ĐỨC TIN VÀ
BÍ TÍCH
(giaolyductin.net)
Cách
đây ít tháng, tôi ghé thăm một linh mục bạn. Anh ta đang gặp chuyện buồn. Một
học sinh giáo lý lớp Thêm Sức, mới mười bốn tuổi, vừa đâm chết một học sinh
cùng trường. Sau khi kể cho tôi nghe chuyện buồn ấy, anh lắc đầu nói: “Người ta
có giáo lý mà không có đức tin; có bí tích mà không gặp gỡ Thiên Chúa; dâng lễ
mà không dâng mình; có đạo mà không có Chúa”. Lời ấy của anh cứ ám ảnh tôi mãi.
Đức tin là gì? Các bí tích là gì? Đức tin và các bí tích có liên hệ gì
với nhau chăng?
1. Tin là gì?
Mọi
người đều tin và mọi người đều không tin.
Những
gì ta đã thấy thì không cần phải tin nữa, nhưng ngoài những điều ta thấy, còn
biết bao những điều ta không thể thấy được, nhưng lại vẫn cứ tin: tin vào khoa
học, vào báo chí, vào tiền bạc, vào vợ chồng, con cái, bạn bè… không tin thì
không thể sống được[1].
Lòng
tin nơi con người thường bắt nguồn từ một kinh nghiệm nào đó của quá khứ hoặc
hiện tại: tôi dám ăn ổ bánh mì này vì tôi biết rằng người bán bánh không đầu
độc tôi.… Lòng tin vào Thiên Chúa cũng thế, dựa vào kinh nghiệm bản thân, người
tin quả quyết rằng có Thiên Chúa, người vô thần cũng dựa vào kinh nghiệm bản
thân lại tuyên bố là không có Thiên Chúa. Những kẻ càng hô hoán rằng họ không
tin gì cả, lại là những kẻ tin tưởng nhiều hơn cả. Mà không tin thì không thể
sống được, nên đời họ luôn bất an, khổ sở. Còn những kẻ tin thì lại thiếu đức
tin đến độ không dám nhận mình là người tin. Thiên Chúa vẫn để kẻ không tin vùi
đầu trong giấc ngủ và vẫn khẽ gọi để không ép kẻ tin phải tin[2].
2. Kinh nghiệm và lòng tin
Người
tin và người không tin đều có chung những kinh nghiệm sau.
2.1.
Kinh nghiệm về chính mình: “Tôi có, tôi sống, tôi thấy khỏe…” Đó là một
trực giác, một lãnh vực nội tâm rất khó chuyển thông cho người khác, khoa học
không thể kiểm soát được nhưng lại là một kinh nghiệm, một lĩnh vực xác thực và
chắc chắn nhất.
2.2.
Kinh nghiệm về các vật khác: ngay từ thời còn nhỏ con người đã có kinh nghiệm
về các vật khác, khám phá ra chúng nhờ miệng, tay, các giác quan rồi được hoàn
thiện bằng các thử nghiệm khoa học. Đây là một lĩnh vực duy nhất khoa học có
thể kiểm soát được.
2.3.
Kinh nghiệm về những người khác: đây là một kinh nghiệm phức tạp nhất trong đời
sống con người. Kinh nghiệm này tạo nên trong lòng người một sự tin cậy, yêu
thương nhưng cũng gợi lên những đắng cay, chua chát. Càng yêu và được yêu
nhiều, con người càng thấy cuộc đời đáng sống. Nhưng tình yêu nhân loại dường
như vẫn luôn gặp phải những giới hạn, thử thách, những mỏng dòn, đổ vỡ từ mọi
phía. Chính vì thế, nơi thâm sâu lòng mình dù tín ngưỡng hay vô tín, con người
vẫn luôn khao khát, luôn hướng về một sự bền vững, chắc thực cho lòng tin của
mình[3].
3. Đức tin là gì?
Con
người đói khát Thiên Chúa, vì Thiên Chúa vẫn hiện diện nơi họ nhưng nếu Thiên
Chúa đã không tỏ mình ra, thì chẳng có ai đến được với Người.
3.1.
Mặc khải và đức tin
Mặc
khải là Lời Thiên Chúa nói với loài người, để tự giới thiệu cho họ. Thiên Chúa
là bản vị mà mọi bản vị đều là mầu nhiệm, không có mặc khải thì sẽ không hiểu
được mầu nhiệm. Rất may! Thiên Chúa là bản vị nhưng Người cũng còn là tình yêu,
không một tình yêu nào mà không có mặc khải. Người đã mặc khải mình qua tạo
thành, qua sự hiện diện lâu dài đầy âu yếm của Người nơi lịch sử Do Thái giáo
và Kitô giáo, và nhất là Người đã mặc khải cách tròn đầy nhất nơi Đức Giêsu.
Nơi Người, ta thấy được Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, đang ở giữa ta, đang
yêu thương đến chết vì ta. Chính vì thế, tin vào Thiên Chúa cũng có nghĩa là
tin rằng Thiên Chúa là Đấng đã nói, đã tự mặc khải mình ra, là tin vào những gì
Người nói về gia đình Ba Ngôi, về dự định tình thương của Người đối với ta, về
ơn cứu độ Người đang kéo ta vào, về cuộc Hôn nhân Người đang mời ta cùng Người
thực hiện[4].
Để
có thể tin vào ai, ta phải biết chắc rằng người ấy thương mến ta và ta cũng ít
nhiều thương mến người ấy. Muốn biết Thiên Chúa yêu ta đến mức nào thì hãy mở
Kinh Thánh ra, trong đó Thiên Chúa và con người, con người và Thiên Chúa đang
kể lại những hành vi yêu thương và cứu độ của Người[5].
3.
2. Đức tin trong Kinh Thánh
Kinh
Thánh cho thấy đức tin như một đáp trả đầy đủ việc Thiên Chúa mặc khải chính
mình và thông chia sự sống Người cho ta. Đức tin chính là việc vui mừng đón
nhận Đấng là sự thật và là tình yêu trong lòng biết ơn. Đây chính là đức tin
sinh hoa kết quả trong tình yêu[6].
