TỰ SẮC “CÁNH CỬA ĐỨC
TIN” VÀ VIỆC CANH TÂN ĐỨC TIN
(gpcantho.com)
I. DẪN NHẬP
Loan báo Năm đức tin là một biến cố
thách thức toàn thể Giáo Hội, kêu gọi liên tục khám phá và canh tân việc tuyên
xưng đức tin trong bối cảnh văn hoá xã hội hiện nay và trước một Kitô giáo bị
tục hoá nặng nề. Trong Tự sắc “Cánh cửa đức tin”, Đức Bênêđictô XVI nhận xét
rằng: “Trong quá khứ người ta có thể nhận ra một hệ thống văn hóa nhất thống,
được đa số chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức tin và các giá trị được đức
tin gợi hứng, nhưng ngày nay, trong phần lớn các lãnh vực xã hội không còn như
thế nữa, vì có cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa nơi nhiều người”[1].
Chính vì thế, với mục tiêu đào sâu những
nền tảng thần học, thiêng liêng và mục vụ của đức tin Công giáo, sau năm Thánh
Phaolô và Năm Linh Mục, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố Năm Đức Tin bắt
đầu từ ngày 11/10/2012 và kết thúc vào ngày 24/11/2013, lễ Kitô Vua. Ngày mở
đầu Năm Đức Tin không phải là một chọn lựa ngẫu nhiên. Ngày 11/12/2012 là ngày
kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II, mời gọi chúng ta tiếp tục đào sâu
và suy tư những văn kiện Công Đồng. Đây cũng là ngày kỷ niệm 20 năm ban hành
sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, một bộ sách trung thành với Công Đồng, nói lên
đức tin của người Công Giáo cách đầy đủ, mạch lạc và rõ ràng nhất. Ngày khai
mạc Năm Đức Tin cũng nằm trong thời gian Thượng Hội Đồng Giám Mục họp về đề
tài: “Tân Phúc Âm hoá” được tổ chức ở Roma từ ngày 7 đến 28/10/2012, là dịp để
những xứ đã được đón nhận Tin Mừng đào sâu đức tin trong một thế giới ngày càng
không biết đến Chúa, một thế giới mà Đức Bênêđictô XVI gọi là «éclipse de
Dieu», “Thiên thực”, nghĩa là Thiên Chúa đã biến mất vì bị che khuất như mặt
trời trong ngày nhật thực hay mặt trăng trong ngày nguyệt thực: “Trong xã hội
hiện nay, chúng ta phải nhìn nhận có một thứ “Thiên thực” nào đấy, một chứng
bệnh mất trí nhớ nào đấy hay hơn thế nữa đó là sự phủ nhận Kitô giáo, sự từ
chối kho tàng đức tin đã lãnh nhận làm cho chúng ta đánh mất những đặc tính sâu
xa nhất của chúng ta”[2].
Trong bối cảnh này, canh tân đức tin là
điều cần thiết. Tuy nhiên, việc canh tân cần phải có một định hướng rõ ràng để
khỏi bị lạc hướng như lịch sử Giáo Hội đã từng cho thấy. Chính vì thế mà Đức
Bênêđictô XVI đã đưa ra một đường hướng rõ ràng: giải thích đúng giáo huấn của
Giáo Hội trong sự nối tiếp với truyền thống.
II. BỐI CẢNH CỦA TIÊU ĐỀ TỰ SẮC: “CÁNH
CỬA ĐỨC TIN” (Cv 14, 27)
“Khi tới nơi, hai ông tập họp Giáo Hội
và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cùng với hai ông, và việc Người đã
mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại như thế nào” (Cv 14, 27)
Hai năm trước, Giáo Hội ở Antiokia đã uỷ
thác cho Thánh Phaolô và Barnaba đi truyền giáo. Mối liên hệ giữa Thánh Phaolô
và Barnaba với Giáo Hội Antiokia khá phức tạp. Trước đây họ được Giáo Hội này
sai đi truyền giáo, nhưng giờ đây họ thi hành quyền lãnh đạo bằng cách tụ tập
mọi người lại để nghe báo cáo (sau khi các ngài đã qua các tỉnh thành xứ
Pisidia, Pamphylia và Perga; cf. Cv 13, 13-14). Lưu ý rằng Thánh Luca dùng từ
Hy Lạp ekklēsia (εκκλησία) để chỉ một Giáo Hội tổng thể, nghĩa là toàn thể Kitô
hữu (cf. 1 Cr 14, 4), chứ không phải một vài cá nhân hoặc vài giáo hội tại gia.
