toàn thể dân
Chúa trong Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của các chủ chăn. Mỗi thành viên của tập
thể tín hữu ở trong và cùng với cộng đồng Giáo Hội phải cảm thấy mình có trách
nhiêm công bố và làm nhân chứng cho Tin Mừng.” (Evangelization, indeed, is not a work of specialists, but of the
entire people of God under the guidance of theirs Pastors. Every member of the
faithful, in and with the ecclesial community must feel responsible for
proclaiming and witnessing to the Gospel). (L’Osservatore Romano,
September 26,2012, p. 5)
Đây chính là sứ mệnh mà Chúa
Kitô đã trao phó cho các Tông đồ trước tiên và cho toàn thể Giáo Hội ngày nay
trước khi Ngài về Trời:
“Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép
rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16).
Như thế, loan báo Tin Mừng hay
Phúc Âm hoá thế giới phải là sứ mênh quan trọng nhất của Giáo Hội nhận lãnh từ
chính Chúa Kitô sau khi Ngài hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại của
Thiên Chúa qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên Trời.
Nhưng muốn cho công cuộc Phúc Âm
hoá được kết quả mong muốn thì người công bố phải là người chứng tá cho Tin
Mừng mình loan truyền cho người khác, như Đức Thánh Cha đã nhắc nhở các
tân Giám mục trên đây. Nghĩa là chính mình phải sống Tin Mừng ấy cách đích thực
và sâu đậm thì mới có sức thuyết phục người khác tin điều mình rao giảng cho
họ.
I. Trách nhiệm ngôn
sứ và nhân chứng của người tông đồ
Thật vậy, người tông đồ xưa và
nay là người được Chúa kêu goi cách riêng đi rao giảng và làm chứng cho Tin
Mừng. Thế giới xưa và đặc biệt ngày nay đã và đang thách đố niềm tin Kitô giáo
và những ai rao giảng Tin Mừng của Chúa với thực trạng của “văn hoá sự chết”
chối bỏ Thiên Chúa và mọi giáo lý của Người để quyến rũ con người vào đường hư
mất đời đời.
Vì thế cho nên “khốn cho tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16) như Thánh Phaolô đã nhắc nhở
chính mình và những ai được ơn gọi đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô,
là linh dược để chữa lành mọi bệnh tật của linh hồn và bảo đảm hy vọng được
sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau.
Nói khác đi, để đối kháng với
mọi thách đố của “văn hoá sự chết” chỉ có Phúc Âm sự sống của Chúa Kitô mới có
sức hoá giải mọi độc hại của các tà thuyết vô thần, tôn thờ tiền bạc và của cải
vật chất, chuộng khoái lạc vô luân vô đạo, dửng dưng trước sự đau khổ, nghèo
đói của người khác. Đó là bộ mặt của thế gian trống vắng niềm tin, và nhuộm đầy
màu sắc của sự dữ sự gian ác, sự ô uế, sự bất công và thiếu tình người.
Nhưng cho được thuyết phục người
khác nghe và tin Chúa Kitô, người tông đồ phải là người chứng tá trung thực của
Tin Mừng mình rao giảng.
Cụ thế, nếu người tông đồ cũng
ham mê tiền của và hư danh trần thế, để vận động hay mua chuộc ai hầu
được tiến cử vào các chức vụ lãnh đạo trong Giáo Hội hoàn vũ hay địa phương -
hoặc tệ hại hơn nữa - làm tay sai cho thế quyền để mưu lợi ích cá nhân,
thì chắc chắn sẽ không thể giảng sự khó nghèo của Phúc Âm và thuyết phục được
ai sống tinh thần khó nghèo này và khiêm tốn phục vụ theo gương Chúa Kitô,
Người đã sống lang thang, khó nghèo đến nỗi “không có nơi tựa đầu, trong khi
con chồn có hang, chim trời có tổ” (Mt 8,21).
Như vậy, nếu dính bén vào của
cải trần thê,và chạy theo danh vọng hư hèn thì đã khinh chê tinh thần khó nghèo
của chính Chúa Kitô.
Mặt khác, để nói lên sự khinh
chê về những ham muốn danh vọng hư hão trên đời này và cũng để trả lời các môn
đệ đến hỏi Chúa xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời, Chúa Giêsu đã nói với
họ: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước
Trời” (Mt 18,4).
Đó chính là gương phục vụ sáng
chói mà Chúa Giêsu đã nêu cao khi Ngài cúi mình rửa chân cho các môn đệ trong
Bữa Tiệc Ly sau hết trước khi Ngài bị trao nộp và tử nạn trên thập giá để đền
tội thay nhân loại và cứu chuộc cho muôn người khỏi chết đời đời vì tội.
Như thế, sống đức tin cho có
chiều sâu và có sức thuyết phục người khác trong Năm Đức Tin này cũng đòi hỏi
cách riêng người tông đồ lớn nhỏ ngày nay phải nhìn lại đời sống đức tin của
chính mình, xem mình có thực sự sống cốt lõi của Tin Mừng hay chưa - và đặc
biệt - đã thực sự sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, “Đấng vốn giầu
sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em, để lấy cái nghèo của mình
mà làm cho anh em trở nên giầu có” (2 Cr 8,9)?
Nếu người tông đồ mà không là
mẫu mục đức tin, đức cậy, đức mến, kèm với tinh thần phục vụ khiêm tốn và khó
nghèo theo gương Chúa Kitô, thì làm sao có thể thuyết phục được ai nghe mình
giảng dạy về những nhân đức này nữa? Chúa nói: “Ai có tai nghe thì nghe”
(Mt 13,43 Mc 4,23; Lc 8,8).