3.
2.1. Việc tạo dựng con người của Thiên Chúa
Khi
tạo dựng con người theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, Thiên Chúa đã
tự do quyết định gọi mỗi người bằng một tên gọi độc nhất vô nhị và
gọi tất cả mọi người trong Ngôi Lời của Người. Đó chính là việc Thiên Chúa tự
do chia sẻ hữu thể, sự sống, sự thật, khả năng đón nhận và đáp trả tình yêu.
Nhưng ta chỉ có thể đến được với sự sung mãn của hữu thể ta khi chấp nhận lời
Người, đón nhận lời ấy hơn hết tất cả mọi sự với lòng biết ơn, và đáp trả
bằng trọn vẹn con người của ta[7].
3.
2.2. Đức Kitô và công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa
Việc
Thiên Chúa tự mặc khải và trao ban chính mình đạt đến tầm vóc viên mãn nơi Đức
Kitô. “Sau hết vào những ngày này Thiên Chúa đã nói với ta bằng chính Con Một
Người” (Dt 1, 2). Trong và nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha đã đoái nhìn đến ta bằng
tất cả vinh quang và tình yêu của Người. Và đây chính là sự thật đối với chúng
ta: trong và nhờ Đức Kitô nhân loại có thể tôn vinh và làm đẹp lòng Thiên Chúa
cách xứng đáng với phẩm giá siêu việt của mình. Trong Đức Kitô ta được cứu độ,
và nhờ đức tin ta tham dự vào sự sống của Người. “Ai có Chúa Con thì có sự
sống. Ai không có Chúa Con thì không có sự sống” (1 Ga 5, 12)[8].
Như
thế, nhờ Đức Kitô, Ngôi Lời đã thành xác phàm, con người tiến đến cùng Chúa Cha
trong Chúa Thánh Thần và dần dần có thể tham dự vào bản tính Thiên Chúa (Xem Ep
2, 18; 2 Pr 1, 4). Đó chính là hiệu quả của đức tin
3.3.
Hiệu quả của đức tin
Đức
tin không chỉ cho ta cảm nghiệm được Thiên Chúa mà còn làm cho ta nên con Thiên
Chúa, nên anh em với nhau và tham dự vào sự sống Thiên Chúa.
Theo
thánh Gioan thì nếu bảo rằng đức tin cần thiết cho ơn cứu độ thì vẫn còn quá
ít. Vì đối với ngài, không có đức tin sẽ không có sự sống thật, và đức tin đã
là khởi đầu của cuộc sống vĩnh cửu rồi. Đức tin cho ta quyền được làm con Thiên
Chúa (Ga 1, 12; 3,5; 7, 16; 6, 47; 11, 25; 1 Ga 2, 24)[9].
Nếu
ta hợp nhất với Đức Kitô nhờ tin vào danh Người, thì lời cầu nguyện và các hành
động của ta sẽ đạt đến tận cõi lòng của Chúa Cha: “Mọi việc anh em làm, mọi lời
anh em nói, hãy làm vì danh Chúa Giêsu, nhờ Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa Cha” (Col
3, 17). Đó là điều ta có thể làm được nhờ Thần Khí Tình yêu và cũng là Thần Khí
Sự Thật. Thần Khí ấy cho ta một kinh nghiệm đức tin sâu xa hơn khiến ta có thể
bước vào trong một tương quan đầy tin tưởng với Thiên Chúa. “Anh em đã được tẩy
rửa, được thánh hoá, được nên công chính hoá nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ
Thánh Thần của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6, 11). Thần Khí, Đấng Chúa đã sai
đến với ta từ nơi Cha, kêu lên trong lòng ta: “Abba, Cha ơi!” (Gal 4, 5). Như
thế, cuộc sống của ta được hợp nhất trong Đức Kitô Giêsu, nhờ đức tin và như
thế cũng được đưa vào trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi[10].
Trong
lòng tin Kitô giáo, thì Đức Kitô chính là trung gian của việc con người gặp gỡ
Thiên Chúa, vì chính nhờ tin vào Đức Kitô mà “mọi cảm thức về Thiên Chúa mà
cuộc sống con người không khi nào đánh mất, trở thành trong suốt, thành mặc
khải lòng nhân từ và phán quyết của Thiên Chúa”[11].
Những
ai đã được hoà giải trong Đức Kitô, thậm chí phải chịu đau khổ, có thể đáp trả
bằng một đức tin thờ phượng, đồng thời cũng là một đức tin sống động trong tình
liên đới cứu độ. “Giờ đây tôi vui mừng chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan
thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi
ích của thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1, 24)[12].
Trong
Đức Kitô ta được hoà giải với Thiên Chúa và với nhau. Tất cả chúng ta chỉ là
một thân thể, là những chi thể của nhau (Ep 4, 25). Nhờ đức tin, tình yêu của
Chúa Giêsu Kitô có thể lan toả nơi ta cả trong sự căm ghét của kẻ thù. Và sự
giải thoát này chính là kết quả của đức tin và của việc thể hiện đức tin của
ta. “Nếu kẻ thù anh em đói, hãy cho nó ăn, nó khát hãy cho nó uống, khi anh em
làm như thế là anh em đã chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng
được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12, 20- 21)[13].
Như
thế, đức tin trở nên một sự thống nhất đời sống ta trong tình bằng hữu với
Thiên Chúa và trong cộng đoàn của tình yêu thương huynh đệ và công chính. Vậy
đức tin là gì?
3.
4. Định nghĩa đức tin
Đức
tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Nên nơi nào không có một lòng biết ơn
sống động, nơi đó sẽ không còn ơn đức tin này[14].
Đức
tin, hiểu theo nghĩa Kinh Thánh, là một hành vi và thái độ của con tim, là một
quyết định của tinh thần trong cõi thẳm sâu nhất, nơi việc tự biết mình và tự
do yêu thương hợp nhất với nhau trong một sự thống nhất độc đáo của mọi quan
năng của ta, của lý trí, ý chí, ký ức và tình cảm của ta[15].