Ở đây nói lên tính thống nhất của Giáo Hội, và cả tính liên đới của các giáo
hội địa phương với nhau vì những Kitô hữu ở Antiokia muốn nghe nói về việc bành
trướng những giáo hội giống như mình ở các nơi khác. Thánh Luca dùng động từ “kể
lại” ở thì chưa hoàn thành (imparfait), điều đó muốn nói lên rằng câu chuyện
của các ngài dài lắm, không thể kể hết chỉ trong một ngày một buổi. Thêm vào
đó, Luca còn nói rằng các ngài thuật lại tất cả những gì đã làm, nghĩa là thuật
lại chi tiết đường đi nước bước để đem Tin Mừng đến với dân ngoại. Và khi mọi
người đã tụ tập lại, các ngài thuật lại không phải công trình của các ngài mà
là những việc Thiên Chúa đã làm qua bàn tay của họ. Đây là lối nói mà các Tông
Đồ thường dùng[3].
Điều Thiên Chúa cùng làm với Thánh
Phaolô và Barnaba được khẳng định trong câu cuối cùng, muốn nói đến sự trở lại
của dân ngoại: Thiên Chúa đã mở cho dân ngoại “cánh cửa đức tin”. Thành ngữ “mở
cửa” có lẽ là một trong những lối nói yêu thích của Thánh Phaolô. Trong các
thư, ít nhất ngài đã sử dụng 3 lần[4]. Qua “cánh cửa” này giờ đây dân ngoại có
thể bước vào ngôi nhà của đức tin và trở nên thành viên của gia đình Thiên
Chúa.
Theo nguyên bản, “Cánh cửa đức tin”
(θύραν πίστεως) là hai danh từ đi liền kề với nhau. Khi phân tích từ ngữ ta mới
có thể thấy hết ý nghĩa thâm sâu của hai từ này bởi vì khi đi cạnh nhau chúng
không đơn giản chỉ có một ý nghĩa. Từ sở hữu (génitif) πίστεως - đức tin - có
thể được hiểu theo nghĩa là đối tượng (cánh cửa dẫn tới đức tin) hoặc chủ thể
(cánh cửa nơi đức tin đi vào). Một cách hiểu thứ ba nữa là “đức tin” là sở hữu
từ chỉ chất liệu, có nghĩa là cánh cửa (đi vào ơn cứu độ) là đức tin. Không cần
phải xác định kiểu dịch nào là chính xác nhất, chỉ cần hiểu rằng ở đây Thánh sử
Luca muốn nói đến điều ngài đã viết ở Cv 11, 18: dân ngoại có thể hoán cải và
được sống. Họ có thể tin và nhờ đó có thể nhận lãnh mọi phúc lành mà đức tin
mang lại, nghĩa là cánh cửa đức tin đã mở ra cho họ, chào đón họ và nhờ đó họ
có thể là người Kitô hữu. Muôn dân có thể vào được Nước Trời (cf. Cv 11, 28;
13, 47-48; 14, 22). Tóm lại, câu: “Người đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại
như thế nào” thật quan trọng vì nó nói lên rằng: (a) Tin Mừng đã được mở ra cho
dân ngoại. (b) Đây là một sứ điệp muốn loan báo rằng một thời mới đã mở ra, con
người được công chính hoá “bởi đức tin” chứ không phải bởi việc làm của Lề Luật
(Do thái giáo). (c) và điều quan trọng là chính Thiên Chúa đã mở ra cánh cửa
đức tin ấy.
