Tông thư tự sắc "Porta
Fidei" về Năm Ðức Tin
HỎI -
ĐÁP
"Ước gì Lời Chúa hoàn tất hành trình của mình
và được tôn vinh" (x. 2 Ts 3,1)
Giáo phận Mỹ Tho
2012
- LƯU HÀNH NỘI BỘ -
LỜI
GIỚI THIỆU
Thông tin từ Vatican cho biết, sáng ngày
11 tháng 10 năm 2011, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cho công bố Tông thư tự sắc
“Porta Fidei” về Năm Đức Tin, Trong
đó, Ngài trình bày lý do, mục đích và những đường hướng chỉ đạo về việc cử hành
năm này.
Năm Đức Tin được Đức Thánh Cha Bênêđictô
XVI khai mạc với thánh lễ trọng thể tại Quảng trường Thánh Phêrô Tông Đồ vào
thứ năm 11 tháng 10 năm 2012, tiếp đến Giáo Hội Việt Nam sẽ khai mạc Năm Đức
Tin vào ngày 12 tháng 10 năm 2012 tại nhà thờ chính tòa Thanh Hóa, và các Giáo Phận
sẽ khai mạc năm Đức Tin vào thứ năm, ngày 18 tháng 10 năm 2012. Sau đó các giáo
xứ khai mạc năm Đức Tin vào chúa nhật truyền giáo, ngày 21 tháng 10 năm 2012.
Trong tình hiệp thông với toàn thể Giáo
Hội bước vào Năm Đức Tin, ban mục vụ giáo lý giáo phận xin gửi đến cộng đoàn tài
liệu Tông Thư Tự Sắc Porta Fidei của
Đức Thánh Cha, đã được soạn thảo dưới dạng những câu HỎI – ĐÁP, là cơ hội khám
phá hồng ân đức tin của chúng ta, để tuyên xưng ngoài miệng, làm chứng và dấn
thân công khai, và dẫn tới “việc Loan Báo
Tin Mừng cách mới mẻ”.
Mọi cố gắng xin quý Cha, tùy hoàn cảnh
và thời giờ, giúp cho Dân Chúa học hỏi Tông thư tự sắc này sao cho có lợi ích thiết
thực cho đời sống đức tin thắp sáng giữa lòng xã hội hôm nay.
Xin Chúa Ba Ngôi, nhờ lời cầu bầu của Đức
Mẹ Maria, chúc lành cho chúng ta.
Ban
mục vụ giáo lý Giáo phận
75 CÂU HỎI ĐÁP
Tông thư tự sắc "Porta
Fidei" về Năm Ðức Tin
01.
Hỏi : Năm Đức Tin lần thứ I diễn
ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng nào ?
đ/ Năm Đức Tin lần thứ I
diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
02. Hỏi : Năm
Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm nào ?
đ/ Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào năm
1967.
03. Hỏi : Năm
Đức Tin lần thứ I kỷ niệm sự kiện gì ?
đ/ Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm 1900 năm
tử đạo của 2 thánh Phêrô và Phaolô tông đồ.
04. Hỏi : Năm
Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều đại Đức Giáo Hoàng nào ?
đ/ Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới triều
đại Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI .
05. Hỏi : Năm
Đức Tin lần thứ II kỷ niệm sự kiện gì ?
đ/ Năm Đức Tin thứ II kỷ niệm 50 năm khai
mạc Công Đồng chung Vatican II và 20 năm ban hành sách Giáo Lý của Hội Thánh
Công Giáo.
06. Hỏi : Năm
Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày lễ gì ?
đ/ Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày lễ Chúa
Giêsu Kitô Vua vũ trụ năm 2013.
07. Hỏi : Công
đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào khai mạc ?
đ/ Công đồng
08. Hỏi : Công
đồng Vatican II được Đức Giáo Hoàng nào bế mạc ?
đ/ Công đồng
09. Hỏi : Công
đồng Vatican II được khai mạc vào ngày nào ?
đ/ Công đồng
10. Hỏi : Đức
Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định triệu tập Công Ðồng Vatican II, bằng văn kiện
nào ?
đ/ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết định
triệu tập Công Ðồng
11. Hỏi : Công
đồng Vatican II có bao nhiêu văn kiện ?
đ/ Công đồng
12. Hỏi : Công
đồng Vatican II có những Hiến Chế nào ?
đ/ - Một là Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum
Concilium)
- Hai là Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen
Gentium)
- Ba là Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa (Dei
Verbum)
- Bốn là Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày
nay (Gaudium et Spes)
13. Hỏi : Công
đồng Vatican II có những Tuyên ngôn nào ?
đ/ - Một là Tuyên ngôn về giáo dục Kitô
giáo (Gravissimum Educationis)
- Hai là Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn
giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate)
- Ba là Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis
Humanae)
14.
Hỏi : Hiến chế là gì ?
đ/ Hiến chế là Bản văn của Công Đồng chung về Tín lý hay
Mục vụ. Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả Giáo Hội.
15.
Hỏi : Tuyên ngôn là gì ?
đ/ Tuyên ngôn là văn kiện của Tòa Thánh giải thích một
đạo luật ban hành hay quảng diễn một vấn đề.
16.
Hỏi : Sách Giáo Lý của Hội Thánh
Công giáo được Đức Giáo Hoàng nào công bố ?
đ/ Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II công bố.
17.
Hỏi : Sách Giáo Lý của Hội Thánh
Công giáo được công bố năm nào ?
đ/ Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố
năm 1992.
18.
Hỏi : Sách Giáo Lý của Hội Thánh
Công giáo được công bố với văn kiện gì ?
đ/ Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo được công bố với
Tông Hiến ‘Kho Tàng Đức Tin’ (Fidei
Depositum).
19.
Hỏi : Hội Thánh toàn cầu sẽ khai
mạc Năm Đức Tin vào ngày 11 tháng Mười năm 2012, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc
Công Đồng Chung Vatican II, tại Việt Nam ngày khai mạc Năm Đức Tin chung ở Giáo
Hội Việt Nam sẽ cử hành vào ngày nào ?
đ/ Ở cấp Hội Đồng Giám Mục Việt
20. Hỏi : Ngày
khai mạc Năm Đức Tin ở các Giáo Phận là ngày nào ?
đ/ Ngày khai mạc Năm Đức Tin cấp giáo phận
là vào ngày thứ năm 18 tháng 10 năm 2012 ; riêng tại Giáo phận Mỹ Tho vào ngày Chúa
Nhật XXVII thường niên, nhằm ngày 14 tháng 10 năm 2012, tại nhà thờ chính tòa
Mỹ Tho.
21. Hỏi : Ngày
khai mạc Năm Đức Tin tại các Giáo xứ là ngày nào ?
đ/ Ngày khai mạc Năm Đức Tin trong toàn thể
các giáo xứ toàn quốc là vào ngày Lễ Khánh nhật truyền giáo, Ngày 21 tháng 10
năm 2012.
22.
Hỏi : Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin thì đối với mọi tín hữu, Năm Đức Tin sẽ đem lại một cơ hội tốt để
làm gì ?
đ/ - Một là học hỏi kỹ lưỡng những văn kiện chính của Công đồng Vatican II.
- Hai là nghiên cứu sách Giáo lý
của Hội Thánh Công giáo.
23.
Hỏi : Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin ở cấp giáo xứ, mọi tín hữu được mời gọi làm gì ?
đ/ Mọi tín hữu được mời gọi chuẩn bị Năm Đức Tin bằng cách chuyên chú đọc và
suy ngẫm Tự sắc Cánh cửa đức Tin (Porta
Fidei) của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI.
24.
Hỏi : Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin các giáo lý viên cần phải làm gì ?
đ/ Các giáo lý viên cần khai thác hơn nữa giáo thuyết
phong phú của sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, đồng thời dưới sự hướng dẫn của
cha sở, giúp các nhóm tín hữu đọc / và cùng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của văn
kiện quý báu này, để hình thành những cộng đoàn đức tin nhỏ, làm chứng về Chúa
Giêsu.
25.
Hỏi : Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho Năm Đức Tin của Bộ Giáo
Lý Đức Tin, trong Năm Đức Tin, tu sĩ các Hội dòng và hội viên các Tu đoàn tông
đồ được mời gọi làm gì ?
đ/ Họ được mời gọi dấn
thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa qua việc gắn bó mật thiết hơn nữa với Chúa
Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình và trung thành với Đức Thánh Cha cũng như
với giáo lý đúng đắn.
26.
Hỏi : Trong cuộc hội thảo từ ngày mồng 10 đến 13 tháng 7 năm 2012,
Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chọn chủ đề nào cho người
trẻ sống Năm Đức Tin ?
đ/ Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt
27. Hỏi : Câu
Thánh Kinh của Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt
đ/ Câu Thánh Kinh của Ủy Ban Mục Vụ Giới
Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt
28. Hỏi : Ủy
ban mục vụ Giới trẻ của HĐGM Việt
đ/ Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ đã chọn ngày
13 tháng 3 năm 2013.
29. Hỏi. Trong
cuộc Hội thảo do Uỷ ban Mục Vụ Giới trẻ tổ chức tại Hải Phòng (từ 10 đến 12-7-2012)
Đức Gm. Giuse Vũ Văn Thiên nhắc lại lời của Đức Thánh Cha đã viết là : “Một
điều quan trọng trong Năm Đức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta,
trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử
thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng
và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi
phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ
bi của Chúa Cha Đấng đến gặp tất cả mọi người” (Porta Fidei, số 13). Duyệt lại đức tin có nghĩa là gì ?
đ/ - Một là học hỏi giáo lý.
- Hai là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình.
- Ba là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường
ngày.
30. Hỏi. “Duyệt
lại đức tin” trước hết là học hỏi giáo lý nghĩa là gì ?
đ/ Vì kiến thức “chắp vá” và rời rạc nên
nhiều bạn trẻ dễ mất đức tin. Những bạn trẻ xa quê thường rơi vào hai tình huống
: một là mất hẳn đức tin ; hai là mang một đức tin biến dạng, tổng hợp pha lẫn
mê tín dị đoan. Chính vì đức tin lung lạc, mà bạn trẻ quan niệm lệch lạc về
tính dục, về luân lý và về thực hành đức tin (đi lễ, lãnh nhận
các bí tích…).
31. Hỏi :“Duyệt
lại đức tin” còn là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình nghĩa là thế
nào ?
đ/ Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn
đệ : “Các anh bảo Thầy là ai ?” luôn mang tính hiện tại đối với các tín hữu. Khi
nghiêm túc nhìn lại cách sống đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện
diện trong cuộc sống. Sự hiện diện của Chúa giúp cho bạn trẻ niềm vui và niềm
hăng say phấn khởi phụng sự Ngài. Khi cố gắng trả lời câu hỏi “Đức Giêsu là ai ?’, người tín hữu cũng
cần xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, để nhờ
đức tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà họ tin theo.
32. Hỏi : “Duyệt
lại đức tin” còn là việc thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày nghĩa
là gì ?