Thánh
Gioan cho ta thấy sự hiểu biết đức tin chính là việc nắm bắt được sự hiện hữu
đầy yêu thương: “Sự sống đời đời tức là chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc
nhất và chân thật, và Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (1 Ga 17, 3). Đức
tin của thánh Gioan không xuất phát từ việc nghiên cứu triết học nhưng từ việc
gặp gỡ Đức Kitô, Đấng kêu gọi và cho phép thánh nhân sống trong sự tình thân
với Người, cho ngài quyền được làm con Thiên Chúa (Ga 1, 12; 3,5; 7, 16; 6, 47;
11, 25; 1 Ga 2, 24)[16].
Đối
với các tông đồ, đức tin có một nội dung: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đã chết,
đã sống lại cho ta, và đã sai Chúa Thánh Thần đến với ta.
Thánh
Phaolô đã đồng hoá đức tin với việc vâng phục đức tin, nghĩa là, một sự đón
nhận Tin Mừng trọn vẹn và tự do ôm lấy nhiệm cục cứu độ trong Đức Kitô Giêsu
(Rm 1,5; 10, 16; 2 Cr 9, 13). Trong đức tin, các tín hữu từ bỏ vinh quang của
con người và hiến mình cho vinh quang Thiên Chúa, và ngày càng mong ước được
hiểu biết Chúa hơn[17].
Đức
tin theo ý nghĩa trọn vẹn nhất chính là một hành vi quan trọng nhất của lương
tâm, là chọn lựa căn bản triệt để nhất, là việc tự hiến trọn vẹn cho Đức Kitô,
Đấng mặc khải chân lý. Đức Kitô, Đấng đã mặc khải chính mình là tình yêu, đã
hiến toàn thân cho ta, không thể chấp nhận một đức tin không phải là một sự
toàn hiến cho Người, và nhờ Người, toàn hiến cho Cha và cho anh chị em của
Người[18].
“Tin
vào Đức Kitô là chấp nhận chính mình trong sự hiểu biết rằng chính Thiên Chúa
đã chấp nhận mình trong hy lễ của Đức Kitô” [19].
Trong
đức tin, ta mong chờ và chấp nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa, sẵn sàng trao hết
mọi sự cho Đấng đã mặc khải cho ta chiều sâu và chiều cao của tình yêu của
Người. Như thế, đức tin là việc vui mừng đón nhận với lòng biết ơn Đấng là sự
Thật cứu độ, là Tình yêu tuyệt đối, và cũng là Đấng đang mời gọi ta, để trở nên
sự sống trọn vẹn của ta.
Tóm
lại, đức tin không phải là một mớ “những điều phải tin” nhưng là một
tương quan sống động và đích thân giữa con người với Thiên Chúa và với Đức
Kitô. Chính họ đã cảm nghiệm được tình Người mặn nồng tha thiết như tình của
một người mẹ “đưa tay ẵm lấy con thơ, nâng niu nó trên đầu gối” (Is 66, 12). Đó
mới là Tin Mừng, một Tin Mừng phải được loan báo cho con người hôm nay. Cái mà
ta gọi là “những điều phải tin” trước hết là một kinh nghiệm, kinh nghiệm về
cuộc gặp gỡ đích thân của ta với Thiên Chúa[20], kinh
nghiệm về một mối tình Người đã trao tặng cho ta. Mối tình ấy đã khởi sự từ
thời Abraham, mỗi ngày lại được phong phú, mặn nồng hơn và đã trở nên thành
toàn trong Đức Kitô Nhập Thể và Vượt Qua. Nhờ Người, với Người và trong Người,
toàn nhân loại đã được kết duyên với Đấng là tình yêu không hề vơi cạn.
Bởi thế, bao lâu còn nhân loại, bấy lâu mối tình ấy vẫn còn trào tràn, vô tận[21].
Thiên
Chúa luôn muốn ta biết Người như một người đang sống, biết để thiết lập
một tương quan, để yêu và cùng Người thiết lập một khế ước hôn nhân. Vì thế,
mọi học hỏi về đức tin sẽ vô ích nếu việc học hỏi đó không làm cho ta nhận ra
một Ai đó đang có mặt trong đời ta, đang đồng hành với ta, đang chung chia với
ta tất cả những vui buồn trong cuộc hiện sinh của ta. Không chỉ có thế mà còn
hơn thế nữa, Người vẫn đang hướng dẫn ta về nơi hạnh phúc đích thực là chính sự
sống, sự tự do và tình yêu của Người[22]. Vì thế, tin
vào Đức Kitô đòi ta cũng phải sống như Người đã sống.
3.
5. Đòi hỏi của đức tin
Các
Kitô hữu ý thức rằng, đức tin vào Thiên Chúa của mình không chỉ là việc gật đầu
với kinh tin kính[23], mà còn là một lời tuyên chiến
chống lại tất cả những gì không phải là Thiên Chúa, không có trong Thiên Chúa,
không thuộc về Thiên Chúa. Hơn nữa, đức tin ấy còn đòi họ phải trở nên đồng
hình, đồng dạng với Đấng vì họ, đã chấp nhận chết trên thập giá.
Hơn
bao giờ hết, con người hôm nay đang để mình trở nên bị lệ thuộc hoàn toàn đến
độ trở thành tín đồ của giới tính, quyền lực và tiền bạc. Tin vào Thiên Chúa
đòi ta phải từ khước liên minh với cả ba thứ ấy. Đó là chọn lựa sống còn của
ta: “Hoặc tôn thờ Thiên Chúa hoặc tôn thờ tiền bạc” (x. Mt 6, 24). Lời
tuyên tín trên môi của các tín hữu là lời tuyên chiến chống lại quyền lực hiện
hành, sự tiêu thụ, tiện nghi, tiền bạc và khoái lạc bất chính[24].
3.5.1.
