Công ĐỒng
Vatican
II là Công Đồng lớn nhất trong lịch sử Giáo Hội, quy tụ hàng Giám mục của cả
thế giới. Đây là lần đầu tiên đại diện của các Giáo Hội thuộc đủ mọi chủng tộc,
màu da, văn hóa, khuynh hướng ... nói lên tiếng nói của mình trong tinh thần
hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo. Cũng chưa có một Công Đồng nào trước đây cần
đến một đội ngũ chuyên viên hùng hậu, sử dụng các kỹ thuật và phương tiện
truyền thông dồi dào như vậy.
Sau bốn kỳ họp kéo dài từ năm 1962 đến
năm 1965, Công Đồng đã mang lại kết quả cụ thể –ngoài những kết quả khác– là 16
văn kiện, gồm 4 Hiến chế, 9 Sắc lệnh và 3 Tuyên ngôn. Nếu phải tổng hợp kết quả
này trong một câu vắn gọn, tương xứng với thực tại, thiết tưởng không gì hơn là
lặp lại chính lời của Đức Gioan XXIII, trong bài Diễn văn truyền thanh phát đi
một tháng trước ngày khai mạc Công Đồng. Được hỏi nên đặt tựa đề cho bài Diễn
văn này như thế nào, ngài đã trả lời : Ecclesia Christi, Lumen gentium
(Giáo Hội Chúa Kitô, Ánh sáng muôn dân). Tất cả Vatican II là như thế.
Có thể sắp xếp 16 văn kiện của Vatican
II theo ba thứ tự : pháp lý, thời gian và thần học :
1.
Thứ tự pháp lý : đi từ
những văn kiện có tầm quan trọng hơn.
a)
Bốn Hiến chế
(Constitutions)
–
Hiến chế tín lý về Mạc
Khải (Dei Verbum) : xác định uy tín bất khả ngộ của Lời Chúa, mà
giáo huấn của Giáo Hội phải dựa vào ;
–
Hiến chế tín lý về Giáo
Hội (Lumen Gentium) : mô tả định chế Giáo Hội với những yếu tố chủ
chốt. Đây là văn kiện quan trọng nhất của Công Đồng ;
–
Hiến chế kỷ luật về Phụng
vụ thánh (Sacrosanctum Concilium) : cho biết Phụng vụ là nguồn mạch và
tột đỉnh của đời sống Giáo Hội, và những canh tân phải thực hiện ;
–
Hiến chế mục vụ
Giáo Hội trong thế giới hôm nay (Gaudium et Spes) : cho thấy một Giáo
Hội dấn thân phục vụ con người, đưa họ về với Thiên Chúa.
b)
Chín Sắc lệnh (Décrets) :
bao gồm những chỉ dẫn khác nhau liên hệ đến tông-đồ-vụ của Giáo Hội hôm nay :
–
Sắc lệnh về Hoạt động
Truyền Giáo của Giáo Hội (Ad Gentes) ;
–
Sắc lệnh về sự Hiệp
Nhất của các Giáo Hội Kitô (Unitatis Redintegratio) :
–
Sắc lệnh về các Giáo
Hội Đông phương Công Giáo (Orientalium Ecclesiarum) ;
–
Sắc lệnh về Nhiệm vụ muc
vụ của các Giám Mục (Christus Dominus) : Chúa Kitô trao quyền
lãnh đạo Giáo Hội cho các Tông Đồ và các người kế vị ;
–
Sắc lệnh về thừa tác vụ và
đời sống của các Linh Mục (Presbyterorum Ordinis) : những
cộng-tác-viên gần gũi của Giám mục, cùng với Giám mục chu toàn sứ mệnh của Chúa
Kitô và của các Tông Đồ ;
–
Sắc lệnh về việc Đào
Tạo Linh Mục (Optatam Totius) : nhằm chuẩn bị cho Giáo Hội tương lai
một mẫu linh mục mới, theo những đòi hỏi hiện nay của Dân Chúa ;
–
Sắc lệnh về việc Canh tân
đời sống Dòng Tu (Perfectae Caritatis) : nhằm giúp cho đời sống
này thích nghi với thế giới hiện đại ;
–
Sắc lệnh về Tông Đồ
Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem) : nói lên sứ mệnh của người giáo
dân giữa lòng đời ;
–
Sắc lệnh về các Phương
Tiện Truyền Thông xã hội (Inter Mirifica).
c)
Ba Tuyên ngôn
(Déclarations) : nói lên một số thái độ và quan điểm của Giáo Hội về ba điểm
liên hệ đặc biệt với con người ngày nay :
–
Tuyên ngôn về Giáo Dục
Kitô-giáo (Gravissimum Educationis) ;
–
Tuyên ngôn về những liên
lạc của Giáo Hội với các tôn giáo Ngoài Kitô-giáo (Nostra Aetate).