đ/ Như thánh Giacôbê nói : “Đức tin không có hành động là đức tin chết”
(Gc 2,17). Ngày nay, nhiều bạn trẻ sống ích kỷ, khép
kín, thiếu tinh thần trách nhiệm nên nhiều tệ nạn xã hội gia tăng … và trong đó
thi thoảng cũng có những bạn trẻ là Kitô hữu.
33. Hỏi : Trong
Tông thư Năm Đức Tin, Đức Giáo Hoàng đã dùng từ "Cánh cửa đức tin".
Từ này được trích từ sách nào ? (PF số 1)
đ/ Từ "Cánh cửa đức tin" được trích
từ Sách Công vụ tông đồ (x. Cv 14,27).
34. Hỏi : "Cánh
cửa đức tin" dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn
luôn mở rộng cho chúng ta) Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự gì ? (PF số 1)
đ/ Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự
dấn thân trong một hành trình kéo dài suốt đời.
35. Hỏi : Đức
Giáo Hoàng luôn nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám phá hành trình đức tin,
để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ
được gặp gỡ ai ? (PF số 2)
đ/ Gặp gỡ Chúa Giêsu
36. Hỏi : Giáo
Hội và các vị Mục Tử phải giống như ai, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến
đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho chúng ta sự
sống, sự sống sung mãn ? (PF số 2)
đ/ "Giáo Hội và các vị Mục Tử trong
Giáo Hội, giống như Chúa Kitô, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc,
tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho chúng
ta sự sống, sự sống sung mãn".
37. Hỏi : Chúng
ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên nhạt và ánh sáng bị che kín (x. Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có
thể tái cảm thấy nhu cầu như người phụ nữ xứ
đ/ - Một là lắng nghe Chúa Giêsu, Ðấng mời
gọi
- Hai là hãy tin nơi Chúa Giêsu
- Ba là kín múc nơi nguồn mạch của Chúa Giêsu vọt lên dòng
nước sự sống.
38. Hỏi : Chúng
ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng điều gì ? (PF Số 3)
đ/ Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng
mình bằng Lời Chúa và Bánh Sự Sống.
39. Hỏi : Giáo
huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay như trước đây : "Các
con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương thực mau qua, nhưng là lương thực
tồn tại mãi mãi" (Ga 6,27). Câu
hỏi mà những người nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày nay
và chúng ta biết câu trả lời của Chúa Giêsu : "Công việc của Thiên Chúa là
: Anh em hãy tin nơi Ðấng mà Ngài đã sai đến" (Ga 6,29). Vì thế, tin nơi Chúa Giêsu Kitô đó là gì ? (PF số 3)
đ/ Tin nơi Chúa Giêsu Kitô, đó là con đường
để có thể đạt tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.
40. Hỏi : Đức
Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quyết định ấn định Năm Ðức Tin sẽ bắt đầu từ ngày nào ?
(PF số 4)
đ/ Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quyết định
ấn định Năm Ðức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng Mười năm 2012.
41. Hỏi : Trong
Năm Đức Tin này, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI sẽ triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám
Mục vào tháng 10 năm 2012 với đề tài gì ? (PF số 4)
đ/ Trong Năm Đức Tin này, Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI sẽ triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2012 với
đề tài là : ‘Tân phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô’.
42. Hỏi : Khởi
sự Năm Ðức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II
có thể là một cơ hội thích hợp để chúng ta làm gì ? (PF số 5)
đ/ Để chúng ta hiểu rằng : các văn kiện Công
đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng
như vẻ tươi sáng".
43. Hỏi : Để
hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng ta cần đọc các văn kiện ấy thế nào ? (PF
số 5)
đ/ Để hiểu các văn kiện của Công đồng, chúng
ta cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp thụ các văn
kiện ấy như những văn bản giá trị và có tính chất qui phạm của Huấn Quyền Hội
Thánh, giữa lòng Truyền Thống của Giáo Hội.
44. Hỏi : Đức
Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như là gì ?
(PF số 5)
đ/ Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cảm thấy
nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như là hồng ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong
thế kỷ 20 : trong đó chúng ta được một địa bàn chắc chắn để định hướng trong
con đường của thế kỷ đang mở ra.
45. Hỏi : Chính
cuộc sống giữa trần thế, các tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu
để lại cho chúng ta được thế nào ?(PF số 6)
đ/ Được chiếu sáng rạng ngời.
46. Hỏi : Từ
sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực để làm gì ? (PF số 6)
đ/ Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội
kín múc năng lực để kiên trì và yêu thương, khắc phục những sầu muộn và khó khăn,
và để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng thế giới, một cách trung thực cho đến
khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian.
47. Hỏi : Năm
Ðức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa là ai ? (PF số
6)
đ/ Năm Ðức Tin là một lời mời gọi thực hiện
một cuộc trở về cùng Chúa Kitô là Ðấng duy nhất cứu độ thế giới
48. Hỏi : Tình
yêu của ai thúc bách chúng ta ? (PF số 7)
đ/ Tình yêu của Chúa Kitô thúc bách
chúng ta (2 Cr
5,14).
49. Hỏi : "Tình
yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" : chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn
chúng ta và thúc đẩy chúng ta làm gì ? (PF số 7)
đ/ "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách
chúng ta" : chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng
ta Loan báo Tin Mừng.
50. Hỏi : Đức
Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc những tác phẩm của ai để tiến tới "cánh
cửa đức tin". (PF số 7)
đ/ Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy đọc
những tác phẩm của Thánh Augustinô để tiến tới "cánh cửa đức tin".
51. Hỏi : Trong
dịp kỷ niệm tốt đẹp này, Đức Giáo Hoàng muốn mời gọi các Giám Mục trên toàn thế
giới : hãy hiệp với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng
mà Chúa ban cho chúng ta, để tưởng niệm điều gì ? (PF số 8)
Đ/ Để tưởng niệm Hồng ân đức tin quí giá.
52. Hỏi : Đức
Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy tư về đức tin để giúp tất cả các tín hữu của
Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với với điều gì ?(PF Số 8)
đ/ Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng suy
tư về đức tin, để giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố
lòng gắn bó với Tin Mừng.
53. Hỏi : Trong
Năm Ðức Tin này, Đức Giáo Hoàng kêu gọi các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo
xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo Hội hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng kinh gì
một cách công khai ? (PF số 8)
đ/ Tuyên xưng Kinh Tin Kính.
54. Hỏi : Chúng
ta mong muốn rằng Năm Ðức Tin khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng gì ? (PF số 9)
đ/ Chúng ta mong muốn rằng : Năm Ðức Tin
khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng Tuyên xưng đức tin trọn vẹn, và với xác tín được
đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng.
55. Hỏi : Năm
Đức Tin sẽ là một cơ hội thích hợp để tăng cường việc cử hành đức tin trong phụng
vụ, đặc biệt là trong Bí tích gì ? (PF số 9)
đ/ Trong Thánh Thể, vốn là tột đỉnh mà hoạt
động của Giáo Hội hướng tới và đồng thời cũng là nguồn mạch, từ đó phát sinh
toàn thể năng lực của Giáo Hội"
56. Hỏi : Trong
Năm Ðức Tin này, sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình khi tái khám
phá điều gì ? (PF Số 9)
đ/ Trong Năm Ðức Tin này, sự quyết tâm mà
mỗi tín hữu phải biến thành của mình khi tái khám phá nội dung đức tin được tuyên
xưng, cử hành, sống và cầu nguyện và suy tư về chính hành động đức tin.
57. Hỏi : Điều
gì chỉ rằng hành vi đầu tiên ta đạt đến đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, và
tác động của ơn thánh hành động và biến đổi con người ngay từ nội tâm ? (PF số
10)
đ/ Đó là con tim.
58. Hỏi : Việc
tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm những việc gì ? (PF số 10)
đ/ Việc tuyên xưng ngoài miệng / cho thấy
đức tin bao gồm việc làm chứng và sự dấn thân công khai.
59. Hỏi : Việc
hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào đâu ? (PF số 10)
đ/ Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng ta vào
toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc khải.
60. Hỏi : Ðể
hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm
thấy ở đâu ? (PF số 11)
đ/ Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội
dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy trong Sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo.
61. Hỏi : Ðức
Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết : Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo này sẽ
mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình gì ? (PF số 11)
đ/ Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo này
sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình Canh tân toàn thể đời sống
Giáo Hội.
62. Hỏi : Khi
tìm hiểu Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, chúng ta khám phá thấy rằng :
đức tin được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo không phải là
một lý thuyết, nhưng là gì ? (PF 11)
đ/ Là một cuộc gặp gỡ với Ðấng sống trong
Giáo Hội.
63. Hỏi : Trong
Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực
nâng đỡ điều gì ? (PF số 12)
đ/ Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ đức tin.
64. Hỏi : Đức
tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc
biệt là những lãnh vực nào ? (PF số 12)
đ/ Là lãnh vực những chinh phục của khoa
học và kỹ thuật.
65. Hỏi : Giáo
Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề
có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự gì ? (PF số 12)
đ/ Vì cả hai đều hướng về sự thật tuy là
bằng những con đường khác nhau.
66. Hỏi : Một
điều quan trọng trong Năm Ðức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong
đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh
thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ là gì ? (PF số 13)
đ/ Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp
lớn lao của những người nam nữ, để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng
chứng tá cuộc sống của họ.
67. Hỏi : Một
điều quan trọng trong Năm Ðức tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong
đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử tội lỗi
phải thúc giục mỗi người phải làm gì ? (PF số 13)
đ/ Lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người
hoán cải chân thành và trường kỳ, để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha, Ðấng đến
gặp tất cả mọi người.
68. Hỏi : Trong
Năm Đức Tin này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về ai, "là nguồn gốc và là tận
điểm của đức tin" ?(PF Số 13)
đ/ Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy luôn
hướng nhìn về Chúa Giêsu Kitô, "là nguồn gốc và là tận điểm của đức
tin".
69. Hỏi : Năm
Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá điều gì ? (PF số
14)
Đ/ Năm Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường
chứng tá Bác ái.
70. Hỏi : Ðức
tin và đức mến có liên hệ gì với nhau ? (PF số 14)
đ/ Ðức tin không có đức mến thì không mang
lại thành quả, và đức mến không có đức tin
thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Ðức tin và đức mến cần có
nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình.
71. Hỏi : Nhờ
đức tin, chúng ta có thể nhận ra điều gì nơi những người đang xin tình thương của
chúng ta ? (PF số 14)
đ/ Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra Tôn
nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta)
72. Hỏi : Thánh
Phaolô tông đồ yêu cầu môn đệ Timôthê hãy "tìm kiếm đức tin" (x. 1 Tm 2,22) và chúng ta cảm thấy lời mời gọi
này được gửi đến mỗi người chúng ta để làm gì ? (PF số 15)
đ/ Để không ai trong chúng ta trở nên lười
biếng trong đức tin.
73. Hỏi : Ðức
tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp chúng ta làm gì ? (PF số 15)
đ/ - Một là giúp chúng ta nhận thức với một
cái nhìn luôn mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta.
- Hai là giúp chúng ta đón nhận những dấu chỉ thời đại trong
hiện tại của lịch sử.
- Ba là thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sinh
động về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế giới.