Từ khước liên minh với thế gian: Vào thời đế quốc Rôma, người công dân phải tôn
thờ Hoàng Đế như một vị thần. Các tín hữu của Đức Kitô đã không chấp nhận sự
tôn thờ ấy. Họ đã bị coi là những người “vô thần” và đã phải trả giá bằng chính
sinh mạng mình để trung thành với lòng tin vào vị Thiên Chúa độc nhất. Vì thế,
lòng tin vào Thiên Chúa không phải là một trò chơi của trí óc và môi miệng mà
là sự dấn thân thực sự vào cuộc đấu tranh cho tự do của cá nhân và tập thể, thứ
tự do mà Thiên Chúa đã dùng quyền năng Người mà giựt thoát họ khỏi cảnh nô lệ
Ai cập (Xh 20) và hôm nay khỏi mọi thứ ràng buộc và nô lệ cho quyền lực, tình
dục và tiền bạc. Cuộc đấu tranh sống còn này không cho phép ta thoả hiệp vì
thoả hiệp nghĩa là tự cho phép mình đưa vào trong quĩ đạo của Thiên Chúa những
thần linh giả tạo, là tự biến con người mình thành một thứ đền thờ đa thần của
Đế quốc Rôma xưa[25].
3.5.2.
Mọi quyền lực phải phục vụ con người: Tin vào Thiên Chúa là quyết liệt từ chối
mọi thứ quyền lực kể cả quyền lực tôn giáo. Lòng tin vào Thiên Chúa sẽ bẻ gãy mọi
tham vọng chính trị độc đoán. Vì chỉ có con người mới thực sự tuyệt đối nhờ
tương quan đích thân của mình với Thiên Chúa, còn mọi thứ khác: các tổ chức
chính trị, xã hội, tôn giáo, sẽ chỉ là những phương tiện, những công cụ để phục
vụ con người. Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối mà mọi quyền lực đều phải qui về.
Nhờ tương quan với Người, con người cũng trở nên tuyệt đối. Nên mọi quyền lực
đều ở dưới quyền con người. Nếu các tín hữu đã không tôn thờ Hitler cách mù
quáng thì đã không xảy ra thế chiến thứ hai. Ru ngủ kinh tin kính của mình sẽ
mang lại những hậu quả vô cùng tai hại[26].
3.5.3.
Khước từ mọi khoái lạc bất chính: Tình dục cũng là một thứ thần linh giả tạo.
Để tình yêu giữa hai người nam nữ có tính duy nhất, vĩnh viễn và không bị chia
sẻ họ phải qui chiếu tình yêu ấy về nguồn mạch của nó là chính Thiên Chúa.
Ngoài Người ra, tình yêu sẽ chỉ còn là một thị hiếu nhất thời của dục vọng, sẽ
đẩy con người vào những xu hướng nhục dục thuần tuý, và những hậu quả bi thảm
của xu hướng ấy[27], sẽ làm cho họ trở thành những tín
đồ luôn bị dằn vặt của thần khoái lạc. Nên ở đây, tin vào Thiên Chúa, đòi ta
phải hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi dục tình[28].
3.5.4.
Khước từ tiền bạc, tiện nghi: Khi đã xa lánh Thiên Chúa của kinh tin kính, con
người sẽ dìm mình vào tiện nghi và hưởng thụ, sẽ tế lễ cho cơm bánh và những
đòi hỏi của bản năng. Khuôn cửa hẹp dẫn đến Thiên Chúa không thể nới rộng ra
cho những người có quá nhiều hành trang, nên đòi ta hoặc tin vào Thiên Chúa
hoặc tin vào những hành trang ấy. Không có sự chọn lựa này, lời tuyên tín của
các tông đồ chỉ là một mẩu văn chương xưa cũ[29].
Kẻ
phản bội Thiên Chúa hơn cả đương nhiên vẫn là tiền bạc. Đó là “con bò vàng” khi
xưa trong dân Israel, là kẻ “toàn năng” có thể mua được tất cả trừ vị Thiên
Chúa độc nhất. Thiên Chúa và tiền bạc là hai người chủ, mến người này tất sẽ
ghét người kia (Mt 6,24)[30].
3.5.5.
Hiến mình cho Thiên Chúa và đồng loại: Hơn thế nữa, quan tâm hàng đầu của các
Kitô hữu bao giờ cũng là mầu nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm nhờ đó Đức Kitô đã
đóng ấn giao ước vĩnh cửu bằng chính máu Người, và Chúa Cha cũng đã niêm ấn
bằng quyền năng phục sinh của Người. Ai tin rằng Thiên Chúa đã hiến mình cho
dân Người như thế mà lại không đáp trả bằng việc dâng hiến chính mình, thì vẫn
chưa có được một đức tin đích thật, đem lại ơn cứu độ.
Tóm
lại, đức tin là một ơn nhưng không, Thiên Chúa ban cho con người, để họ gặp gỡ
Người, đi vào trong cuộc hôn nhân Người đang mời họ thực hiện. Đức tin là một
kinh nghiệm sống, một kinh nghiệm làm thay đổi chất lượng sống của con người[31]. Nhờ đức tin này và dựa trên đức tin này, mà Hội
Thánh gặp gỡ, đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa nhờ các bí tích.
II. CÁC BÍ TÍCH
1. Kinh nghiệm:
Mọi
sự đều bắt đầu bằng một kinh nghiệm.
Các
môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu lúc đầu không quan tâm gì tới nghi lễ mà chỉ
muốn truyền lại kinh nghiệm của họ về Người. Và kinh nghiệm ấy bao giờ cũng là
câu chuyện về việc Chúa Giêsu đã tỏa sáng trên họ ra sao, Người đã nên bình
minh xua tan bóng tối đêm đen của họ thế nào[32].
Để
mừng kinh nghiệm ấy, các ngài đã tận dụng những nghi lễ tương tự. Các
nghi lễ cũ khi được dùng để cử hành một kinh nghiệm sống sâu sắc, sẽ mặc lấy
một ý nghĩa mới[33].
Ví
dụ: Lễ Vượt Qua, biến chuyển từ một nghi lễ của dân du mục được cử hành vào mùa
xuân, thành một nghi lễ cử hành việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ
và ký kết giao ước với họ. Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa của lễ Vượt Qua Do
Thái thành một cuộc vượt qua thế gian đi vào trong Thiên Chúa[34].