III. ĐỨC TIN
1. Sự tìm kiếm đầy thiện chí của những
người không tin
“Đàng khác, chúng ta không thể quên rằng
trong bối cảnh văn hóa của chúng ta ngày nay, bao nhiêu người, tuy không nhìn
nhận hồng ân đức tin nơi mình, nhưng họ chân thành tìm kiếm ý nghĩa chung kết
và chân lý chung cục về cuộc sống của họ và về thế giới”. Sự tìm kiếm này thực
là một “tiền đề” của đức tin, vì nó thúc đẩy con người trên con đường dẫn đến
mầu nhiệm Thiên Chúa. Thực thế, chính lý trí con người mang trong mình một đòi
hỏi về “điều có giá trị và tồn tại mãi mãi”[5]
Đức Bênêđictô XVI luôn đề cao lý trí của
con người trong việc tìm kiếm chân lý. Năm 1999 tại Sorbonne, khi còn là Hồng Y
Joseph Ratzinger, ngài đã giải thích rằng khi các tác giả Kitô giáo thời kỳ đầu
tiên trình bày tôn giáo của mình cho dân ngoại, họ đã sử dụng triết học (ví dụ
Logos của Thánh Gioan), chứ không dùng những thần thoại hay những phạm trù tôn
giáo của các tôn giáo ngoại giáo đó. Tại sao? Tại vì các tôn giáo của người
ngoại giáo dù sao cũng không thoát khỏi tầm suy nghĩ của con người, trong khi
triết học là một cuộc tìm kiếm chân lý gắt gao, vượt lên trên những gì thuần
tuý của con người. Thiên Chúa của mạc khải luôn là một chân lý đỉnh cao và đức
tin Kitô giáo giúp con người đi vào trong cuộc tìm kiếm đó. Thánh Giustinô vào
thế kỷ thứ II đã không ngần ngại gọi Kitô giáo là một triết học chân chính.
Sự vĩ đại của lý trí là tìm kiếm chân
lý. Chân lý chỉ được tìm thấy qua tự do tìm kiếm, trao đổi và đối thoại, trong
bầu khí tôn trọng. Chính Giáo Hội có nhiệm vụ “luôn giữ được cảm tính sống động
với chân lý” và “luôn mời gọi lý trí tìm kiếm cái chân, cái thiện, và Thiên Chúa”[6].
Và “Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân
chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự thật, tuy là bằng những
con đường khác nhau”[7]
Chính vì thế mà Đức Thánh Cha đã có sáng
kiến tổ chức những “Sân Dân Ngoại”[8] để những người thiện chí có thể bước qua
ngưỡng cửa đã rộng mở của đức tin và mở ra những cuộc đối thoại dành cho những
người không tin trên con đường “tìm kiếm điều có giá trị và tồn tại mãi mãi”[9].
2. “Hành trình đức tin”của người tín hữu
Đức tin có hai chiều kích luôn đồng hành
với nhau: chiều kích khách thể (nội dung đức tin) và chiều kích chủ thể (hành
động đức tin). Sự kết hợp giữa hai chiều kích này đã được Đức Bênêđictô nói rõ:
“Có sự hiệp nhất sâu xa giữa hành vi tin tưởng và nội dung đức tin mà chúng ta
chấp nhận”[10]. Và Ngài đã dùng một kiểu nói để diễn tả sự kết hợp này: “Hành
trình đức tin”[11]
Ý nghĩa chính của “đức tin” là nội dung
những điều phải tin, nhưng khi kết hợp với “hành trình” thì nó không còn đơn
thuần để chỉ một nội dung bất di bất dịch nữa mà chuyển sang hành động. Nói đến
“hành trình” là nói đến sự chuyển dịch, rời bỏ một nơi này để tìm đến một nơi
khác. Như thế, hành trình đức tin là hành động của một cá nhân đi tìm hiểu và
yêu mến Đấng là nội dung của đức tin. Và nội dung đức tin này đòi hỏi được
tuyên xưng, được biểu lộ ra bên ngoài bằng những việc làm cụ thể như chính Đức
Bênêđictô XVI nói:. “Chúng ta mong muốn rằng cuộc sống chứng tá của các tín hữu
tăng trưởng trong sự đáng tín nhiệm. Tái khám phá nội dung đức tin được tuyên
xưng, cử hành, sống và cầu nguyện, và suy tư về chính hành động đức tin, đó là
một sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình, nhất là trong Năm Đức
Tin này”[12]. Và “Việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm việc làm
chứng và dấn thân công khai. Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là
một điều riêng tư. Đức tin là quyết định đứng về phía Chúa để sống với Ngài. Và
thành ngữ “ở với Chúa” giúp hiểu biết những lý do tại sao ta tin”[13]
IV. CANH TÂN ĐỨC TIN TRONG SỰ TIẾP NỐI
VỚI TRUYỀN THỐNG
1. Năm Đức Tin 1967 và “Bản tuyên xưng
đức tin của Dân Chúa” năm 1968
Không phải ngẫu nhiên mà trong Tự sắc “Porta
fidei”, Đức Bênêđictô nhắc đến Năm Đức Tin 1967 và “Bản tuyên xưng đức tin của
Dân Chúa” (Credo du Peuple de Dieu) của Đức Phaolô VI ban hành ngày 30 tháng 6
năm 1968. Đây có lẽ một trong những kinh Tin Kính mà chúng ta ít biết đến nhất.