74. Hỏi : Cuộc
sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm điều gì ? (PF số 15)
đ/ Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm
cả niềm vui lẫn đau khổ.
75. Hỏi : Đức
Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI mời gọi chúng ta hãy phó thác thời điểm hồng phúc này cho
ai ? (PF số 15)
đ/ Cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, được
tuyên xưng là "người có phúc" vì Mẹ đã tin (Lc 1,45).
75 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
Tông thư tự sắc
"Porta Fidei" về Năm Ðức Tin
01. Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra dưới
triều đại Đức Giáo Hoàng nào ?
a) Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII.
b) Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c) Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II.
d) Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI.
02. Năm Đức Tin lần thứ I diễn ra vào
năm nào ?
a) Năm 1960 b) Năm 1962
c) Năm 1967 d) Năm 1972
03. Năm Đức Tin lần thứ I kỷ niệm sự kiện
gì ?
a) Kỷ niệm 1950 năm Chúa Giêsu
chết để cứu chuộc con người.
b) Kỷ niệm 1900 năm thánh Phaolô
trở lại.
c) Kỷ niệm 1900 năm tử đạo
của 2 thánh Phêrô và Phaolô tông đồ.
d) Kỷ niệm Ngày kết thúc
Công Đồng Vaticanô II.
04. Năm Đức Tin lần thứ II diễn ra dưới
triều đại Đức Giáo Hoàng nào ?
a) Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII.
b) Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c) Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II.
d) Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI.
05. Năm Đức Tin lần thứ II kỷ niệm sự kiện
gì ?
a) Kỷ niệm ngày thành lập Hàng
giáo Phẩm Việt
b) Kỷ niệm 50 năm khai mạc
Công Đồng chung Vatican II.
c) Kỷ niệm 20 năm ban hành
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
d) Chỉ có b) và c) đúng.
06. Năm Đức Tin sẽ kết thúc vào ngày
lễ gì ?
a) Lễ Các Thánh Nam Nữ năm
2013.
b) Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ
trụ năm 2013.
c) Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
năm 2013.
d) Lễ Giáng Sinh năm 2013.
07. Công đồng
a) Đức Giáo Hoàng Piô XII.
b) Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII.
c) Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II.
d) Đức Giáo Hoàng
Bênêdíctô XVI.
08. Công đồng
a) Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII.
b) Đức Giáo Hoàng Piô XII.
c) Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II.
d) Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI.
09. Công đồng
a) 11.10.1960 b) 11.10.1962
c) 25.12.1962 d) 01.01.2013
10. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã quyết
định triệu tập Công Ðồng Vatican II, bằng văn kiện nào ?
a) Tông huấn "Humanae Salutis" (Ơn Cứu Ðộ Loài
Người).
b) Tông thư tự sắc “Porta Fidei” (Năm Đức Tin).
c) Thông điệp “Redemptor Hominis” (Đấng Cứu chuộc nhân
thế).
d) Thông điệp “Deus caritas est” (Thiên Chúa là tình
yêu).
11. Công đồng
a) 10 b) 12 c) 14 d)
16
12. Công đồng
a) Hiến Chế về Phụng Vụ
Thánh (Sacrosanctum Concilium).
b) Hiến chế tín lý về Giáo
Hội (Lumen Gentium).
c) Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải
của Thiên Chúa (Dei Verbum).
d) Hiến chế mục vụ về Giáo
Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et
Spes).
e) Cả a) b) c) và d) đúng.
13.
Công đồng Vatican II có những Tuyên ngôn nào ?
a) Tuyên ngôn về giáo dục
Kitô giáo (Gravissimum Educationis).
b)Tuyên ngôn về liên lạc của
Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra
Aetate).
c)Tuyên ngôn về tự do tôn
giáo (Dignitatis Humanae).
d) Cả a) b) và c) đúng.
14. Hiến chế là gì ?
a) Bản văn của Công Đồng chung
về Tín lý hay Mục vụ. Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả thế giới.
b) Văn kiện của Tòa Thánh giải
thích một đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
c) Văn kiện của Đức Giáo Hoàng
quãng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới
bàn thảo.
d) Văn kiện do Đức Giáo Hoàng
ký và công bố, thường được viết do chính ngài đọc, ký tên, không có ấn triện.
15. Tuyên ngôn là gì ?
a) Văn kiện của Tòa Thánh giải
thích một đạo luật ban hành hay quảng diễn một vấn đề.
b) Văn kiện do Đức Giáo Hoàng
ký và công bố, thường được viết do chính ngài đọc, ký tên, không có ấn triện.
c) Văn kiện của Đức Giáo Hoàng
về một vấn đề, gửi cho cả thế giới, dưới một bức thư chung.
d) Văn kiện của Đức Giáo Hoàng
quảng diễn một vấn đề, đặc biệt một vấn đề do Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới
bàn thảo.
16. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo
được Đức Giáo Hoàng nào công bố ?
a) Đức Giáo Hoàng Piô XII.
b) Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII.
c) Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II.
d) Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI.
17. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo
được công bố năm nào ?
a) Năm 1980. b) Năm 1982.
c) Năm 1988. d) Năm 1992.
18. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo
được công bố với văn kiện gì ?
a) Fidei
Depositum (Kho Tàng Đức Tin).
b) Porta Fidei
(Cánh Cửa Đức Tin).
c) Rerum Novarum
(Tân sự).
d) Mater et Magistra (Mẹ và Thầy).
19.
Hội Thánh toàn cầu sẽ khai mạc Năm Đức Tin vào ngày 11 tháng Mười năm 2012,
nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vatican II, tại Việt Nam ngày khai
mạc Năm Đức Tin chung ở cấp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sẽ cử hành vào ngày nào ?
a) Ngày 07 tháng Mười 2012.
b) Ngày 12 tháng Mười 2012.
c) Ngày 18 tháng Mười 2012.
d) Ngày 21 tháng Mười 2012.
20. Ngày khai mạc Năm Đức Tin ở các Giáo
phận là ngày nào ?
a) Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh
Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b) Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức
Mẹ Mân Côi)
c) Ngày 18 tháng Mười (Lễ Thánh
Luca, Tác giả sách Tin Mừng ).
d) Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh
nhật truyền giáo).
21. Ngày khai mạc Năm Đức Tin tại các Giáo
xứ là ngày nào ?
a) Ngày 1 tháng Mười (Lễ Thánh
Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
b) Ngày 7 tháng Mười (Lễ Đức
Mẹ Mân Côi)
c) Ngày 18 tháng Mười (Lễ thánh
Luca Tông đồ).
d) Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh
nhật truyền giáo).
22. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho
Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin thì đối với mọi tín hữu, Năm Đức Tin sẽ đem lại
một cơ hội tốt để làm gì ?
a)
Học hỏi kỹ lưỡng những văn kiện chính của Công đồng Vatican II.
b)
Nghiên cứu sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
c)
Nghiên cứu những tác phẩm chú giải Thánh Kinh kinh điển.
d)
Chỉ có a) và b) đúng.
23. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho
Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin ở cấp giáo xứ, mọi tín hữu được mời gọi làm
gì ?
a)
Chuyên chú đọc và suy ngẫm Tự sắc Cánh cửa đức Tin (Porta Fidei) của Đức Thánh
Cha Bênêđictô XVI.
b)
Đọc và cầu nguyện với phương pháp Lectio Divina.
c)
Sống đời sống đức ái một cách đặc biệt.
d)
Chầu Thánh Thể và siêng năng lần hạt Mân côi.
24. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho
Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin, các giáo lý viên cần phải làm gì ?
a) Cần khai thác hơn nữa giáo thuyết phong phú của sách
Giáo lý Hội Thánh Công giáo
b) Giúp các nhóm tín hữu đọc và cùng tìm hiểu ý nghĩa
sâu xa của văn kiện quý báu này, để hình thành những cộng đoàn đức Tin nhỏ, làm
chứng về Chúa Giêsu.
c) Phát triển phong trào Bảo vệ Sự Sống.
d) Chỉ có a) và b) đúng.
25. Theo tài liệu Hướng dẫn Mục Vụ Cho
Năm Đức Tin của Bộ Giáo Lý Đức Tin, trong Năm Đức Tin, tu sĩ các Hội dòng và hội
viên các Tu đoàn tông đồ được mời gọi làm gì ?
a) Dấn thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa qua việc gắn
bó mật thiết hơn nữa với Chúa Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình và trung thành
với Đức Thánh Cha cũng như với giáo lý đúng đắn.
b) Chia sẻ cuộc sống trần thế với những anh chị em
nghèo khó.
c) Giúp cho mọi người được biết Thiên Chúa là Cha
giàu lòng thương xót.
d)
Cả a) b) và c) đúng.
26. Trong cuộc hội thảo (từ ngày
10-13.7.2012) Ủy Ban Mục Vụ Giới Trẻ HĐGMVN đã chọn chủ đề nào cho người trẻ
sống Năm Đức Tin ?
a) Cho niềm tin tươi sáng.
b) Không biết Thánh Kinh là
không biết Chúa Kitô.
c) Chúa Kitô, niềm hy vọng
của người trẻ.
d) Chúa Kitô, nguồn sống
mới.
27. Câu Thánh Kinh của Ủy Ban Mục Vụ Giới
Trẻ HĐGMVN đã chọn cho người trẻ sống Năm Đức Tin này là gì ?
a) “Tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm
1,12).
b) “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm
13,1).
c) “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga
4,16).
d) “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
28.
Trong cuộc hội thảo từ ngày mồng 10 đến 13 tháng 7 năm 2012 của Ủy Ban Mục Vụ
Giới Trẻ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các tham dự viên đã chọn ngày nào là ngày
giới trẻ trong Năm Đức Tin tại các giáo phận và giáo xứ ?
a) Ngày 25 tháng Hai 2013.
b) Ngày 1 tháng Ba 2013.
c) Ngày 13 tháng Ba 2013.
d) Ngày 19 tháng Ba 2013.
29. Trong cuộc Hội thảo do Uỷ ban Giới
trẻ tổ chức tại Hải Phòng (từ 10 đến 13-7-2012), Đức Gm. Giuse Vũ Văn Thiên nhắc
lại lời của Đức Thánh Cha đã viết là : “Một điều quan trọng trong
Năm Đức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu
nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy
sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển
cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục
mỗi người hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa
Cha Đấng đến gặp tất cả mọi người” (Porta
Fidei, số 13). Duyệt lại đức tin có nghĩa
là gì ?
a) Là học hỏi giáo lý.
b) Là việc nhận ra vị trí của
Chúa trong đời mình.
c) Là việc thể hiện đức tin
trong cuộc sống thường ngày.
d)
Cả a) b) và c) đúng.
30. “Duyệt lại đức tin” vì sao trước hết
là học hỏi giáo lý ?
a) Vì kiến thức “chắp vá” và
rời rạc nên nhiều bạn trẻ dễ mất đức tin.
b) Vì những bạn trẻ xa quê
thường rơi vào hai tình huống : một là mất hẳn đức tin ; hai là mang một đức tin
biến dạng, tổng hợp pha lẫn mê tín dị đoan.
c) Vì đức tin lung lạc, mà
bạn trẻ quan niệm lệch lạc về tính dục, về luân lý và về thực hành đức tin (đi lễ,
lãnh nhận các bí tích…).
d)
Cả a) b) và c) đúng.
31. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc
nhận ra vị trí của Chúa trong đời mình ?
a) Vì khi nghiêm túc nhìn lại
cách sống đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống.
b) Sự hiện diện của Chúa giúp
cho bạn trẻ niềm vui và niềm hăng say phấn khởi phụng sự Ngài.
c) Vì người tín hữu cũng cần
xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, để nhờ đức
tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà họ tin theo.
d)
Cả a) b) và c) đúng.
32. “Duyệt lại đức tin” vì sao còn là việc
thể hiện đức tin trong cuộc sống thường ngày ?
a) Như thánh Giacôbê nói :
“Đức tin không có hành động là đức tin
chết” (Gc 2,17).
b) Chứng thực mình là người
tốt.
c) vì Muốn bắt chước mọi người.
d) Chỉ có a) và b) đúng.
33. Trong Tông thư Năm Đức Tin, Đức Giáo
Hoàng đã dùng từ "Cánh cửa đức tin". Từ này được trích từ sách nào ? (PF
số 1)
a) Sách Công vụ tông đồ.
b) Thư gửi tín hữu Do
thái.
c) Thư gửi tín hữu Rôma.
d) Sách Khải Huyền.
34. "Cánh cửa đức tin" (x.
Cv 14,27) dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở
rộng cho chúng ta. Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự gì ? (PF số 1)
a) Sự dấn thân trong một hành
trình kéo dài suốt đời.
b) Lời hứa Nước Trời.
c) Lời hứa sẽ được sự sống
vĩnh cửu.
d) Sẽ được sự bình an chân
thật.
35. Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhở về sự
cần thiết phải tái khám phá hành trình đức tin để ngày càng làm nổi bật niềm
vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ ai ? (PF
số 2)
a) Anh em. b)
Chúa Giêsu.
c) Giáo Hội. d)
Thiên Chúa.
36.
Trong bài giảng Thánh Lễ khai mạc triều đại Giáo Hoàng, Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI đã nói : "Giáo Hội nói chung và các vị Mục Tử trong Giáo Hội,
giống như ai, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự
sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Ðấng ban cho chúng ta sự sống,
sự sống sung mãn" (PF
số 2)
a) Người mục tử. b) Chúa Kitô.
c) Các Tông đồ. d) Các ngôn sứ.
37. Chúng ta không thể chấp nhận để cho
muối trở nên nhạt và ánh sáng bị che kín (x. Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm thấy nhu cầu như người phụ nữ
xứ
a) Lắng nghe Chúa Giêsu, Ðấng
mời gọi
b) Tin nơi Chúa Giêsu.
c) Kín múc nơi nguồn mạch của
Chúa Giêsu vọt lên dòng nước sự sống.
d) Cả a) b) và c) đúng.
38. Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi
dưỡng mình bằng điều gì ? (PF số 3)
a) Lời Chúa. b) Bánh Sự Sống.
c) Đức ái. d) Chỉ có a) và b) đúng.
39. Giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang
dội mạnh mẽ ngày nay như trước đây : “Các con hãy cố gắng làm việc không phải
để được lương thực mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi” (Ga 6,27). Câu hỏi mà những người nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng
ta ngày nay và chúng ta biết câu trả lời của Chúa Giêsu : “Công việc của Thiên
Chúa là : Anh em hãy tin nơi Ðấng mà Ngài đã sai đến” (Ga 6,29). Vì thế, tin nơi
Chúa Giêsu Kitô đó là gì ? (PF số 3)
a) Con đường để có thể đạt
tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.
b) Đạt được hạnh phúc.
c) Cùng đích của con người
d) Sống bác ái với mọi người.
40. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI quyết
định ấn định Năm Ðức Tin sẽ bắt đầu từ ngày nào ? (PF
số 4)
a) Ngày 11.10.2012
b) Ngày 08.12.1012
c) Ngày 25.12.1012
d) Ngày 01.01.2013
41. Trong Năm Đức Tin này Đức Giáo Hoàng
Bênêdíctô XVI sẽ triệu
tập một Thượng HÐGM vào tháng 10 năm 2012 với đề tài gì ?
(PF số 4)
a) Về Lời Chúa.
b) Tái truyền giảng Tin Mừng
để thông truyền đức tin Kitô.
c) Thánh Thể.
d) Ơn gọi và Sứ mệnh của các
Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo Hội và trong thế giới.
42. Khởi sự Năm Ðức Tin trùng với dịp kỷ
niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung
a) Tuyên xưng đức tin mà chúng
ta đã lãnh nhận.
b) Sống chứng nhân cho Chúa
Giêsu Kitô giữa lòng thế giới đang tục hóa.
c) Hiểu rằng các văn kiện Công
đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng
như vẻ tươi sáng".
d) Cả a) b) và c) đúng.
43. Để hiểu các văn kiện của Công đồng,
chúng ta cần đọc các văn kiện ấy thế nào ? (PF số 5)
a) Một cách thích hợp.
b) Cần biết rõ.
c) Hấp thụ các văn kiện
ấy.
d) Cả a) b) và c) đúng.
44. Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI cảm thấy
nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như là gì ? (PF số 5)
a) Hồng ân lớn lao mà Giáo
Hội được hưởng trong thế kỷ 20.
b) Một địa bàn chắc chắn để
định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra.
c) Trách nhiệm phải thi
hành.
d) Chỉ a) và b) đúng.
45. Chính cuộc sống giữa trần thế, các
tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta được
thế nào ? (PF số 6)
a) Chiếu sáng rạng ngời.
b) Công bố cho mọi người.
c) Thiên Chúa chúc lành.
d) Hiệp thông với mọi người.
46. Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo
Hội kín múc năng lực để làm gì ? (PF số 6)
a) Kiên trì và yêu thương khắc
phục những sầu muộn và khó khăn.
b) Để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa,
giữa lòng thế giới, một cách trung thực cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ
trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian.
c) Để hiệp nhất với mọi người
trên toàn thế giới.
d) Chỉ có a) và b) đúng.
47. Năm Ðức Tin là một lời mời gọi thực
hiện một cuộc trở về cùng Chúa là ai ? (PF số 6)
a) Đấng tạo dựng nên vũ trụ.
b) Ðấng duy nhất cứu độ thế
giới.
c) Đấng giải phóng dân tộc
Ítraen.
d) Đấng mà các ngôn sứ đã
tiên báo.
48. Tình yêu của ai thúc bách chúng ta
? (PF số 7)
a) Nhân loại. b) Đấng tạo dựng.
c) Chúa Kitô. d) Mẹ Maria.
49. "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách
chúng ta" (2 Cr
5,14) : chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm
hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta làm gì ? (PF số 7)
a) Xây dựng xã hội tốt
đẹp.
b) Khai trí mọi người.
c) Loan báo Tin Mừng.
d) Chăm lo cho những người
nghèo khổ.
50. Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy
đọc những tác phẩm của ai để tiến tới "cánh cửa đức tin". (PF
số 7)
a) Thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu.
b) Thánh Têrêxa Avila.
c) Thánh Augustinô.
d) Thánh Tôma Aquinô.
51. Trong dịp kỷ niệm tốt đẹp này, Đức
Giáo Hoàng muốn mời gọi các Giám Mục trên toàn thế giới hãy hiệp với Người Kế Vị
Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng ta, để
tưởng niệm điều gì ? (PF số 8)
a) Cái chết và sự phục sinh
của Chúa Giêsu.
b) Hồng ân đức tin quí
giá.
c) Năm Thánh cứu độ.
d) Cả a) b) và c) đúng.
52. Đức Giáo Hoàng kêu gọi cần gia tăng
suy tư về đức tin để giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng
cố lòng gắn bó với với điều gì ? (PF số 8)
a) Thánh Thể. b) Tin Mừng.
c) Giáo Hội. d) Chúa Kitô.
53. Trong Năm Ðức Tin này, Đức Giáo Hoàng
kêu gọi các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức
Giáo Hội hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng kinh gì một cách công khai ? (PF
số 8)
a) Kinh Lạy Cha.
b) Kinh Tin.
c) Kinh Tin Kính.
d) Kinh Cầu Trái Tim Chúa
Giêsu.
54. Chúng ta mong muốn rằng Năm Ðức Tin
khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng gì ? (PF
số 9)
a) Tuyên xưng đức tin trọn
vẹn và với xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng.
b) Được sống hạnh phúc với
Thiên Chúa.
c) Được hiệp thông với mọi
chi thể đau khổ của Chúa Kitô.
d) Được loan báo tin mừng một
cách tự do.
55. Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thích
hợp để tăng cường việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Bí
tích gì ? (PF số 9)
a) Thánh Tẩy b) Thánh Thể
c) Sám Hối d) Truyền Chức Thánh
56. Trong Năm Ðức Tin này sự quyết tâm
mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình khi tái khám phá điều gì ? (PF
số 9)
a) Nội dung đức tin được
tuyên xưng.
b) Cử hành, sống và cầu nguyện.
c) Suy tư về chính hành động
đức tin.
d) Cả a) b) và c) đúng.
57. Điều gì chỉ rằng hành vi đầu tiên ta
đạt đến đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa và tác động của ơn thánh hành động
và biến đổi con người ngay từ nội tâm ? (PF số 10)
a) Con tim. b) Lòng mộ mến.
c) Sự tin tưởng. d) Đức ái.
58. Việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy
đức tin bao gồm những việc gì ? (PF số 10)
a) Làm chứng.
b) Dấn thân công khai.
c) Sống tình thân ái.
d) Chỉ có a và b đúng.
59. Việc hiểu biết đức tin dẫn chúng
ta vào đâu ? (PF số 10)
a) Toàn bộ mầu nhiệm cứu độ
được Thiên Chúa mạc khải.
b) Năm Đức Tin.
c) Tình yêu của Thiên Chúa
.
d) Kinh Tin Kính.
60. Ðể hiểu biết một cách hệ thống về nội
dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy ở đâu ? (PF
số 11)
a) Kinh Tin Kính các tông đồ.
b) Các văn kiện của Công Đồng
chung Vatican II.
c) Sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo.
d) Cả a) b) và c) đúng.
61. Ðức Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết
: Sách Giáo lý này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình gì ? (PF
số 11)
a) Hòa giải giữa các dân tộc.
b) Phát triển các dân tộc.
c) Canh tân toàn thể đời sống
Giáo Hội.
d) Hiệp nhất các tin hữu
tin vào Thiên Chúa.
62. Khi tìm hiểu Sách Giáo Lý chúng ta
khám phá thấy rằng đức tin được trình bày trong Sách Giáo Lý không
phải là một lý thuyết, nhưng là gì ? (PF số 11)
a) Một cuộc gặp gỡ với Ðấng
sống trong Giáo Hội.
b) Một chương trình sống cụ
thể.
c) Một trãi nghiệm của người
Kitô.
d) Ân sủng dành cho mỗi người.
63. Trong Năm Ðức Tin, Sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ điều gì ? (PF
số 12)
a) Đức tin.
b) Đời sống tinh thần của người
trẻ.
c) Kiến thức thực hành hằng
ngày.
d) Sự kết hiệp với Chúa
Giêsu Kitô.
