TÓM LƯỢC TÔNG THƯ
CÁNH CỬA ĐỨC TIN.
giaophanphucuong.org
Bài của Đức Cha Hervé
Giraud, Giám mục Soissons, Laon et
Ngày 11/10/2011, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã viết trong Tông thư
Porta Fidei, “Cánh Cửa Đức Tin”, để công bố một Năm Đức Tin, sẽ bắt đầu ngày 11
tháng 10 năm 2012 (50 năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticanô II và 20 năm sau
ngày ban hành Sách Giáo Lý của Hội thánh Công giáo). Năm Đức Tin sẽ kết thúc
vào Lễ Chúa Kitô vua vũ trụ, ngày 24 tháng 11, năm 2013. Đức Giáo hoàng có ý
định nhấn mạnh “sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin”, ân huệ của Công Đồng Vaticanô
II và sự đóng góp quan trọng của Sách Giáo Lý của Hội thánh Công giáo và “Tân
Tin Mừng hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo” (đề tài của Đại hội Thượng Hội
đồng Giám mục vào tháng 10 năm 2012).
Như thế, sau hai Thông điệp của ngài về Đức ái (Caritas in
Veritate, 25.12.2005) và Đức cậy (Spe salvi, 30.11.2007), ở đây Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI đưa ra một bản văn sâu đậm về đức tin.
Tựa đề “Cánh cửa Đức tin” xác định rằng, nhân đức đối thần đầu tiên
không chỉ là một niềm tin đơn thuần, cũng không chỉ là một ân huệ đi theo Phép
rửa, nhưng còn là nguồn mạch cho một hành trình kéo dài suốt đời. Tuyên xưng
đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ mở ra một con đường “làm sáng tỏ ngày sàng
hiển nhiên hơn niềm vui và lòng nhiệt thành mới mẻ của cuộc gặp gỡ với Đức Kitô”.
Trước tiên, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh, những thay đổi văn hóa của
thời đại đỏi hỏi cần ý thức, hoán cải và canh tân đức tin. Chúng ta không thể “nghĩ
đức tin như một điều giả thiết hiển nhiên của cuộc sống chung” nữa. Nếp sống
văn hóa thuần nhất đã không còn hiện diện trong các lĩnh vực quan trọng của xã
hội: “Những nội dung cốt yếu từ nhiều thế kỷ đã là di sản của mọi tín hữu, đang
cần được củng cố, hiểu biết và đào sâu một cách ngày càng mới mẻ, để nêu chứng
tá gắn liền với những điều kiện lịch sử khác nhau của quá khứ (CCĐT, 4).
Như vậy, theo Đức Bênêđíctô XVI, tất cả cần trợ giúp cho mọi cơ chế
Giáo hội suy tư và tái khám phá “việc tuyên xưng đức tin chân thực và giải
thích đúng đắn”. Năm Đức Tin sẽ là dịp để học hỏi các bản văn Công đồng vừa qua
một “cách thích hợp”, bởi đó là “những văn bản giá trị và có tính cách quy phạm
của Huấn Quyền Hội thánh”. Nói cách khác: “Nếu chúng ta đọc và đón nhận, thì
Công đồng ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân
Giáo hội ngày càng cần thiết” (CCĐT, 5).
Theo Đức Bênêđíctô XVI, việc canh tân Giáo hội cũng tiến hành qua
chứng tá đời sống của các tín hữu, nhờ sự hiện diện của họ giữa trần thế, khi
biết rằng “Giáo hội tiến bước trong cuộc lữ hành của mình ngang qua những cuộc
bách hại của trần gian và những an ủi của Thiên Chúa” (LG, 8). Nhưng Đức Giáo
Hoàng cũng biết rằng “những sầu khổ và khó khăn, đến từ bên ngoài cũng như bên
trong” (CCĐT, 6). “Cuộc bách hại Giáo hội lớn lao nhất không đến từ những kẻ
thù bên ngoài, nhưng phát xuất do tội của Giáo hội” (Đức Bênêđíctô XVI,
11/5/2010, tại Lisbonne). Do đó, Giáo hội kêu gọi một cuộc trở về với Chúa,
Đấng cứu độ duy nhất của trần gian, cách mới mẻ.
Trong Tông Thư này, Đức Giáo Hoàng cống hiến một huấn giáo nhỏ về
đức tin: đức tin là gì, đức tin mang lại điều chi, đức tin hoạt động những gì,
nhất là nhờ bác ái: “Nhờ đức tin, sự sống mới này hình thành toàn thể cuộc sống
con người theo tính mới mẻ triệt để của sự sống lại… “Đức tin hoạt động nhờ đức
mến”. (Ga 5,6), trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay
đổi toàn thể cuộc sống của con người” (CCĐT, 6).