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã công bố “Kinh Tin Kính của Dân Chúa” như là một bản
khác của kinh Tin Kính Nicée thời hậu Công Đồng Vatican II. Bản kinh này tóm
tắt trọn vẹn đức tin Công giáo đáng được quan tâm. Trong Tông thư “Solemni Hac
Liturgia” kèm theo bản kinh Tin Kính, Đức Phaolô VI viết rằng: “Bản kinh cơ bản
lập lại những điều đã có trong kinh Tin Kính Nicée là kinh Tin Kính của truyền
thống bất tử trong Giáo Hội, nhưng có vài thay đổi cho phù hợp theo đòi hỏi
thiêng liêng trong thời đại chúng ta”.
Theo Đức Thánh Cha Phaolô VI, kinh Tin
Kính ra đời là do “có nhiều bất ổn về niềm tin đang khuấy động”, “ảnh hưởng của
một thế giới đang thay đổi sâu xa mà trong đó nhiều điều chắc chắn đang bị phản
bác hay bàn thảo”, “ngay cả người Công giáo cũng bị thao túng do hấp lực muốn
thay đổi và tìm những điều mới mẻ”, và “do có nhiều rối loạn và biến động trong
tâm khảm của nhiều tín hữu”.
Biến động dữ dội nào mà Đức Thánh Cha
Phaolô VI nhắc đến? Thực ra, Ngài thấy bất ổn vì những quan điểm của bộ “Tân
Giáo Lý” (Nieuwe Katechismus) bằng tiếng Hoà Lan xuất bản năm 1966, gọi tắt là
Giáo Lý Hoà Lan, đã được các giám mục Hoà Lan chuẩn y với “imprimatur » của Đức
Hồng Y Alfrink. Đức Phaolô VI quyết định cần phải phản ứng lại và giao cho nhà
thần học và triết học người Pháp là Jacques Maritain soạn bản thảo của kinh Tin
Kính để trả lời tất cả những nghi ngờ của bộ Giáo lý Hoà Lan cũng như của các nhà
thần học về các vấn đề tín lý như tội nguyên tổ, hy tế Thánh lễ, sự hiện diện
thật sự của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, sáng tạo từ hư vô, quyền tối
thượng của Thánh Phêrô, sự đồng trinh của Đức Maria, thụ thai trinh khiết và
Thăng Thiên… Trong phần dẫn nhập, Đức Thánh Cha Phaolô VI viết: “Chúng tôi muốn
bản kinh Tin Kính này hoàn hảo và rõ ràng ở mức độ cao nhất để có thể đáp ứng
cách thích hợp cho nhu cầu tìm kiếm ánh sáng của nhiều tâm hồn tín hữu, của
nhiều người trên khắp thế giới muốn tìm kiếm Chân lý, dầu thuộc gia đình thiêng
liêng nào”.
Một uỷ ban do Đức Phaolô VI lập để đánh
giá bộ Giáo Lý này đã cáo buộc rằng: “Nó muốn thay đổi quan điểm chính thống
trong Giáo Hội, muốn một quan điểm chính thống hiện đại thay vì truyền thống”.
Có đến 20 luận điểm sai lầm trong bộ Giáo Lý có thể được gọi là “lạc giáo”, dầu
rằng đây là một từ đã được xoá bỏ trong từ vựng của Giáo Hội kể từ sau Công
Đồng Vatican II.