64. Đức tin ngày nay đang phải chịu một
loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là những lãnh vực nào ? (PF
số 12)
a) Khoa học b) Nghệ thuật
c) Kỹ thuật d) Chỉ a) và c) đúng
65. Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh
rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều
hướng về sự gì ? (PF số 12)
a) Nâng cao nhận thức của con
người.
b) Sự thật.
c) Giúp đỡ con người trước
những thảm họa của thiên nhiên.
d) Cải thiện đời sống của phần
đông nhân loại.
66. Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin
là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường
giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn
lao của những người nam nữ là gì ? (PF số 13)
a) Làm tăng trưởng và phát
triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ.
b) Sống công bằng bác ái.
c) Sống yêu thương mọi người.
d) Làm giảm nhẹ những đau khổ
của những người bị bỏ rơi.
67. Một điều quan trọng trong Năm Ðức tin
là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường
giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người phải
làm gì ? (PF số 13)
a) Hoán cải chân thành và trường
kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Ðấng đến gặp tất cả mọi người.
b) Từ bỏ tội lỗi của mình.
c) Ăn chay và cầu nguyện cho
tội lỗi của mình và của tha nhân.
d) Yêu thương mọi người
như chính mình.
68. Trong thời điểm này, chúng ta hãy luôn
hướng nhìn về ai, "là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin" ? (PF
số 13)
a) Mẹ Maria. b) Thiên Chúa.
c) Chúa Giêsu Kitô. d) Đức Giáo Hoàng
69. Năm Ðức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận
tiện để tăng cường chứng tá điều gì ? (PF số 14)
a) Bác ái. b) Đức tin.
c) Sự hiệp thông. d) Sự hiệp nhất.
70. Ðức tin không có đức mến thì không
mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc
sự nghi ngờ. Ðức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện
hành trình của mình. Đúng hay sai ? (PF số 14)
a) Đúng b) Sai
71. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra
điều gì nơi những người đang xin tình thương của chúng ta ? (PF
số 14)
a) Tôn nhan Chúa phục
sinh.
b) Anh em của mình.
c) Lòng yêu thương.
d) Cả a) b) và c) đúng.
72. Thánh Phaolô tông đồ yêu cầu môn đệ
Timôthê hãy "tìm kiếm đức tin" (Xc 1 Tm 2,22) và chúng ta cảm thấy lời
mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta để làm gì ? (PF
số 15)
a) Không ai trong chúng ta
trở nên lười biếng trong đức tin.
b) Lớn mạnh trong đức tin.
c) Không mất đức tin.
d) Kiên vững trong đức tin
giưa bao cám dỗ thử thách.
73. Ðức tin là bạn đồng hành trong cuộc
sống, giúp chúng ta làm gì ? (PF
số 15)
a) Nhận thức với một cái nhìn
luôn mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta.
b) Đón nhận những dấu chỉ thời
đại trong hiện tại của lịch sử.
c) Thúc đẩy mỗi người chúng
ta trở thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế
giới.
d) Cả a) b) và c) đúng.
74. Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm
nghiệm điều gì ? (PF số 15)
a) Sự thanh thản b) Niềm vui
c) Đau khổ d) Chỉ có b) và c) đúng.
75. Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy
phó thác thời điểm hồng phúc này cho ai ? (PF số 15)
a) Chúa Cha.
b) Chúa Thánh Thần.
c) Đức Maria, Mẹ Thiên
Chúa.
d) Các Hội Đồng Giám Mục.
Lời giải đáp 75 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
Tông thư tự sắc
"Porta Fidei" về Năm Ðức Tin
01. d) Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
02.
c) Năm 1967
03.
c) Kỷ niệm 1900 tử đạo của 2 thánh Phêrô
và Phaolô tông đồ
04.
d) Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô XVI
05.
d) Chỉ có b và c đúng(Porta
Fidei Số 4)
06. b) Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ năm 2013
07.
b) Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII
08.
d) Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
09.
b) 11.10.1962
10.
a) Tông huấn "Humanae
Salutis" (Ơn Cứu Ðộ Loài Người)
11. d) 16
12.
e) Cả a, b, c và d đúng.
13.
d) Cả a, b và c đúng.
14.
a) Bản văn của Công Đồng chung về Tín lý
hay Mục vụ. Hiến chế có hiệu lực như một sắc luật cho cả thế giới.
15.
a) Văn kiện của Tòa Thánh giải thích một
đạo luật ban hành hay quãng diễn một vấn đề.
16. c) Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
17.
d) Năm 1992
18.
a) Fidei Depositum (Kho
Tàng Đức Tin)
19.
b) Ngày 12 tháng Mười 2012.
20.
c) Ngày 18 tháng Mười (Lễ thánh Luca Tông
đồ)
21. d) Ngày 21 tháng Mười (Lễ Khánh nhật truyền
giáo).
22.
d) Chỉ có a và b đúng.
23.
a) Chuyên chú đọc và suy ngẫm Tự sắc Cánh
cửa đức Tin (Porta Fidei) của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI.
24.
d) Chỉ có a và b đúng.
25.
a) Dấn thân vào công cuộc tân Phúc âm hóa
qua việc gắn bó mật thiết hơn nữa với Chúa Giêsu, theo đặc sủng riêng của mình
và trung thành với Đức Thánh Cha cũng như với giáo lý đúng đắn.
26. a) Cho niềm tin tươi sáng
27.
a) “Tôi biết tôi tin vào
ai” (2 Tm 1,12).
28.
c) Ngày 13 tháng Ba 2013.
29.
d) Cả a, b và c đúng.
30.
d) Cả a, b và c đúng.
31. d) Cả a, b và c đúng.
32.
a) Như thánh Giacôbê nói: “Đức tin không
có hành động là đức tin chết” (Gc
2,17).
33.
a) Sách Công vụ tông đồ
(Xc Cv 14,27)
34.
a) Sự dấn thân trong một hành trình kéo dài
suốt đời
35.
b) Chúa Giêsu.
36. b) Chúa Kitô.
37.
d) Cả a, b và c đúng.
38.
d) Chỉ có a và b đúng.
39.
a) Con đường để có thể đạt
tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.
40.
a) Ngày 11.10.2012
41. b)Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức
tin Kitô.
42.
c) Hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được
các Nghị Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi
sáng".
43.
d) Cả a, b và c đúng.
44.
d) Chỉ có a và b đúng.
45.
a) Chiếu sáng rạng ngời.
46. d) Chỉ có a và b đúng.
47.
b) Ðấng duy nhất cứu độ thế giới.
48.
c) Chúa Kitô.
49.
c) Loan báo Tin Mừng.
50.
c) Thánh Augustinô.
51. b) Hồng ân đức tin quí giá.
52.
b) Tin Mừng.
53.
c) Kinh Tin Kính.
54.
a) Tuyên xưng đức tin trọn vẹn và với xác
tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng.
55.
b) Thánh Thể.
56. d) Cả a, b và c đúng.
57.
a) Con tim.
58.
d) Chỉ có a và b đúng.
59.
a) Toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa
mạc khải.
60.
c) Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công
Giáo
61. c) Canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.
62.
a) Một cuộc gặp gỡ với Ðấng sống trong Giáo
Hội.
63.
a) Đức tin.
64.
d) Chỉ có a và c đúng.
65.
b) Sự thật.
66. a) Làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng
chứng tá cuộc sống của họ.
67.
a) Hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm
nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Ðấng đến gặp tất cả mọi người.
68.
c) Chúa Giêsu Kitô.
69.
a) Bác ái.
70.
a) Đúng.
71. a) Tôn nhan Chúa phục sinh.
72.
a) Không ai trong chúng ta
trở nên lười biếng trong đức tin.
73.
d) Cả a, b và c đúng.
74.
d) Chỉ có b và c đúng.
75.
c) Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Tông thư dưới hình thức Tự Sắc
Porta fidei
của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
để công bố Năm Đức
Tin
1. "Cánh cửa đức tin"
– Porta fidei (x. Cv 14,27) dẫn vào đời sống hiệp thông với
Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở rộng cho chúng ta. Chúng ta có thể bước
qua ngưỡng cửa đó khi Lời Chúa được loan báo và để cho tâm hồn được ân thánh
biến đổi. Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự dấn thân trong một hành trình
kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu với bí tích Rửa Tội (x. Rm 6,4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên
Chúa là Cha, và kết thúc với sự tiến qua cái chết đi vào sự sống đời đời, thành
quả sự phục sinh của Chúa Giêsu, Đấng đã muốn cho tất cả những người tin nơi
Ngài (x. Ga 17,22) được tham dự cùng
vinh quang của Ngài, nhờ hồng ân của Thánh Linh. Tuyên xưng niềm tin nơi Chúa
Ba Ngôi – Cha và Con và Thánh Linh – cũng có nghĩa là tin nơi một Thiên Chúa
duy nhất là Tình Thương (x. 1 Ga 4,8)
: Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến, khi thời gian viên mãn, để cứu độ chúng ta
; Chúa Giêsu Kitô đã cứu chuộc trần thế trong mầu nhiệm cái chết và sống lại
của Ngài ; Chúa Thánh Linh dẫn đưa Giáo Hội qua dòng thời gian trong khi chờ
đợi Chúa tái lâm trong vinh quang.
2. Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ
như Người Kế Vị Thánh Phêrô, tôi đã nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám phá
hành trình đức tin để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi
được đổi mới nhờ được gặp gỡ Chúa Giêsu. Trong bài giảng Thánh Lễ khai mạc triều
đại Giáo Hoàng, tôi đã nói : "Giáo Hội nói chung và các vị Mục Tử trong
Giáo Hội, giống như Chúa Kitô, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa
mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Đấng ban cho
chúng ta sự sống, sự sống sung mãn".[1]
Nhưng xảy ra là nhiều khi các tín hữu Kitô bận tâm nhiều hơn tới những hậu quả xã
hội, văn hóa và chính trị trong sự dấn thân của họ, họ tiếp tục nghĩ tới đức tin
như một điều giả thiết hiển nhiên của cuộc sống chung. Trong thực tế, giả thiết
ấy không còn hiển nhiên như vậy nữa, nhưng thậm chí nhiều khi còn bị phủ nhận.[2]
Trong quá khứ người ta có thể nhận ra một hệ thống văn hóa nhất thống, được đa số
chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức tin và các giá trị được đức tin gợi hứng,
nhưng ngày nay, trong phần lớn các lãnh vực xã hội không còn như thế nữa, vì có
cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa nơi nhiều người.