–
Tuyên ngôn về Tự Do tôn
giáo (Dignitatis Humanae).
2. Thứ tự thời gian
Các
văn kiện được công bố dần dần qua những kỳ họp. Chúng là kết quả của những suy
nghĩ, bàn cãi, tiến triển trong tâm thực của các Nghị Phụ từ năm này đến năm
khác, thậm chí ngay trong một kỳ họp. Thế nên phải đặt mỗi văn kiện trong bối
cảnh lịch sử của nó cũng như trong mối liên hệ của nó với toàn bộ văn kiện Công
Đồng. Việc các văn kiện được công bố cách xa nhau cũng cho ta thấy Vatican II
làm việc nghiêm túc, theo phương pháp khoa học, do những chuyên viên thực sự.
Trừ những văn kiện cuối cùng được công bố ở kỳ họp thứ tư do cấp bách, nói
chung Công Đồng đã để cho mọi vấn đề có thời gian chín mùi.
Trong kỳ họp thứ nhất, tuy
không có một văn kiện nào được công bố, nhưng các Nghị Phụ đã có
thời gian để gặp gỡ, trao đổi, nghiên cứu, làm việc theo nhóm, nhờ đó đã tạo
nên một não trạng chung. Dù có tranh luận, kể cả đối kháng nhau, các ngài vẫn
xích lại gần nhau trong cùng một đức tin. Nhờ đó mà cuối kỳ họp, các ngài đã có
thể đồng ý với nhau về những nguyên tắc của Phụng Vụ.
Vào cuối kỳ họp thứ hai, Hiến
chế về Phụng Vụ thánh được công bố, nhắc nhớ cho Giáo Hội ơn gọi cơ bản của
mình là tôn vinh Thiên Chúa, để đáp lại công trình cứu độ của Người. Sắc lệnh
về các Phương Tiện Truyền Thông xã hội cũng được công bố trong kỳ này. Tuy còn
nhiều thiếu sót, Sắc lệnh cũng cho thấy ý muốn của Giáo Hội là sử dụng những kỹ
thuật hiện đại nhất để phục vụ Tin Mừng.
Ở kỳ họp thứ ba, mặc dù có
những tranh luận sôi nổi vào những ngày cuối, Công Đồng cũng đã công bố được
văn kiện quan trọng nhất về mầu nhiệm Giáo Hội. Ngoài ra, còn Sắc lệnh về Hiệp
Nhất, chính thức ghi dấu sự tham gia của Giáo Hội Rôma vào phong trào đại kết ;
Sắc lệnh về các Giáo Hội Đông Phương công giáo giúp cho các Giáo Hội này cũng
như Giáo Hội Tây Phương cảm thấy liên kết chặt chẽ với nhau hơn trong cùng một
Giáo Hội Công Giáo của Chúa Kitô, cho dù có những khác biệt.
Trong kỳ họp thứ tư, một loạt
các văn kiện còn lại được công bố, cho thấy một vụ mùa thật
phong phú. Ngày 28 tháng 10 năm 1965 : năm văn kiện về nhiệm vụ
mục vụ của các Giám Mục, về việc canh tân đời sống Dòng Tu, về việc Đào Tạo
linh mục, về Giáo Dục Kitô-giáo, về liên lạc giữa Giáo Hội công giáo và các tôn
giáo Ngoài Kitô-giáo. Ngày 18 tháng 11 : Hiến chế tín lý về Mạc Khải và Sắc
lệnh về Tông Đồ giáo dân. Ngày 07 tháng 12, trong phiên họp cuối cùng : Tuyên
ngôn về Tự Do tôn giáo, Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội, Sắc
lệnh về chức vụ và đời sống của các Linh Mục, nhất là Hiến chế Mục Vụ, một Hiến
chế hoàn tất cho mọi công trình của Vatican II, một Hiến chế được rất nhiều
người chờ đợi.