Trong số những điều bị phê bình, Giáo Lý
Hoà Lan khẳng định rằng không có những luật luân lý phổ quát áp đặt trên mọi
người, phủ nhận thực tại thiêng liêng và thể lý của việc sinh con mà vẫn còn
đồng trinh. Giáo lý Hoà Lan đề nghị rằng chỉ cần có lương tâm tốt là đủ không
cần 10 điều răn nữa bởi vì: “Luật lệ là nguyên tắc chính xác, không thể dự đoán
tất cả mọi tình huống. Có những trường hợp mà người ta phải làm nhiều hơn hoặc
ít hơn những gì mà luật lệ đòi buộc. Lương tâm, với bản năng biết những gì là
thiện hảo và không thể để mình được hướng dẫn bởi chữ nghĩa của lề luật. Ngay
cả có đôi lúc phải thoát khỏi lề luật để xác định những giá trị luân lý tối
thượng trong vài trường hợp nào đó”.
Không thể phủ nhận thiện chí bộ Giáo Lý
Hoà Lan, muốn trình bày đức tin một cách rõ ràng cho người thời đại mình, nhưng
những gì mà nó trình bày đã đi ra ngoài truyền thống của Giáo Hội.
2. Giải thích đúng (un juste
herméneutique)
Một lần nữa, chủ đề canh tân nội dung
đức tin đã thành sức mạnh trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Bênêđictô XVI khi
nói rằng “các nội dung thiết yếu từ bao thế kỷ vốn là gia sản của mọi tín hữu,
đang cần được củng cố, hiểu biết và đào sâu một cách ngày càng mới mẻ để làm
chứng tá hợp với cuộc sống trong những hoàn cảnh lịch sử khác với quá khứ”[14].
Nhưng không phải bất kỳ sự canh tân nào
mà phải là canh tân trong sự tiếp nối chứ không chia lìa với truyền thống. Ngài
khẳng định ngay sau đó rằng: “Tôi cũng muốn mạnh mẽ lập lại điều tôi đã quả
quyết về Công đồng vài tháng sau khi tôi được bầu kế vị Thánh Phêrô, rằng: ‘Nếu
chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng
ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân Giáo Hội
ngày càng cần thiết’”[15]
Giải thích đúng đắn là gì?
Herméneutique[16] là một nguyên tắc giải thích, nhìn và lượng định một sự việc,
một bản văn như thế nào. Chúng ta phải nhìn Vatican II qua lăng kính đúng. Đức
Thánh Cha cho rằng “lối giải thích gián đoạn và cắt đứt” (herméneutique de la
discontinuité et de la rupture) đã phân chia Giáo Hội thành hai: Giáo Hội tiền
Công Đồng và Giáo Hội hậu Công Đồng. Theo hình mẫu này, Giáo Hội hậu Công Đồng
cho rằng mình nắm giữ được “tinh thần” của Vatican II, duyệt xét lại các giáo
huấn, thực hành và cấu trúc của Giáo Hội để làm cho chúng trở nên thích ứng với
thời đại (modernisme - duy tân thuyết, thần học giải phóng, thần học nữ quyền, gần
đây là phong trào “L'appel à la désobéissance” của các linh mục Áo[17], vv…).
Trái lại một số khuynh hướng khác đã phản ứng lại với việc suy giảm đức tin và
những xáo trộn do áp dụng bừa bãi khuynh hướng trên, đã đi theo hướng ngược lại
là trở về cách trung thành với Giáo Hội tiền Công Đồng (sự kiện nhóm của Đức
Giám Mục Marcel Lefèbvre, hội Piô X của nhóm Duy Truyền thống -
Traditionalisme, vv…).
Cả hai khuynh hướng trên – cấp tiến và
truyền thống – đều giải thích sai lạc. Phái cấp tiến muốn loại bỏ những điều họ
không ưa thích và đưa ra những quan điểm mới mẻ theo ý thức hệ của riêng mình
trong khi phái bảo thủ nhìn việc cắt đứt với quá khứ là một thảm hoạ không mang
lại lợi lộc gì.