Đức Bênêđíctô XVI cũng kêu gọi: Giáo hội cần dấn thân phục vụ công
cuộc Tân Tin mừng hóa cách xác tín hơn, để tái khám phá niềm vui đức tin”. “Đức
tin tăng trưởng khi được sống như một cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh và
khi được thông truyền như một kinh nghiệm về ơn thánh và niềm vui” (CCĐT, 7).
Đức Giáo Hoàng đề nghị cho các anh em Giám mục của mình trên toàn thế
giới hãy tưởng niệm hồng ân đức tin quý giá, đặc biệt khi tuyên xưng đức tin
vào Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chánh tòa của chúng ta, trong các thánh
đường, ngay dưới mái nhà chúng ta, bên những người thân yêu trong gia đình
chúng ta, để mỗi người thông truyền cho các thế hệ mai sau đức tin ngàn đời: “Các
cộng đoàn, dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo hội cũ
cũng như mới, hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng Kinh Tin Kinh một cách công
khai trong Năm Đức Tin này”. Ngài cũng đề xuất một cách ghi nhớ kinh Tin Kính
để đức tin luôn cư ngụ trong tâm hồn chúng ta trong mọi hoàn cảnh.
Trong tư cách một nhà thần học rất nổi tiếng, Đức Giáo Hoàng nhắc
đến sự hiệp nhất sâu sắc giữa nội dung đức tin và hành vi ta tin vào Thiên
Chúa, trong tự do hoàn toàn (CCĐT, 10). Nhưng nếu hành vi đức tin là một ân huệ
của Thiên Chúa, thì ân huệ này không chỉ mang tính cách cá nhân: “Chính việc
tuyên xưng đức tin là một hành vi cá nhân, đồng thời cũng mang tính cộng đoàn”.
Giáo hội dạy chúng ta vừa tuyên xưng: “Tôi tin”, vừa tuyên xưng “Chúng tôi tin”.
Và đó là điều rõ ràng: “Đức tin đòi hỏi một chứng tá và một dấn thân công khai.
Người Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là một việc tin riêng”.
Không loại trừ “những người không nhìn nhận hồng ân đức tin nơi
mình”, Đức Giáo Hoàng ca ngợi những người đang tìm kiếm ý nghĩa và chân lý,
cuộc tìm kiếm này có thể là “một “tiền đề” đích thực của đức tin, bởi nó thúc
đẩy con người trên con đường dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa” (CCĐT, 10). Ở đây,
ta gặp lại trọn vẹn vị thế Đức giáo Hoàng dành cho lý trí: “Lý trí con người
mang trong mình đòi hỏi về điều gì có giá trị và tồn tại mãi mãi” (CCĐT, 10).
Bắt đầu số 11 của Tông Thư, Đức Giáo Hoàng bàn đến tầm quan trọng
của Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, “một trong những thành quả quan trọng
nhất của Công Đồng Vaticanô II”, để mời gọi tái khám phá tổng hợp có hệ thống
và cấu trúc này: tổng hợp nhưng nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống
và cầu nguyện.
Mắt hướng về Đức Giêsu-Kitô là Đấng “khai mở và kiện toàn đức tin”
(Dt 12,2), Đức Giáo Hoàng nhìn lại những gương mẫu đức tin đã ghi dấu hai ngàn
năm lịch sử cứu độ chúng ta. Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã tin vào lời loan báo Mẹ
sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nhờ đức tin, các Tông đồ đã tin vào lời loan báo Nước
Thiên Chúa. Nhờ đức tin các môn đệ hình thành cộng đoàn đầu tiên. Nhờ đức tin,
các vị từ đạo hiến mạng sống mình. Nhờ đức tin, những người nam nữ đã dâng cuộc
sống mình cho Đức Kitô. Nhờ đức tin, nhiều Kitô hữu đã cổ vũ hoạt động bênh vực
công lý để cụ thể hóa Lời Chúa. Nhờ đức tin những người nam nữ thuộc mọi lứa
tuổi đã tuyên xưng vẻ đẹp của việc theo Chúa Giêsu: trong gia đình, nghề
nghiệp, trong đời sống công khai, trong việc thi hành các đoàn sủng và thừa tác
vụ mà họ được mời gọi đảm trách.
Để kết thúc, Đức Giáo Hoàng liên kết lại Đức tin và Đức mến, bằng
cách trích lời thánh Phaolô: “Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều
tồn tại, nhưng cao trọng hơn là đức mến” (1Cr 13,13); và lời của thánh Giacôbê:
“Cũng vậy, đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Mối
liên kết thật là cốt yếu: “Đức tin không đức mến thì không mang lại thành quả,
và đức mến không có đức tin thì sẽ là
một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và Đức mến cần có nhau, đức
này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình… Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa
Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người
thân cận của chúng ta trên đường đời” (CCĐT, 14)
Ngày 24.9.2011, tại