Các
môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu cũng làm như thế. Phép rửa bằng nước là một nghi
lễ đã có từ lâu, mọi người đều biết, có sẵn trong tầm tay. Các môn đệ Chúa
Giêsu nắm ngay lấy nghi lễ ấy để diễn tả việc họ được đi vào trong mầu nhiệm
Chúa Giêsu, diễn tả ý nghĩa của một khởi đầu mới, một sự mở ngỏ mới cho Thánh
Thần, Đấng đang hoạt động giữa họ.
Ở
đâu không có một kinh nghiệm chung nào để mừng thì thật khó, nếu không muốn nói
rằng không thể mừng được. Các bí tích xuất phát từ kinh nghiệm chung của cuộc
sống. Đó là những biểu tượng, làm cho “thành hiện tại” những gì chúng biểu thị.
Nhờ các bí tích ấy, ta “gặp được Thiên Chúa”. Như thế, bí tích không phải là
những sáng tác tùy tiện của Hội Thánh[35].
Chẳng
ai rời khỏi các buổi mừng lễ ấy mà lại không ý thức hơn mình là ai. Những cuộc
mừng lễ bao giờ cũng nhấc ta lên cao, rồi trả ta về lại với cuộc sống hằng ngày
với một cái nhìn mới[36].
Kinh
nghiệm sống, kể chuyện và mừng lễ là ba yếu tố quan trọng của mọi nghi
lễ.
2. Kinh nghiệm sống:
Một
kinh nghiệm hay một hoạt động nào đó bắt đầu trở thành một kinh nghiệm sống,
khi kinh nghiệm hoặc hoạt động ấy bắt đầu mang một ý nghĩa, hay khi người ta ý
thức rằng kinh nghiệm ấy đụng đến chất lượng của đời mình[37].
Nói cách khác, kinh nghiệm sống chính là kinh nghiệm bình thường nhưng
lại mang một ý nghĩa, mà còn hơn thế nữa, ý nghĩa ấy có liên quan tới bản thân
tôi[38]. Một tai nạn xe khủng khiếp tôi vừa chứng kiến,
một lễ phong chức trọng thể tôi vừa tham dự. Đó là những chuyện khách quan có ý
nghĩa, nhưng lại không dính dự gì tới đời tôi. Nhưng nếu khi nghĩ đến những
chuyện ấy, tôi thấy được sự mong manh của thân phận con người, và sự cao đẹp
của một đời theo Chúa, thì kinh nghiệm ấy bắt đầu trở thành một kinh nghiệm
sống. Nên suy gẫm là điều cốt yếu nhất để biến một kinh nghiệm bình thường
thành kinh nghiệm sống[39].
Không
kinh nghiệm sống sâu sắc nào, bất chấp đó là kinh nghiệm về hạnh phúc hay đau
khổ, giận ghét hay yêu thương, mà lại không bắt đầu bằng lúng túng hoang mang.
Tất cả các câu chuyện về việc Chúa phục sinh đều bắt đầu bằng sự kinh ngạc và
sợ hãi của các phụ nữ, rồi sự bối rối và nghi ngờ của các môn đệ[40]. Nhưng những câu chuyện ấy trong Tân Ước chỉ là những
kinh nghiệm bình thường, và từ những câu chuyện ấy, kinh nghiệm sống của
các môn đệ về Chúa phục sinh bắt đầu được hình thành.
3. Kể chuyện:
Khi
có được kinh nghiệm sống, thì bao giờ người ta kể lại cho người khác. Khi có
được một kinh nghiệm sống nào đó, người ta không tìm cách trừu tượng hóa kinh
nghiệm ấy, biến nó thành những công thức mà thường đặt nó vào trong hình thức
của các câu chuyện. Kể chuyện là cách căn bản và tự nhiên nhất để đặt tên cho
một kinh nghiệm sống[41]. Chuyện của Chúa Giêsu đang
nặn đúc nên ý nghĩa của đời ta và mọi truyền thống của cộng đoàn và gia đình
ta.
Kinh
nghiệm sống và kể chuyện gắn kết chặt chẽ với nhau đến độ khó có thể tách rời.
Kể chuyện và mừng lễ cũng vậy, không dễ gì có thể tách biệt được[42].
4. Mừng lễ
Ta
cần một bối cảnh để kể chuyện, và mừng lễ là bối cảnh sáng giá nhất cho việc kể
chuyện của ta. Kể chuyện là phần cốt yếu không thể thiếu trong các cuộc lễ của
gia đình. Các câu chuyện trong Cựu và Tân Ước đều được hình thành trong bối
cảnh của việc phượng tự. Nếu người ta không nhắc lại các câu chuyện ấy
trong các cuộc mừng lễ, thì chắc chắn nhiều chuyện đã bị quên lãng, và ta sẽ chẳng
bao giờ có được bộ Kinh Thánh. Cuộc mừng lễ nào cũng đòi phải có phần kể chuyện[43].
Cả
những khi cử hành bí tích cũng là những lúc ta kể chuyện. Trọng tâm của Kinh Tạ
Ơn là một câu chuyện kể lại lý do tại sao ta lại dâng lời tạ ơn và bẻ bánh như
thế. Không có các câu chuyện để nói lên ý nghĩa của nó, các nghi thức sẽ không
có nền tảng[44]. Không còn chuyện để kể, nghi lễ
sẽ không còn nền tảng.
Việc
mừng lễ không bao giờ kết thúc nơi chính nó. Nó trôi ra khỏi cuộc sống rồi lại
quay trở về với cuộc sống. Bao giờ ta cũng mừng một cái gì đó, và cái đó bao
giờ cũng bắt rễ trong hai yếu tố đầu tiên của chu kỳ ta đã nói đến[45]. Bí tích bao giờ cũng cử hành một cái gì
đó và cái ấy luôn luôn liên quan tới tình yêu Thiên Chúa, liên quan tới câu
chuyện mà ta đã kinh nghiệm. Không có yếu tố này, chắc chắn nghi lễ sẽ chỉ còn
là ma thuật và vụ luật.