Chính vì thế, muốn hiểu Vatican II thì
Đức Giáo Hoàng đòi hỏi chúng ta phải có một lối giải thích đúng, nhìn nhận bản
văn của Công Đồng Vatican II như là những văn bản chuẩn mực trong truyền thống
của Giáo Hội” “Cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp
thụ các văn kiện ấy như những văn bản giá trị và có tính chất qui phạm của Huấn
Quyền Hội Thánh, giữa lòng Truyền Thống của Giáo Hội”[18]. Đây là giải thích
đúng tránh được các khuynh hướng “sáng tạo” và “ngờ vực” khi tiếp cận với Công
Đồng. Ngài mời gọi chúng ta giữ lấy sự nối tiếp cần thiết và các giáo huấn
truyền thống trong Giáo Hội, và đồng thời cũng phải canh tân. Dù sao, Đức Kitô
vẫn luôn là một cho dù là “hôm qua, hôm nay hoặc mãi mãi” (Dt 13, 8) nhưng đồng
thời Ngài cũng tiếp tục “làm mới mọi sự” (Kh 21, 5). Sống đức tin Kitô giáo là
sống mâu thuẫn này.
Sự đối lập này – tiếp nối và đứt đoạn –
đã trở thành chủ đề trong nhiều phát biểu của Đức Bênêđictô XVI và là chìa khoá
để hiểu tư tưởng của Ngài. Chắc hẳn rằng chiều hướng về nguồn trong cải cách
phụng vụ gần đây cũng nằm trong chiều hướng này. Trở về với nghi lễ Trentô, sử
dụng tiếng Latinh, cổ vũ việc rước lễ bằng miệng, rõ ràng là những dấu hiệu mà
Ngài muốn nói rằng không nên từ bỏ Giáo Hội tiền Công Đồng và các kho tàng
phụng vụ của nó vẫn còn có giá trị lớn lao. Ngài cổ vũ một lối giải thích đúng,
là “một lối giải thích canh tân trong sự tiếp nối” (herméneutique de la réforme
dans la continuité), nghĩa là canh tân trong sự tiếp nối với cùng một Giáo Hội
mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. “Giáo Hội là chủ thể tăng trưởng với thời
gian và phát triển, song vẫn luôn là một Giáo Hội, một chủ thể hướng dẫn Dân
Chúa”[19]
V. KẾT LUẬN
Thật ý nghĩa khi trong hành trình đức
tin này, Đức Bênêđictô XVI đã chọn thánh Augustinô, một người có thể nói một
cách đặc biệt thuyết phục với con người ngày nay. Họ là những bản sao của
Augustinô thời trẻ. Đối với chàng trai trẻ Augustinô thì tự do và hạnh phúc
(lạc thú) là những mục đích chính trong đời mà chàng cất công tìm kiếm.
Augustinô tìm kiếm đối tượng cho khát vọng tình yêu của mình nhưng không bao
giờ thoả mãn. Ngài say mê nghiên cứu thơ Virgile, thuật hùng biện của Cicéron,
xem Kinh Thánh là bộ sưu tập những mẫu chuyện phi lý dành cho người mê muội.
Tâm hồn ngài luôn vươn lên để tìm cái chân thiện mỹ. Và như Cha Teilhard de
Chardin đã nói “Tout ce qui monte converge” (Tất cả những gì vươn lên cao thì
hội tụ[20]). Khát vọng truy tìm của ngài đã chạm đến Đức Kitô của đức tin Kitô
giáo. Điểm hẹn trên cao của cuộc hành trình này là đức tin vào Đức Kitô mà
Augustinô đã dành hết phần đời còn lại của mình để làm chứng. “Thánh Augustinô
làm chứng rằng các tín hữu ‘trở nên vững mạnh hơn nhờ tin tưởng’.… cuộc sống
của thánh nhân là một cuộc không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp của đức tin cho đến khi
tâm hồn ngài được nghỉ an trong Thiên Chúa. Nhiều tác phẩm của Người, trong đó
có giải thích tầm quan trọng của đức tin và chân lý đức tin, cho đến nay vẫn
còn là một gia sản phong phú khôn sánh và giúp bao nhiêu người tìm kiếm Thiên
Chúa thấy được hành trình đúng đắn để tiến tới ‘cánh cửa đức tin’”[21]. Cuộc
gặp gỡ với Đức Kitô đã kéo Thánh Augustinô ra khỏi vũng lầy loay hoay của cuộc
tìm kiếm đức tin và dẫn đưa ngài đến nguồn sự sống. Đó cũng là bổn phận của
Giáo Hội ngày hôm nay đối với “những người chân thành tìm kiếm ý nghĩa chung
kết và chân lý chung cục về cuộc sống của họ và về thế giới”.