3. Chúng ta không thể chấp
nhận để cho muối trở nên nhạt và ánh sáng bị che kín (x. Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm thấy nhu cầu
như người phụ nữ xứ Samaria đến giếng nước để lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi
hãy tin nơi Người và kín múc nơi nguồn mạch của Ngài vọt lên dòng nước sự sống
(x. Ga 4,14). Chúng ta phải tìm lại
sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Giáo Hội trung thành truyền lại, và
bằng Bánh Sự Sống, được trao ban để nâng đỡ các môn đệ của Chúa (x. Ga 6,51). Thực vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu
vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay như trước đây : "Các con hãy cố gắng làm
việc không phải để được lương thực mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi"
(Ga 6,27). Câu hỏi mà những người
nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày này : "Chúng tôi
phải làm gì thể thi hành những công việc của Thiên Chúa ?" (Ga 6,28). Chúng ta biết câu trả lời của
Chúa Giêsu : "Công việc của Thiên Chúa là : Anh em hãy tin nơi Đấng mà Ngài
đã sai đến" (Ga 6,29). Vì thế,
tin nơi Chúa Giêsu Kitô là con đường để có thể đạt tới ơn cứu độ một cách vĩnh
viễn.
4. Dưới ánh sáng tất cả những
điều đó, tôi quyết định ấn định Năm Đức
Tin. Năm này sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng 10 năm 2012, kỷ niệm 50 năm khai
mạc Công đồng chung Vatican 2, và sẽ kết thúc vào lễ Chúa Giêsu-Kitô Vua vũ
trụ, ngày 24 tháng 11 năm 2013. Ngày 11-10-2012 chúng ta cũng kỷ niệm 20 năm Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, được
vị Tiền nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố,[3]
với mục đích trình bày cho tất cả các tín hữu sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin. Văn
kiện này, thành quả đích thực của Công đồng chung Vatican II, đã được Thượng
Hội đồng Giám mục khóa đặc biệt năm 1985 mong ước như một dụng cụ để phục vụ
việc huấn giáo,[4]
và được thực hiện với sự cộng tác của toàn thể hàng Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo.
Và chính THĐGM đã được tôi triệu tập vào tháng 10 năm 2012 về đề tài "Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền
đức tin Kitô". Đó sẽ là một dịp thích hợp để dẫn đưa toàn thể cộng
đoàn Giáo Hội tiến vào một thời điểm để đặc biệt suy tư và tái khám phá đức tin.
Đây không phải lần đầu tiên Giáo Hội được kêu gọi cử hành Năm Đức Tin. Vị Tiền
nhiệm đáng kính của tôi, Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô VI cũng đã ấn định Năm Đức Tin như thế hồi năm 1967, để tưởng
niệm 1.900 năm cuộc tử đạo của thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ khi làm chứng tá
tột đỉnh. Người đã nghĩ đến năm đó như một thời điểm long trọng để trong toàn
thể Giáo Hội có "một sự tuyên xưng cùng đức tin ấy một cách đích thực và
chân thành" ; ngoài ra, Người muốn rằng đức tin được củng cố "cá nhân
và tập thể, tự do và ý thức, trong nội tâm cũng như bên ngoài, khiêm tốn và
chân thành",[5]
Qua đó, Đức Cố Giáo Hoàng đã nghĩ rằng toàn thể Giáo Hội có thể "tái ý thức
chính xác về đức tin của mình, để làm cho đức tin được tái sinh động, thanh
tẩy, củng cố, để tuyên xưng đức tin".[6]
Những đảo lộn lớn xảy ra trong năm Đức Tin ấy, càng làm cho sự cần thiết cử hành
như thế trở nên hiển nhiên hơn. Việc cử hành Năm Đức Tin ấy đã kết thúc với "Bản tuyên xưng Đức Tin của Dân Chúa",[7]
để làm chứng rằng các nội dung thiết yếu từ bao thế kỷ vốn là gia sản của mọi tín
hữu, đang cần được củng cố, hiểu biết và đào sâu một cách ngày càng mới mẻ để
làm chứng tá hợp với cuộc sống trong những hoàn cảnh lịch sử khác với quá khứ.
5. Dưới một số khía cạnh, vị
Tiền Nhiệm đáng kính của tôi đã coi Năm Đức Tin ấy như "một hệ luận và là
một đòi hỏi sau Công đồng",[8]
Ngài ý thức rõ về những khó khăn lớn của thời ấy, nhất là về việc tuyên xưng đức
tin chân thực và giải thích đúng đắn. Tôi cho rằng việc khởi sự Năm Đức Tin trùng
với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II có thể là một cơ hội
thích hợp để hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia
sản, "không bị mất giá trị, cũng như
vẻ tươi sáng". Cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ
và hấp thụ các văn kiện ấy như những văn bản giá trị và có tính chất qui phạm
của Huấn Quyền Hội Thánh, giữa lòng Truyền Thống của Giáo Hội. Hơn bao giờ hết
tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như "hồng ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ XX" :
trong đó chúng ta được một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của
thế kỷ đang mở ra".[9]
Tôi cũng muốn mạnh mẽ lập lại điều tôi đã quả quyết về Công đồng vài tháng sau khi
tôi được bầu kế vị Thánh Phêrô, rằng : "Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công
đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng có thể và trở thành
sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân Giáo Hội ngày càng cần thiết".[10]
6. Sự canh tân Giáo Hội cũng
tiến hành qua chứng tá cuộc sống của các tín hữu, qua chính cuộc sống giữa trần
thế, các tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu để lại cho chúng
ta được chiếu sáng rạng ngời. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lý Lumen gentium, Ánh sáng muôn dân, đã quả
quyết : "Trong khi Chúa Kitô, 'là đấng thánh, vô tội, không tỳ ố" (Dt 7,26) không hề biết tội (x. 2 Cr 5,21), đã đến để đền tội bù tội lỗi
của dân (Dt 2,17), thì Giáo Hội, có cả
những người tội lỗi trong cộng đoàn của mình, và vì thế Giáo Hội vừa thánh thiện
đồng thời cũng luôn cần được thanh tẩy, vẫn liên tục tiến bước trên con đường
thống hối và canh tân. Giáo Hội "tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc
bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa", loan bao cuộc khổ
nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến (x. 1 Cr 11,26). Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực
để kiên trì và yêu thương khắc phục những sầu muộn và khó khăn, đến từ bên trong
cũng như bên ngoài, và để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng thế giới, một cách
trung thực, tuy không hoàn hảo, cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ trong ánh
sáng sung mãn vào cuối thời gian".[11]
Trong viễn tượng đó, Năm Đức Tin là một lời mời gọi thực hiện
một cuộc trở về cùng Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới, một cách chân thực và
mới mẻ. Trong mầu nhiệm sự chết và sống lại, Thiên Chúa đã biểu lộ trọn vẹn Tình
Thương cứu độ và kêu gọi con người hoán cải cuộc sống nhờ ơn tha thứ tội lỗi
(x. Cv 5,31). Đối với thánh Phaolô
Tông Đồ, Tình Thương ấy dẫn con người đến cuộc sống mới : "Nhờ phép rửa,
chúng ta cùng được chôn táng với Chúa trong cái chết, để như Chúa Kitô sống lại
từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, cả chúng ta cũng có thể bước đi trong
sự sống mới" (Rm 6,4). Nhờ đức
tin, sự sống mới này hình thành toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẻ
tuyệt đối của sự sống lại. Tùy theo mức độ tự nguyện sẵn sàng, các tư tưởng và
tình cảm, tâm thức và thái độ của con người dần dần được thanh tẩy và biến đổi,
trên con đường không bao giờ được hoàn tất ở đời này. Đức tin "được năng
động nhờ đức mến" (Gl 5,6) trở
thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống
của con người (x. Rm 12,2 ; Cl 3,9-10 ; Ep 4,20-29 ; 2 Cr 5,17).
7. "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta" (2 Cr 5,14) : chính tình yêu Chúa Kitô làm
đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như
xưa kia, Chúa sai chúng ta ra đi trên các nẻo đường thế giới để công bố Tin Mừng
của Ngài cho mọi dân tộc trên trái đất (x. Mt
28,19). Chúa Giêsu Kitô yêu thương, lôi kéo con người thuộc mọi thế hệ đến với
Ngài : trong mọi thời đại, Ngài triệu tập Giáo Hội, ủy thác cho Giáo Hội việc
loan báo Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày nay cũng
cần có một sự dấn thân xác tín hơn nữa của Giáo Hội, thực hiện công cuộc tái
truyền giảng Tin Mừng để tái khám phá niềm vui đức tin và tìm lại sự hăng say
thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu - vốn là điều
không thể thiếu - kín múc được sức mạnh và năng lực trong sự khám phá hằng ngày
tình yêu của Chúa. Thực vậy, đức tin tăng trưởng khi được sống như một cảm nghiệm
về tình yêu đã nhận lãnh và khi được thông truyền như một kinh nghiệm về ơn
thánh và niềm vui. Đức tin phong phú hóa, vì mở rộng con tim trong niềm hy vọng
và giúp mang lại một chứng tá có khả năng sinh sản : nó mở rộng tâm trí của
những người lắng nghe và đón nhận lời Chúa mời gọi gắn bó với Lời Ngài để trở
thành môn đệ của Ngài. Thánh Augustino làm chứng rằng các tín hữu "trở nên
vững mạnh hơn nhờ tin tưởng".[12]
Thánh Giám Mục thành Hippone đã có lý khi nói như vậy. Như chúng ta biết, cuộc sống
của thánh nhân là một cuộc không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp của đức tin cho đến khi
tâm hồn ngài được nghỉ an trong Thiên Chúa.[13]
Nhiều tác phẩm của Người, trong đó có giải thích tầm quan trọng của đức tin và chân
lý đức tin, cho đến nay vẫn còn là một gia sản phong phú khôn sánh và giúp bao
nhiêu người tìm kiếm Thiên Chúa thấy được hành trình đúng đắn để tiến tới
"cánh cửa đức tin".
Vì vậy, chỉ nhờ tin tưởng mà đức tin tăng
trưởng và vững mạnh ; không có cách khác để đạt tới sự chắc chắn về chính cuộc
sống của mình nếu không liên tục phó thác trong tay của một tình yêu ngày càng
được cảm nghiệm lớn lao hơn vì bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
8. Trong dịp kỷ niệm tốt đẹp
này, tôi muốn mời gọi các anh em Giám mục trên toàn thế giới hãy hiệp với Người
Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng
ta, để tưởng niệm hồng ân đức tin quí giá. Chúng ta hãy cử hành Năm Đức Tin này một cách xứng đáng và phong
phú. Cần gia tăng suy tư về đức tin để giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý
thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất là trong lúc có những thay
đổi sâu xa mà nhân loại đang trải qua như hiện nay. Chúng ta sẽ có dịp tuyên
xưng đức tin nơi Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chính tòa của chúng ta và các
thánh đường trên toàn thế giới ; trong các gia cư và gia đình chúng ta, để mỗi
người mạnh mẽ cảm thấy nhu cầu cần biết rõ hơn về đức tin ngàn đời và thông
truyền cho các thế hệ trẻ. Các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn
thể các tổ chức Giáo Hội cũ cũng như mới, hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng Kinh Tin Kính một cách công khai trong Năm Đức Tin này.