II. Trách nhiệm ngôn
sứ và chứng tá của người tín hữu giáo dân
Không phải chỉ người tông đồ mới
có trách nhiệm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Ngược lại, qua Bí tích Rửa Tội,
người giáo dân cũng tham dự vào 3 chức Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Chúa Kitô
nhưng với thể thức khác với Hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ và Tu sĩ.
Cụ thể, Hàng Giáo sĩ và Tu sĩ
thừa tác (Ministerial clergy and religious) như các giám mục và linh mục dòng và
triều thi hành chức năng tư tế bằng việc tế lễ trên bàn thờ, tức là dâng lại Hy
tế thập giá của Chúa Kitô, giảng Phúc Âm và cử hành các bí tích trong nhà thờ
nhân danh Chúa (in persona Christi).
Người tín hữu giáo dân, ngược
lại, dâng chính đời sống của mình với mọi vui buồn, sướng khổ để hiệp thông với
sự đau khổ của Chúa Kitô trên thập giá xưa và cách bí nhiệm ngày nay trên bàn
thờ mỗi khi Thánh lễ Tạ ơn (Eucharist) được cử hành để cảm tạ Chúa Cha và xin
ơn tha tội cho chúng ta cùng thể thức và mục đích của Hy tế Chúa Kitô dâng lần
đầu tiên trên thập giá.
Cũng vậy, người tín hữu giáo dân
thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình bằng chính đời sống của mình trước mặt người
đời để “họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh
em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Nghĩa là trong khi những người
không có niềm tin vào Chúa Kitô và đang làm những sự xấu sự dữ như giết người,
giết thai nhi, thay vợ đổi chồng, dâm ô trác táng, gian manh, trộm cắp, cờ bạc,
căm thù, chia rẽ, coi nhẹ lương tâm để lường gạt, bóc lột người khác… thì người
có niềm tin nơi Chúa phải sống niềm tin ấy cách cụ thể và sống động để nêu cao
những giá trị của niềm tin là tôn trọng sự sống, tôn trọng công bình, lương
thiện, thực thi bác ái, yêu thương, tha thứ, “như thế, anh em sẽ trở nên
trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những con người vẹn
toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải
chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15) theo lời dạy của Thánh
Phaolô Tông Đồ.
Thật vậy, sống trong thời đại
của “văn hoá sự chết”, đức tin của người tín hữu Chúa Kitô đang bị thách đố
nặng nề bởi những kẻ không có niềm tin nào, nên chỉ còn biết chay theo những
quyến rũ của tiền bạc và danh vọng hư hão, coi nhẹ luân thường, đạo lý để làm
những sự độc ác như giết người không gớm tay, lường đảo, gian manh, pha chế
chất độc vào thực phẩm để làm hại sức khoẻ của dân chúng; trồng cây thuốc
phiện, cần sa, ma tuý; mở sòng bạc, nhà điếm, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ
nghệ mãi dâm, ấu dâm vô cùng khốn nạn và tội lỗi.
Nếu người tín hữu Chúa Kitô mà
cũng tham gia vào những việc tội lỗi nói trên, thì đã tự đánh mất niềm tin của
mình và đã thoả hiệp với thế gian vô đạo cách rõ nét nhất. Và như thế thì thay
vì làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời, người tín hữu sẽ trở thánh
phản chứng (anti-witness) bằng chính đời sống của mình trước mặt người khác khi
không dám sống niềm tin của mình phản ánh trung thực Tin Mừng của sự sống, sự
công bình, đức bác ái, tình thương tha nhân, lòng yêu mến sự trong sạch thánh
thiện là những đặc trưng và đòi hỏi của Tin Mừng Cứu Độ, tức Phúc Âm Sự Sống
đối nghịch hoàn toàn với “văn hoá sự chết” của thế giới tục hoá ngày nay.
Mặt khác, khi người tín hữu Chúa
Kitô tích cực hoạt động để bảo vệ cho sự sống, bảo vệ và nêu cao những giá trị
của luân lý Kitô giáo về hôn nhân, về gia đình, về sự chung thuỷ của vợ chồng
trong hôn nhân, về công bình xã hội, về tôn trọng quyền sống của con người...
thì đã góp phần tích cực vào việc mở mang Nước Chúa là Vương quốc của sự bình
an, công bình, yêu thương và thánh thiện.
Đó là trách nhiệm ngôn sứ và
nhân chứng của người giáo dân trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II đã đặc biệt
nói đến trách nhiệm này trong Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn
dân - LG):
“Vì thế, giáo dân làm
tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh của Giáo Hội. Mỗi tín hữu đều được Chúa
đề cử làm tông đồ qua việc nhận lãnh Phép Rửa và Thêm Sức,…Nhưng giáo dân được
đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và
hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian” (x. LG, 33).
Nói khác đi, mọi thành phần dân
Chúa trong Giáo Hội đều có trách nhiệm rao giảng Lời Chúa và làm nhân chứng cho
Chúa để đem ánh sáng Chúa Kitô vào nơi tối tăm ô uế vì ham chuộng khoái lạc,
dâm ô, nhảy nhót mất nết, đem công bình vào nơi bóc lột và bất công, đem yêu
thương vào nơi oán thù, đem bình an vào nơi đang sôi sục lửa chiến tranh và
khủng bố.
Tóm lại, Năm Đức Tin là thời cơ
thuận lợi cho mọi người trong Giáo Hội kiểm điểm đời sống đức tin của mình để
canh tân và đào sâu thêm đức tin vào Chúa Kitô trong 2 chiều kích đi loan
truyền và làm nhân chứng cho Tin Mừng Cứu Độ để mời gọi thêm nhiều người nữa
tin và yêu mến Chúa Kitô để được cứu độ và được vinh phúc “thông phần bản
tính Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần
gian này” (1 Pr 1,4).
(emty.org Cập nhật: 11/10/2012 -
00:13:01)