Tự sắc Cánh Cửa Đức Tin là tấm hải đồ để
điều khiển con thuyền Giáo Hội đi đúng hướng trên “hành trình đức tin”. Tái
khám phá đức tin cho chính mình bằng việc canh tân trong sự nối tiếp với truyền
thống Giáo Hội và Tân Phúc Âm hoá cho người thời đại: đó là nhiệm vụ kép và bất
khả phân ly mà Đức Bênêđictô XVI đề nghị cho chúng ta trong Năm Đức Tin 2012
sắp đến.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Bênêđictô XVI, Cánh
cửa đức tin, số 2.
[2] Bênêđictô XVI, Diễn
văn tại tu viện Saint-Laurent-de-l’Escurial, Tây Ban Nha, 2011.
[3] Xem thêm Cv 3, 12: “
Thánh Phêrô nói: “Thưa đồng bào Israel, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao lại
nhìn chúng tôi chằm chằm, như thể chúng tôi đã làm cho người này đi lại được,
nhờ quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chúng tôi?”; và Cv 15, 4: “Tới
Giêrusalem, các ông được Hội Thánh, các Tông Đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông
kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông”.
[4] Trong 1 Cr 16, 8-9:
“Tôi sẽ ở lại Êphêsô cho đến lễ Ngũ Tuần, bởi vì ở đó cửa đã rộng mở cho tôi”;
2 Cr 2, 12-13: “Khi tôi đến Trôa rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, dù cửa đã mở cho
tôi để làm việc Chúa, nhưng tôi vẫn không yên lòng”; và Cl 4, 3: “xin Thiên
Chúa mở cửa cho chúng tôi rao giảng lời Người”
[5] Bênêđictô XVI, Cánh
cửa đức tin, số 10
[6] Bênêđictô XVI, Diễn
văn tại Đại Học La Sapienza, Roma, ngày 17 tháng Giêng 2008. Cuộc gặp gỡ đã bị
huỷ bỏ vào ngày 15 tháng Giêng 2008
[7] Bênêđictô XVI, Cánh
cửa đức tin, số 12
[8] Theo cấu trúc của
Đền Thờ Giêrusalem, có một gian “cực thánh” dành riêng cho Thiên Chúa. Ngoài ra
còn có những gian dành riêng cho các tư tế, cho dân
[9] Bênêđictô XVI, Diễn
văn tại Collège des Bernardins, Paris (12 tháng Chín 2008)
[10] Bênêđictô XVI,
Cánh cửa đức tin, số 10
[11] Ibid., số 2
[12] Ibid., số 9
[13] Ibid., số 10
[14] Ibid., số 4
[15] Ibid., số 5
[16] «herméneutique»
(tiếng Hy Lạp là hermeneutikè (ερμηνευτική) lấy tên của vị thần Hy Lạp là
Hermès, sứ giả và là người giải thích lệnh của các vị thần) là nguyên tắc đọc,
cắt nghĩa và chú giải bản văn (có người dịch là “Thông diễn luận”). Ban đầu, từ
«herméneutique» và «exégèse» được dùng lẫn lộn. Dần dà, người ta phân biệt:
«exégèse» là chú giải chi tiết một đoạn văn.
[17] Vào khoảng tháng
6/2011, một luồng gió phản kháng đã nổi lên tại Giáo Hội Áo. Phong trào “Kêu
gọi bất tuân phục” do 329 linh mục Áo khởi xướng và cha Helmut Schüller, Tổng
Đại Diện Giáo phận
[18] Bênêđictô XVI,
Cánh cửa đức tin, số 5
[19] Bênêđictô XVI,
Diễn văn với giáo triều Roma, ngày 22 tháng 12 năm 2005.
[20] Lm. Hoàng Xuân
Nghiêm dịch ra tiếng hán Việt là “đăng giả hội”.
[21] Bênêđictô XVI,
Cánh cửa đức tin, số 7
LM. Phaolô Nguyễn Minh Chính