3. Thứ tự thần học
Thứ tự pháp lý cho phép chúng ta đánh
giá tầm quan trọng của các văn kiện theo bậc thang giá trị của chúng.
Thứ tự thời gian cho phép ta nhận thấy
rõ hơn, qua từng kỳ họp, quá trình làm việc và sự tiến triển trong cách suy
nghĩ,
Thứ tự thần học dựa vào hai cách xếp
đặt trên đây để cố gắng đưa ra những phân tích về phương diện giáo lý, nhằm
giúp chúng ta đào sâu các bản văn Công Đồng, nhất là có một cái nhìn tổng hợp,
nắm bắt những quan điểm chủ chốt của Kitô-giáo.
Có thể trình bày thứ tự này như sau :
Dẫn nhập :
Hiến chế tín lý về Mạc Khải
Giáo
HỘi "ad intra"
A. Khía cạnh tín lý
·
Hiến chế
tín lý về Giáo Hội : 1/ Mầu nhiệm Giáo Hội – 2/
Dân Thiên Chúa – 3/ Phẩm trật của Giáo Hội – 4/ Giáo dân
– 5/ Lời mời gọi mọi người nên thánh – 6/ Tu sĩ – 7/
Đặc tính cánh chung của Giáo Hội – 8/ Đức Maria trong mầu nhiệm Giáo
Hội.
B. Khía cạnh mục vụ
· Hiến chế về Phụng vụ thánh
· Sắc lệnh về các Giáo Hội Đông Phương công
giáo
· Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục
· Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống của các
Linh Mục
· Sắc lệnh về việc Đào Tạo Linh Mục
· Sắc lệnh về việc canh tân đời sống Dòng
Tu
· Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân
· Tuyên ngôn về Giáo Dục Kitô-giáo.
C. Khía cạnh đại kết
·
Sắc lệnh
về Hiệp Nhất
Giáo
HỘi "ad extra"
· Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo
Hội
· Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các
tôn giáo Ngoài Kitô-giáo
· Tuyên ngôn về Tự Do tôn giáo
· Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới
hôm nay
· Sắc lệnh về các phương tiện Truyền Thông Xã
Hội.
Dựa theo thứ tự thần học trên đây,
chúng ta tóm lược những chủ đề chính rút ra từ các văn kiện Công Đồng.
Dẫn nhập : MẠc KhẢi cỦa Thiên Chúa.
Hiến chế tín lý về Mạc Khải được coi
như cửa dẫn vào toà nhà Giáo Hội. Bản văn của Hiến chế là nền tảng cho mọi công
trình của Vatican II. Chỉ nhờ ánh sáng của Mạc Khải, được diễn tả trong Lời
Chúa, người ta mới có thể lấy đức tin đi vào các mầu nhiệm Kitô-giáo. Lời Chúa
giúp ta đi sâu vào mầu nhiệm Giáo Hội, soi sáng mọi khía cạnh của Giáo Hội. Do
có những quan-sát-viên Tin-lành hiện diện, và nhất là để đáp ứng với chính bản
tính các sự việc, giáo huấn của Vatican II luôn dựa vào những dữ kiện chắc chắn
của Kinh Thánh. Công Đồng lập ra một tiểu ban đặc biệt gồm những nhà chú giải
có uy tín. Tiểu ban này có nhiệm vụ thường xuyên xem xét mọi bản văn Kinh Thánh
được sử dụng trong các văn kiện Công Đồng.
Vì coi Mạc Khải là nền tảng, nên tất
cả những văn kiện do Vatican II công bố, cũng như tất cả những văn kiện của
Huấn Quyền, đều dựa vào Lời Chúa và vào Truyền Thống sống động chuyển đạt Lời
Chúa. Một trong những quan tâm hàng đầu của các Uy vụ Công Đồng là trích dẫn
chính xác Kinh Thánh.
Chống lại một quan niệm quá thuần lý
và trừu tượng về Mạc Khải, Công Đồng đã cố ý trình bày Mạc Khải như là cuộc đối
thoại yêu thương giữa Thiên Chúa và con người, để đưa chúng ta vào "hiệp
thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu-Kitô" (1 Ga 1,2-3 ; MK 1), tức là với từng Ngôi Vị trong Ba Ngôi Thiên
Chúa. Như vậy, ngay từ bước đầu đi vào mầu nhiệm Giáo Hội, chúng ta đã gặp gỡ
Ba Ngôi, nhờ Đức Giêsu-Kitô, "Đấng Trung Gian và là sự viên mãn của Mạc
Khải" (MK 2).