Như
thế, các bí tích bắt nguồn từ kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, không có
biến cố nền tảng này, sẽ không có Hội Thánh, không có những con người được cứu
độ, không có các bí tích… (x. 1 Cr 15). Có lẽ chính vì thế mà Joseph Martos đã
nhận xét rằng các tác giả Tân Ước khi viết về bí tích đã dựa trên những gì họ
và những người khác đã kinh nghiệm được về sự hiện diện và hoạt động của Thiên
Chúa trên trần gian này[46]. Các tác phẩm đầu tiên về
bí tích đều có liên hệ mật thiết với kinh nghiệm ấy của cá nhân và cộng đoàn
nên sử dụng nền thần học bí tích mà không biết gì đến kinh nghiệm sẽ đưa đến
chỗ hiểu biết các bí tích cách siêu hình và ma thuật[47].
Chính
vì thế mà, các thần học gia thế kỷ 20 đã nhìn bí tích chủ yếu như một cuộc gặp
gỡ Thiên Chúa, và họ quả quyết rằng Đức Kitô chính là bí tích của Thiên Chúa,
và Hội Thánh là bí tích của Đức Kitô, còn bảy bí tích chỉ là những phương thế
cho ta gặp gỡ Thiên Chúa.
5. Bí tích là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa
Theodule
Rey-Mermet nhận xét chính Thiên Chúa đã làm người để loài người gặp gỡ và yêu
mến Người. Nên các bí tích mãi vẫn là cử chỉ của Thiên Chúa chứ không phải là
của ta. Cử chỉ lớn nhất chính là cuộc nhập thể của Chúa Giêsu (Gl 4, 4). Nhưng
Người đã nhập thể chỉ để gặp gỡ, thánh hoá và thần hóa ta, chỉ để nâng nhân
tính của ta lên hàng thần thánh, để thâu họp con cái Thiên Chúa đang tản mát
khắp nơi, mà chia cho họ tất cả những gì là thực hữu của Người, như Người đã
bảo: “Khi nào bị kéo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12,
32). Như thế, Người đã nhập thể chỉ để thâu họp mọi người rồi cùng với họ, vượt
qua thế gian này mà về cùng Cha. Đó là cùng đích của cuộc nhập thể của
Người và cũng là chóp đỉnh của tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúa
Giêsu chính là tình thương cứu độ hữu hình của Thiên Chúa, là bí tích của mọi
bí tích, nên mọi bí tích đều là mầu nhiệm Vượt Qua được thực hiện trong cuộc
sống con người[48].
Đối
với Schillebeeckx[49], các bí tích là những dấu chỉ bề
ngoài mặc khải ra một thực tại siêu việt, thiên linh, mở ra khả năng yêu mến
Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu khi sống tại Palestine cũng là một loại bí tích
như thế. Khi họ gặp Người, họ thấy mình đang ở trong sự hiện diện của một
mầu nhiệm, nhưng mầu nhiệm đó khi được mặc khải cho họ, hơn hẳn một tình yêu,
một sự hiểu biết và một quyền năng nhân loại. Đối với họ, Chúa Giêsu
chính là một bí tích, nhờ Người họ gặp được mầu nhiệm Thiên Chúa[50].
Cả
sau khi chết, Đức Kitô vẫn là một bí tích đối với những ai đón nhận sứ điệp của
Người và tin vào Người. Sau khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa họ, họ
vẫn tiếp tục cảm nhận sự hiện diện của mầu nhiệm ấy, và bắt đầu nhận ra rằng
Chúa Giêsu bây giờ đã được tôn vinh, được hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng Người
vẫn hoạt động trong thế giới này (Mc 16, 20)[51].
6. Hội Thánh là bí tích của Đức Kitô
Các
nhà thần học thuộc thế kỷ 20 và Công Đồng Vatican II đã trả lại cho “bí tích”
một ý nghĩa rộng rãi và truyền thống hơn, bao hàm hết mọi thực tại của lịch sử
và thế giới trong mầu nhiệm cứu chuộc khi định nghĩa bí tích là dấu chỉ làm
phát sinh ân sủng. Với định nghĩa ấy, Hội Thánh có thể tránh được nguy cơ không
nhận ra bao nhiêu người, bao nhiêu biến cố, cử chỉ qua đó Đức Kitô gặp gỡ, cứu
độ và hô to với họ rằng: Thiên Chúa yêu thương con (x. Ga 3, 16). Đồng thời,
định nghĩa ấy cũng đưa Hội Thánh ra khỏi mình để đến với tất cả mọi người, để
nên bí tích của sự gặp gỡ Chúa Giêsu cứu thế cho họ. Như Công Đồng Vatican II
nói: “Đức Kitô là ánh sáng muôn dân. Ánh sáng ấy đang chiếu toả trên Hội Thánh.
Vì Hội Thánh ở trong Đức Kitô như bí tích, như dấu chỉ và khí cụ của sự
hợp nhất toàn nhân loại, nên Hội Thánh muốn làm sáng tỏ bản tính và sứ
mệnh phổ quát này cho tín hữu và cho toàn thế giới”[52].
Vì
là bí tích cứu độ, Hội Thánh vẫn là một dấu chỉ chói ngời cho những ai
không muốn nhắm mắt lại: là dấu chỉ rõ ràng trong việc rao truyền ơn cứu độ,
trong những cuộc sống nhân chứng sáng ngời của các Kitô hữu, trong việc phục vụ
những người đau yếu và những trẻ em thất học của các nữ tu, trong các linh mục
thợ, trong những phong trào đấu tranh cho phẩm giá, tự
do của những người bị áp bức, bóc lột, bị kỳ thị chủng tộc... Không ai có thể
chối cãi rằng Hội Thánh vẫn đang cố gắng là bí tích minh chứng tình huynh đệ
phổ quát[53].