9. Chúng ta mong muốn rằng
Năm Đức Tin khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát
vọng tuyên xưng đức tin trọn vẹn và
với xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ
hội thích hợp để tăng cường việc cử hành
đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Thánh Thể, vốn là "tột đỉnh mà
hoạt động của Giáo Hội hướng tới và đồng thời cũng là nguồn mạch từ đó phát
sinh toàn thể năng lực của Giáo Hội".[14]
Đồng thời, chúng ta mong muốn rằng cuộc sống chứng tá của các tín hữu tăng trưởng trong sự đáng tín nhiệm. Tái khám
phá nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện,[15]
và suy tư về chính hành động đức tin, đó là một sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải
biến thành của mình, nhất là trong Năm Đức Tin này.
Không phải tình cờ mà trong những thế kỷ
đầu tiên, các tín hữu Kitô phải học thuộc lòng Kinh Tin Kính. Kinh này được dùng như kinh nguyện hằng ngày của họ để
không quên quyết tâm đã nhận khi chịu phép rửa. Với những lời xúc tích đầy ý nghĩa,
thánh Augustino nhắc nhở điều đó khi ngài nói trong một bài giảng về việc trao Kinh
Tin Kính : "Kinh Tin Kính về mầu nhiệm thánh mà tất cả anh chị em cùng
nhận lãnh và ngày nay anh chị em từng người đọc lên, là những lời đức tin của
Mẹ Giáo Hội được xây dựng vững chắc trên nền tảng vững bền là Chúa Kitô. Vì
vậy, anh em đã nhận lãnh và đọc Kinh ấy, nhưng trong tâm trí anh chị em phải
luôn giữ cho Kinh ấy hiện diện, anh chị em phải lập lại Kinh này trên giường,
nghĩ đến Kinh này nơi đường phố và đừng quên Kinh này khi ăn ; cả khi anh chị
em ngủ, con tim của anh chị em vẫn phải tỉnh thức trong Kinh này".[16]
10. Đến đây, tôi muốn vạch
ra một hành trình giúp hiểu một cách sâu xa hơn nội dung đức tin, nhưng cùng với
nội dung này còn có hành động qua đó chúng ta quyết định hoàn toàn phó thác cho
Thiên Chúa, trong tự do trọn vẹn. Thực vậy, có sự hiệp nhất sâu xa giữa hành vi
tin tưởng và nội dung đức tin mà chúng ta chấp nhận. Thánh Phaolô Tông đồ giúp
đi vào thực tại này khi ngài viết : "Với con tim... ta tin, và bằng miệng
ta tuyên xưng đức tin" (Rm 10,10).
Con tim chỉ rằng hình vi đầu tiên ta đạt đến đức tin la một hồng ân của Thiên
Chúa và tác động của ơn thánh hành động và biến đổi con người ngay từ nội tâm.
Tấm gương của bà Lidia về vấn đề này hùng
hồn hơn bao giờ hết. Thánh Luca kể lại rằng Thánh Phaolô, trong lúc ở thành
Philiphê, vào ngày thứ bẩy ngài đi rao giảng Tin Mừng cho vài phụ nữ ; trong số
họ có bà Lidia và Chúa "mở lòng cho bà tin lời thánh Phaolô" (Cv 16,14). Ý nghĩa cô đọng trong câu ngày
thực là quan trọng. Thánh Luca dạy rằng việc hiểu biết nội dung đức tin không
đủ nếu con tim - vốn là cung thánh đích thực của con người -, không cởi mở đối
với ơn thánh, giúp ta có đôi mắt để nhìn sâu xa và hiểu rằng điều được loan báo
chính là Lời Chúa.
Rồi việc tuyên xưng ngoài miệng cho
thấy đức tin bao gồm việc làm chứng và dấn thân công khai. Kitô hữu không bao
giờ được nghĩ rằng đức tin là một điều riêng tư. Đức tin là quyết định đứng về
phía Chúa để sống với Ngài. Và thành ngữ "ở với Chúa" giúp hiểu biết
những lý do tại sao ta tin. Chính vì đức tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi
hỏi một trách nhiệm xã hội về những gì ta tin. Giáo Hội, trong ngày lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống, đã chứng tỏ rõ ràng chiều kích công khai ấy của việc tin
tưởng và loan báo không chút sợ hãi về niềm tin của mình cho mỗi người. Đó là
một hồng ân của Chúa Thánh Linh làm cho ta có khả năng thi hành sứ mạng và củng
cố việc làm chứng tá của chúng ta, biến chứng tá ấy thành điều thẳng thắn và
can đảm.
Chính việc tuyên xưng đức tin là một hành
vi bản thân và đồng thời cũng có tính chất cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo Hội
là chủ thể đầu tiên của đức tin. Trong đức tin của cộng đoàn Kitô, mỗi người
lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ hữu hiệu về sự gia nhập cộng đoàn các tín
hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo Lý
của Hội Thánh Công Giáo làm chứng : "Tôi tin" ; là đức tin của Giáo
hội được mỗi tín hữu tuyên xưng cá nhân, nhất là trong lúc chịu phép Rửa tội.
"Chúng tôi tin" là đức tin của Giáo hội được các Giám Mục họp nhau
trong Công đồng, hoặc tổng quát hơn, được cộng đồng phụng vụ các tín hữu tuyên
xưng. "Tôi tin" cũng là Giáo Hội Mẹ chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng
đức tin của mình và dạy chúng ta nói "Tôi tin", "Chúng tôi tin".[17]
Như ta có thể nhận xét, việc hiểu biết
nội dung đức tin là điều thiết yếu để chấp
nhận tin, nghĩa là hoàn toàn gắn bó trong tâm trí với những gì Giáo Hội đề nghị.
Việc hiểu biết đức tin dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc
khải. Vì vậy sự chấp nhận ấy được biểu lộ bao hàm điều này là, khi ta tin, ta
tự nguyện chấp nhận toàn thể mầu nhiệm đức tin, vì vị bảo đảm tính chất xác thực
của điều ta tin là chính Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải và cho phép được biết mầu
nhiệm tình thương của Ngài.[18]
Đàng khác, chúng ta không thể quên rằng
trong bối cảnh văn hóa của chúng ta ngày nay, bao nhiêu người, tuy không nhìn
nhận hồng ân đức tin nơi mình, nhưng họ chân thành tìm kiếm ý nghĩa chung kết
và chân lý chung cục về cuộc sống của họ và về thế giới. Sự tìm kiếm này thực
là một "tiền đề" của đức tin, vì nó thúc đẩy con người trên con đường
dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Thực thế, chính lý trí con người mang trong mình
một đòi hỏi về "điều có giá trị và tồn tại mãi mãi".[19]
Đòi hỏi ấy là một lời mời gọi trường kỳ, được ghi khắc không hề phai mờ trong tâm
hồn con người, kêu gọi con người lên đường để tìm thấy Đấng mà chúng ta sẽ không
tìm kiếm nếu Ngài đã không đến gặp chúng ta.[20]
Chính đức tin mời chúng ta đi tới cuộc gặp gỡ ấy và mở cho chúng ta sự viên
mãn.
11. Để hiểu biết một cách hệ
thống về nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo một trợ lực
quí giá và không thể thiếu được. Sách này là một trong những thành quả quan trọng
nhất của Công Đồng chung Vatican II. Trong Tông Hiến "Fidei depositum" (Kho tàng đức tin), không phải tình cờ được
ký vào ngày kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II, Đức Chân Phước
Gioan Phaolô II đã viết : "Sách Giáo lý nà sẽ mang lại một đóng góp quan
trọng cho công trình canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội… Tôi nhìn nhận Sách
này như một dụng cụ giá trị và hợp pháp phục vụ tình hiệp thông của Giáo Hội và
như một qui luật chắc chắn để giảng dạy đức tin".[21]
Trong viễn tượng đó, Năm Đức Tin phải biểu lộ sự dấn thân chung
tái khám phá và học hỏi nội dung cơ bản của đức tin ở trong Sách Giáo Lý này, trong đó có một tổng hợp
có hệ thống. Thực vậy, ở đây, ta thấy nổi bật sự phong phú của giáo huấn mà Giáo
Hội đã đón nhận, gìn giữ và trao tặng trong hai ngàn năm lịch sử của mình. Từ
Thánh Kinh tới các Giáo Phụ, từ các vị Tôn Sư thần học cho đến các Thánh qua các
thế kỷ, Sách Giáo Lý cống hiến một ký
ức trường kỳ về bao nhiêu cách thức Giáo Hội suy niệm về đức tin và tạo nên sự
tiến triển trong đạo lý để mang lại sự chắc chắn cho các tín hữu trong đời sống
đức tin của họ.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, qua cấu trúc của mình, trình bày sự
phát triển đức tin và đề cập đến cả những đề tài chính của đời sống hằng ngày.
Trang này sang trang khác, chúng ta khám phá thấy rằng điều được trình bày
trong Sách Giáo Lý không phải là một lý thuyết, nhưng là một cuộc gặp gỡ với
Đấng sống trong Giáo Hội. Thực vậy, sau khi tuyên xưng đức tin, Sách này đi đến
phần giải thích đời sống bí tích, trong đó Chúa Kitô hiện diện, hoạt động và
tiếp tục xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nếu không có phụng vụ và các bí tích thì
việc tuyên xưng đức tin sẽ không hiệu quả, vì thiếu ơn thánh nâng đỡ chứng tá
của các tín hữu Kitô. Cũng vậy, giáo huấn của Sách Giáo Lý về đời sống luân lý
có một ý nghĩa quan trọng nếu được đặt trong tương quan với đức tin, phụng vụ
và kinh nguyện.
12. Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng
đỡ đức tin, nhất là những người quan tâm đến việc huấn luyện các tín hữu Kitô,
một điều rất quan trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay. Với mục đích đó, tôi
đã mời gọi Bộ Giáo lý Đức tin, cộng tác với các Cơ quan trung ương khác của Tòa
Thánh, soạn một Văn kiện, để cống hiến
cho Giáo Hội và các tín hữu một số chỉ dẫn để sống Năm Đức Tin này một cách hiệu quả và thích hợp hơn, phục vụ sự tin tưởng
và rao giảng Tin Mừng.
Thực vậy, so với quá khứ, đức tin ngày
nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là
ngày nay não trạng này thu hẹp lãnh vực những điều chắc chắn hợp lý vào lãnh vực
những chinh phục của khoa học và kỹ thuật. Nhưng Giáo Hội không bao giờ sợ chứng
minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai
đều hướng về sự thật, tuy là bằng những con đường khác nhau.[22]
13. Một điều quan trọng
trong Năm Đức Tin là duyệt lại lịch sử
đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện
và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người
nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của
họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành và trường
kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp tất cả mọi người.
Trong thời điểm này, chúng ta hãy luôn
hướng nhìn về Chúa Giêsu Kitô, "là nguồn gốc và là tận điểm của đức
tin" (Dt 12,2) : nơi Ngài mọi sóng
gió và khát vọng của tâm hồn con người được hoàn tất. Niềm vui của tình yêu,
lời đáp trả thảm trạng đau khổ, sức mạnh của tha thứ trước sự xúc phạm phải
chịu, và chiến thắng của sự sống trước cái trống rỗng của sự chết, tất cả đều
tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm nhập thể của Chúa, mầu nhiệm Chúa làm người,
chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng quyền năng sự phục sinh
của Ngài. Trong Ngài, là Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta, những tấm
gương đức tin được tràn đầy ánh sáng, những tấm gương đã ghi dấu hai ngàn năm
lịch sử cứu độ chúng ta.
Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã đón nhận lời thiên
thần và tin nơi lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân phục
tận tụy của Mẹ (x. Lc 1,38). Khi viếng
thăm bà Elisabeth, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Chúa
thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài (x. Lc 1,46-55). Mẹ vui mừng và hồi hộp sinh hạ Con duy nhất, mà vẫn giữ
nguyên sự đồng trinh [...] (x. Lc 2,6-7).
Tín nhiệm nơi Thánh Giuse hôn phu, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con
khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x. Mt 2,13-15).
Với cùng đức tin, Mẹ theo Chúa trong thời gian giảng đạo và ở với Chúa cho đến
tận đồi Golgota (x. Ga 19,25-27). Với
đức tin, Mẹ Maria niếm hưởng những thành quả đầu tiên của cuộc phục sinh của
Chúa Giêsu, và cẩn giữ mọi kỷ niệm trong lòng (x. Lc 2,19.51), Mẹ thông truyền kỷ niệm ấy cho Mười hai Tông Đồ tụ họp
với Mẹ trong Nhà Tiệc Ly để lãnh nhận Thánh Linh.
Nhờ đức tin, các Tông Đồ đã từ bỏ mọi sự
để theo Thầy (x. Mc 10,28). Các vị tin
nơi lời Chúa loan báo Nước Trời hiện diện và thể hiện nơi bản thân Ngài (x. Lc 11,20. Các Tông đồ sống hiệp thông với
Chúa Giêsu Đấng dạy dỗ các vị qua lời giáo huấn, để lại cho các vị qui luật sống
mới mẻ qua đó người ta nhận ra họ là môn đệ của Ngài sau khi Ngài qua đời (x. Ga 13,34-35). Nhờ đức tin, các vị đi các
nơi trên thế giới, theo mệnh lệnh mang Tin Mừng cho mọi thụ tạo (x. Mc 16,15) và không chút sợ hãi, các vị loan
báo cho mọi người niềm vui Phục sinh mà các vị đã chứng kiến.
Nhờ đức tin, các môn đệ họp thành cộng
đoàn đầu tiên, tụ tập quanh giáo huấn của các Tông Đồ, trong kinh nguyện, trong
việc cử hành Thánh Thể, để làm của chung những gì họ sở hữu để cứu giúp những anh
chị em túng thiếu (x. Cv 2,42-47).
Nhờ đức tin, các vị tử đạo hiến mạng sống
của mình để làm chứng về chân lý Phúc Âm đã biến cải và làm cho họ có khả năng
đi tới hồng ân tính yêu lớn nhất với việc tha thứ cho những kẻ bách hại họ.
Nhờ đức tin, những người nam nữ đã dâng
hiến cuộc sống mình cho Chúa Kitô, bỏ mọi sự để sống, trong sự đơn sơ theo tinh
thần Phúc Âm, sự vâng phục, thanh bần và khiết tịnh, những dấu chỉ cụ thể về sự
chờ đợi Chúa sắp đến. Nhờ đức tin bao nhiêu Kitô hữu đã thăng tiến những hoạt
động bênh vực công lý để cụ thể hóa Lời Chúa, Đấng đã đến để loan báo sự giải
thoát khỏi sự áp bức và năm hồng ân cho mọi người (x Lc 4,18-19).
Nhờ đức tin, qua các thế kỷ, những người
nam nữ thuộc mọi lứa tuổi, và tên họ được ghi trong Sách Sự Sống (x. Kh 7,9 ; 13,8), đã tuyên xưng vẻ đẹp của
sự theo Chúa Giêsu tại nơi họ được kêu gọi làm chứng về cuộc sống Kitô của họ :
trong gia đình, nghề nghiệp, trong đời sống công khai, trong việc thi hành các đoàn
sủng và sứ vụ mà họ được kêu gọi thi hành.
Nhờ đức tin, cả chúng ta cũng đang sống
: để nhìn nhận Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong lịch sử.
14. Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác
ái. Thánh Phaolô nhắc nhở : "Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức
cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến (1 Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa,
luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng : "Hỡi anh chị em, nếu một
người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì ? Đức tin ấy có
thể cứu họ được không ? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực
hằng ngày và một người trong anh chị em nói : "Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm
và ăn no" nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì
hỏi có ích gì ? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là
đức tin chết. Trái lại một người có thể nói : "Anh có đức tin và tôi có
việc làm ; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc
làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi" (Gc 2,14-18).
Đức tin không có đức mến thì không mang
lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc
sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện
hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ
những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người
đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi
người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận
ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta.
"Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ
nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy" (Mt 25,40) : những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và
là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta.
Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp
Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được
đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế
giới, trong khi chờ đợi "trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ"
(2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1).
15. Vào cuối đời, thánh Phaolô tông đồ
yêu cầu môn đệ Timôthê hãy "tìm kiếm đức tin" (x. 1 Tm 2,22), với cùng một sự bền chí như hồi
còn nhỏ (x. 2 Tm 3,15). Chúng ta cảm
thấy lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta, để không ai trong chúng
ta trở nên lười biếng trong đức tin. Đức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống,
giúp nhận thức với một cái nhìn luôn mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực
hiện nơi chúng ta. Đức tin nhắm đón nhận những dấu chỉ thời đại trong hiện tại
của lịch sử, và thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sinh động về sự
hiện diện của Đấng Phục Sinh trong thế giới. Điều mà thế giới ngày nay đặc biệt
cần đến, đó là chứng tá đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi sáng
trong tâm trí, có khả năng mở tâm trí của bao nhiêu người mong ước Thiên Chúa
và sự sống chân thực, sự sống không tàn lụi.
"Ước gì Lời Chúa hoàn tất hành trình
của mình và được tôn vinh" (2 Ts
3,1) : ước gì Năm Đức Tin này làm cho
quan hệ với Chúa Kitô ngày càng vững chắc hơn, vì chỉ trong Ngài mới có sự chắc
chắn để hướng nhìn về tương lai và bảo đảm một tình yêu chân thực và lâu bền.
Những lời thánh Phêrô Tông đồ chiếu dọi một tia sáng cuối cùng trên đức tin :
"Vì thế, anh chị em tràn đầy vui mừng, cho dù hiện nay anh chị em còn phải
chịu ưu sầu ít lâu, bị nhiều thử thách, để đức tin của anh chị em được tôi
luyện, quí hơn vàng, vàng là thứ sẽ phải hư nát mà còn được thanh luyện bằng
lửa, mang lại lời ngợi khen, vinh quang và vinh dự cho anh em khi Chúa Giêsu
Kitô tỏ hiện. Tuy không thấy Ngài, nhưng anh chị em vẫn yêu mến Ngài, và tuy
không thấy Ngài, anh chị em vẫn tin nơi Ngài. Vì thế, anh chị em hãy vui mừng
khôn tả và vinh quang, trong khi đạt tới mục đích đức tin của anh chị em là ơn
cứu độ các linh hồn" (1 Pr 1,6-9).
Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm niềm vui và đau khổ. Bao nhiêu vị
thánh đã sống nỗi cô đơn! Bao nhiêu tín hữu, kể cả ngày nay, bị thử thách vì sự
im lặng của Thiên Chúa trong khi họ muốn nghe lời an ủi của Ngài ! Những thử
thách của cuộc sống, trong khi giúp hiểu mầu nhiệm Thập Giá, và tham gia vào
đau khổ của Chúa Kitô (x. Cl 1,24),
là tiền đề báo trước niềm vui và hy vọng mà đức tin dẫn đến : "Khi tôi yếu
đuối, đó là lúc tôi mạnh mẽ" (2 Cr 12,10). Chúng ta mạnh mẽ tin chắc rằng
Chúa Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Với niềm tín thác chắc chắn ấy,
chúng ta tín thác nơi Ngài : Chúa hiện diện giữa chúng ta, chiến thắng quyền
lực của ác thần (x. Lc 11,20) và Giáo
Hội, cộng đồng hữu hình của lòng từ bi Chúa, ở lại trong Chúa như dấu hiệu hòa
giải chung kết với Chúa Cha.
Chúng ta hãy phó thác thời điểm hồng phúc
này cho Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là "người có phúc" vì Mẹ
"đã tin" (Lc 1,45).
Ban
hành tại Roma, nơi Thánh Phêrô, ngày 11 tháng 10 năm 2011, năm thứ 7 triều đại
Giáo Hoàng.
BÊNÊĐICTÔ XVI, Giáo Hoàng
G. Trần Ðức Anh OP chuyển ý từ nguyên bản tiếng Ý (Radio
[1] Bài giảng thánh lễ khởi đầu tác vụ Kế nhiệm Thánh Phêrô của Giám mục
Rôma (24/4/2005).
[2] x. Bênêđictô XVI, Bài giảng thánh
lễ tại Terreiro do Paço, Lisbonne (11/5/2010).
[3] x. Gioan-Phaolô II, Tông hiến Fidei
depositum (11/10/1992).
[4] x. Tường trình kết thúc khóa họp ngoại thường lần thứ hai của THĐGM (7/12/1985),
II, B, a, 4 in Enchiridion Vaticanum, vol. 9, n. 1797.
[5] Phaolô VI, Tông huấn Petrum
et Paulum Apostolos, dịp kỷ niệm 1.900 năm cuộc tử đạo của hai Thánh Tông Đồ
Phêrô và Phaolô (22/02/1967).
[6] Ibid 198.
[7] Phaolô VI, Tuyên xưng đức tin
long trọng, Bài giảng thánh lễ mừng 1.900 năm tử đạo của hai Thánh Phêrô và
Phaolô Tông Đồ, kết thúc Năm Đức tin (30/6/1968).
[8] ID., Triều yết chung
(14/6/1967) : Insegnamenti V (1967), 801 ; DC 64 (1967) col.
1162.
[9] Gioan-Phaolô II, Tông thư Novo
millennio ineunte (6/01/2001), n. 57.
[10] Diễn văn với Giáo triều
(22/12/2005).
[11] Công đồng chung Vat. II, Hiến chế
tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 8.
[12] De utilitate credendi, 1,
2.
[13] x. Augustin d’Hippone, Confessions,
I, 1.
[14] Công đồng chung Vat. II, Hiến chế
về phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 10.
[15] x. Gioan-Phaolô II, Tông hiến Fidei
depositum (11/10/1992).
[16] Sermon 215, 1.
[17] Giáo Lý của Hội Thánh Công
Giáo, n. 167.
[18] x. Công đồng chung Vat. I, Hiến
chế tín lý về đức tin Dei Filius, chap. III : DS 3008-3009 ;
CĐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Mạc Khải Dei Verbum, n. 5.
[19] Bwênêđictô XVI, Discours au
Collège des Bernardins,
[20] x. Augustin d’Hippone, Confessions,
XIII, 1.
[21] Gioan-Phaolô II, Tông hiến Fidei
depositum (11/10/1992).
[22] x. ID., Thông điệp Fides et
ratio (14/9/1998), nn. 34 et 106.