7. Bảy bí tích là các bí tích của Hội Thánh
Hội
Thánh luôn cố gắng làm cho mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện trên trần gian này,
nhất là trong bảy bí tích: khi đưa họ vào trong đời sống mới, khi chia sẻ quyền
năng Thánh Thần cho họ, khi chữa lành bệnh tật và tha thứ tội lỗi, khi trao ban
các nhu cầu tôn giáo, khi trung thành với Cha và với Hội Thánh, cuối cùng khi
trao hiến chính mình vì yêu. Cộng đoàn Kitô hữu công nhận rằng mầu nhiệm cứu độ
của Đức Kitô hiện diện trong bảy bí tích ấy, và những ai tham dự các bí tích ấy
cũng có thể gặp được nguồn ơn cứu độ[54].
Theo
Schillebeeckx, bảy bí tích truyền thống trong Hội Thánh là các bí tích của Đức
Kitô. Vì là dấu chỉ và hành động chính thức của Hội Thánh, các bí tích cũng là
dấu chỉ và hành động của chính Đức Kitô. Các bí tích ấy cho thấy hành động cứu
chuộc của Đức Kitô trên trần gian, và nhờ chúng, chính quyền năng của ân sủng
Thiên Chúa đã được thông ban cách hiệu quả[55].
Vì
là những cuộc gặp gỡ Đức Kitô, các bí tích ấy tất nhiên cũng sinh hoa kết quả:
thông ban ân sủng của Thiên Chúa, và thay đổi cuộc sống con người. Nhưng kể cả
khi chúng không sinh hoa kết quả, chúng vẫn là những dấu chỉ thành sự của Đức
Kitô. Các dấu chỉ có thể mặc khải mầu nhiệm của một người nào đó, nhưng trên
thực tế, nếu những người ấy không mở lòng ra để gặp gỡ và đáp lại mầu nhiệm ấy,
thì dấu chỉ cũng đành bó tay thôi[56].
Như
thế, bản chất của mọi bí tích chính là việc gặp gỡ Đức Kitô, một cuộc gặp gỡ
người Công Giáo có được nhờ các nghi lễ của Hội Thánh[57].
III. ĐỨC TIN VÀ CÁC BÍ TÍCH
1. Hội Thánh là bí tích đức tin
Người
Công giáo chỉ đạt được sự hiểu biết đức tin của mình khi tham dự vào việc phụng
tự và đời sống của Hội Thánh, nghĩa là tham dự vào một sự hiệp thông đức tin
trong Đức Kitô Giêsu.
Nhờ
kết hợp với Đức Kitô và trung thành chấp nhận sứ vụ của mình, Hội Thánh là và
có thể ngày một trở nên bí tích đức tin. Hội Thánh chỉ là bí tích đức tin, nếu
trong toàn bộ cuộc sống mình, Hội Thánh trở nên một dấu chỉ hữu hiệu của sự hợp
nhất với Thiên Chúa và đồng thời cũng là một dấu chỉ của sự hợp nhất của toàn
nhân loại[58].
Sứ
vụ của Hội Thánh là giúp cho mọi tín hữu và mọi cộng đoàn ngày một trở nên hình
ảnh và giống Thiên Chúa, trở nên một Tin Mừng sống động, một dấu chỉ đức tin
hữu hiệu vào một người Cha duy nhất của mọi người, vào một Đức Kitô Giêsu, vào
một Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nên sự hợp nhất nhờ những ân sủng khác nhau của
Ngài[59].
2. Những dấu chỉ đặc biệt của đức tin
Bảy
bí tích được thiết lập để mở mắt cho các tín hữu thấy được tất cả các dấu chỉ
của sự hiện diện chủ động của Thiên Chúa, là những dấu chỉ vẫn kêu mời con
người đến với đức tin cứu độ. Tuy nhiên, các bí tích là những dấu chỉ đặc biệt
được chính Thiên Chúa thiết lập như những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng và đức
tin[60].
Đó
là những dấu chỉ của giao ước được niêm ấn bởi máu Đấng cứu độ. Vì là các dấu
chỉ đức tin, các bí tích mời gọi và đưa ta ngày một đi sâu hơn vào trong giao
ước này của cộng đoàn đức tin. Trong các bí tích ấy, Thiên Chúa nói với ta bằng
những lời, những dấu chỉ và những ân sủng nhân lành của giao ước Ngài đã ban
cho ta. Trong khi đón nhận các dấu chỉ của giao ước của Đức Kitô với Hội Thánh,
ta tham dự vào đức tin của dân giao ước trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô[61]. Vì chính trong ý định của Đức Kitô, Thánh Thể
và các bí tích khác là những nguồn thuận lợi giúp ta lớn lên trong đức tin và
trong lòng mến không bị chia sẻ, trong công lý và hoà bình, là những hoa trái
của đức tin đích thật.
3. Ơn cứu độ nhờ đức tin và nhờ các bí tích
Ta
được cứu độ nhờ đức tin và nhờ các bí tích nhưng đức tin đóng vai trò quan
trọng hơn[62]. Thánh Tôma Aquinô viết: “Ta được cứu độ
nhờ lòng tin vào Đức Kitô, Đấng đã được sinh ra và đã chịu khổ hình. Các bí
tích khi ấy chỉ là các dấu chỉ làm chứng cho đức tin, nhờ chính đức tin ấy, con
người được công chính hoá”[63].
Các
bí tích phải được nhìn cách tường tận trong nhãn giới đức tin. “Các bí tích ấy
không chỉ giả thiết phải có đức tin mà còn bằng lời nói và các dấu chỉ, các bí
tích ấy còn phải nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin nữa. Đó là lý do vì sao
chúng được gọi là bí tích”[64]. Tại trung tâm của các
cuộc cử hành các bí tích chính là Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa. Thực vậy,
các bí tích nói chung chính là các dấu chỉ/ lời nói của Đức Kitô, chính Người
nói khi ta đọc Kinh Thánh trong nhà thờ[65].
Hiệu
quả có tính cứu độ của các bí tích xuất phát từ một mình Đức Kitô Đấng là bí
tích duy nhất.
Nhưng Các bí tích chỉ là những biến cố cứu độ cho những ai tin và khao khát
muốn được lớn mạnh trong đức tin. Còn đối với những ai không tin và không khao
khát ơn đức tin, thì bí tích chỉ là những nghi lễ rỗng tuếch. Nếu những người
vô tín này có lãnh nhận bí tích đi nữa, thì đó chỉ là việc họ sử dụng các bí
tích cách dối trá[66].
Ai
lãnh nhận bí tích trong tinh thần đức tin và với ước vọng muốn được vững mạnh
trong đức tin, một đức tin ao ước sinh hoa trái trong tình yêu, và sự công
chính, thì đều được công chính hoá bởi đức tin, một đức tin do chính Thiên Chúa
khơi dậy và đang làm cho sung mãn nhờ những dấu chỉ và các biểu tượng thánh
thiêng này. Họ sẽ hiệp thông sâu sắc hơn với Hội Thánh, là cộng đoàn đức tin.
Ta có thể hy vọng rằng cộng đoàn Hội Thánh càng cử hành các bí tích cách sốt
sắng bao nhiêu, thì mỗi cá nhân tham gia vào việc tuyên xưng đức tin cũng sẽ
càng được sốt sắng bấy nhiêu. Mặt khác, việc tuyên xưng đức tin của mỗi tín
hữu, trong phụng vụ cũng như trong đời sống hằng ngày, nếu không muốn sống
trong tình liên đới với đức tin của toàn Hội Thánh, thì cũng sẽ không có kết
quả, không làm đẹp lòng Thiên Chúa[67].
Tóm
lại, đức tin và các bí tích có một điểm chung, đó là việc gặp gỡ Thiên Chúa, là
kinh nghiệm về một vị Thiên Chúa tình yêu, Đấng vẫn đang cùng ta xây dựng một
mối tình nhờ những dấu chỉ khả giác. Bí tích không có đức tin chỉ còn là những
nghi lễ rỗng tuếch. Bí tích được cử hành trong đức tin sẽ đưa con người đi sâu
vào trong tương quan với Thiên Chúa và với nhau hơn và như thế lại giúp đào sâu
đức tin hơn. Vì thế, Hội Thánh cần cả đức tin lẫn các bí tích.
Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông
[1] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 19
[2] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 19.
[3] Ibid., tr. 20
[4] Ibid., tr. 20
[5] Ibid., tr. 21
[6] Bernard Haring, Tự do và Trung Thành, tập 3, tr. 305
[7] Ibid., 307.
[8] Ibid., 310
[9] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 319.
[10] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 312.
[11] R. Niebuhr, The Nature and Destiny of Man, New York, 1941, 11, 109.
[12] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 314.
[13] Ibid., 314.
[14] Ibid., 317.
[15] Xem P. Evdokimov, La conoscenza di Dio secodo la tradizione Orientale, Roma,
1969, 16; H. Bahrs, Diegottlichen Tugenden. Glaube, Hoffnung, Liebe,
Aschafienburg, 1963, 29.
[16] Ibid., 316.
[17] Bernard Haring, Tự Do và Trung Thành, tập 3, tr. 319.
[18] Ibid.,
[19]Ch R. Stinette Jr. Anxiety and Faith, Greenwich/Conn., 1955, 12.
[20] Thomas P. Rausch, Đạo Công Giáo Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, bản dịch của Linh mục
Đaminh Nguyễn Đức Thông, tr. 53.
[21] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 13.
[22] Ibid., tr. 14.
[23] Xem Bechluss der gemeinsamen Synode der Bistumer der DRD, số 6, về Hợp
tác mục vụ của các Hội Thánh nhằm phục vụ cho sự hợp nhất của Hội Thánh.
[24] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 28
[25] Ibid., tr. 29
[26] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 29
[27] GS 49a
[28] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 30
[29] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 30
[30] Nguyễn Đức Thông, Kinh Tin Kính, tr. 30.
[31] Tad Guzie, Căn Bản Bí Tích, tr. 14
[32] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 10
[33] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 10 – 11.
[34] Wllliam Bausch, Một lối nhìn mới về Bí tích, tr. 192.
[35] Knox, Theology
for Teachers, tr. 269.
[36] Tad Guzie. Căn Bản Bí Tích, tr. 19.
[37] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 14
[38] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 15
[39] Ibid., tr. 16
[40] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 16-17
[41] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 18
[42] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, 21
[43] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích ,tr. 22
[44] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 24
[45] Tad Guzie, Căn Bản Bí tích, tr. 26
[46] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, tập I, tr. 59.
[47] Joseph Martos,Cửa Vào Thánh Thiêng, tập I, tr, 60.
[48] Théodule Rey-Mermet, Sống Đức Tin trong Các Bí Tích, tr. 35.
[49] Schillebeeckx là một nhà thần học Hoà Lan chuyên viết về các bí tích
suốt các thập niên 1950 và 1960. Ong đã cố gắng nắm bắt lại kinh nghiệm tôn
giáo trong các bí tích hầu có thể nói về kinh nghiệm ấy bằng các thuật ngữ
triết học, nhưng không phải là thuật ngữ triết học Aristôte, mà là triết học
hiện sinh
[50] Schillebeeckx, Christus Sakrament der Gottbegegnung, Mainz, 1960, 73; 84;
89.
[51] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 204.
[52] Lumen
Gentium, số 1
[53] Théodule Rey-Mermet, Sống Đức Tin trong Các Bí Tích, tr. 42.
[54]Edward Schillebeeckx, Đức Kitô, Bí tích của cuộc gặp gỡ Thiên Chúa (Nxb Sheed và
Ward, 1963), là một trình bày rõ ràng của nền thần học tại Anh.
[55] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 206.
[56] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 206.
[57] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, t.1, tr. 207.
[58]Xem A. Dulles, Models of the Church, Garden City, N.J., 1974.
[59] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 336.
[60]Xem B. Haring, The Sacraments in a Secular Age, Slough, 1976, 93-179.
[61] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 337.
[62] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 339.
[63]S. Th., III, q 61, a 4.
[64] Hiến
Chế về Phụng Vụ, 59
[65] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 339.
[66] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 340.
[67] Bernard Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, tập 3, tr. 341.