Quả thực, chính qua Kinh Thánh mà Công
Đồng giúp ta khám phá ra khuôn mặt của Giáo Hội Chúa Kitô.
Phần I : Giáo HỘi "ad intra"
Mầu nhiệm Giáo Hội đi theo hai viễn
tượng lớn bổ sung cho nhau. Viễn tượng "ad intra", xem xét
Giáo Hội trong chính bản tính thâm sâu của Giáo Hội, trong các chỉ dẫn mục vụ,
các định hướng đại kết. Viễn tượng này chi phối những kỳ họp đầu của Công Đồng.
Nhưng rồi, qua những ý kiến, tranh luận và suy tư, cũng như do sức ép của dư
luận thế giới, viễn tượng "ad extra" được đặt ra, trong đó
Giáo Hội xác định sứ mệnh riêng của mình đối với thế giới, sự hiện hữu của Giáo
Hội giữa lòng nhân loại phải đượng đầu với những vấn đề lớn lao cấp bách của xã
hội hiện thời.
Để thấy rõ sự duy nhất hữu cơ trong
tổng hợp văn kiện của Công Đồng, cần lưu ý là cũng chính một Giáo Hội, đã được
xem xét trong viễn tượng "ad intra", thực hiện sứ mệnh "ad
extra" của mình, không phải trong tư thế đối diện với thế giới, nhưng
là đi vào giữa lòng con người và các vấn đề của nhân loại. Tổng hợp này chỉ đầy
đủ và có tầm vóc vào những ngày cuối cùng, khi Công Đồng công bố Hiến chế Mục
Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay.
*
Về viễn tượng "ad intra",
có ba khía cạnh phải xem xét : tín lý, mục vụ và đại kết.
Khía
cạnh đầu tiên là mầu nhiệm Giáo Hội. Chúng ta đi vào tận thâm sâu bản tính của
Giáo Hội, với sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa nơi hữu thể và hoạt động của
Giáo Hội, đi vào đời sống của Dân Chúa đang tiến về Đất Hứa. Tiên vàn phải lưu
ý đến những yếu tố làm nền tảng tín lý cho mầu nhiệm Giáo Hội : Thiên Chúa Ba
Ngôi cư ngụ bên trong Giáo Hội, hướng dẫn Giáo Hội nhờ Thần Khí Tình Yêu của
Ngài ; Đức Kitô, Đấng thiết lập Giáo Hội, Thủ Lãnh vô hình của Giáo Hội nhưng
luôn hiện diện và hoạt động ; Dân Thiên Chúa, được Thiên Chúa tuyển chọn, phát
triển trong lịch sử, đang hướng về Thành thánh trên trời dưới sự hướng dẫn của
các vị thủ lãnh tinh thần, phục vụ mọi người để làm thành một đại gia đình nhân
loại có Thiên Chúa là Cha, Đức Kitô là Người Anh Cả và Thủ Lãnh, Đức Maria là
Mẹ, mọi người là anh chị em với nhau. Tổng hợp trên đây về mầu nhiệm Giáo Hội
được Hiến chế tín lý về Giáo Hội trình bày bằng một hình thức sống động, hiện
sinh, lịch sử và năng động, dựa vào kế hoạch của Thiên Chúa và diễn tiến của
Lịch-sử cứu độ.
Khía
cạnh mục vụ và đại kết được xem xét dựa vào những nền tảng tín lý kể trên. Một
loạt các sắc lệnh được ban hành liên hệ đến đời sống mục vụ, tông đồ và thiêng
liêng của các thành phần trong Giáo Hội. Đó là những chỉ dẫn mục vụ quý giá.
Cuối cùng, Sắc lệnh về Hiệp Nhất đề ra những định hướng đại kết, nhằm đưa mọi
tín hữu vào sống trong một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô.
Đoạn I : khía cẠnh tín lý
Khía
cạnh tín lý được trình bày chủ yếu trong Hiến chế tín lý về Giáo Hội. Có hai ý
tưởng nổi bật : về phía Thiên Chúa, Giáo Hội là Giáo Hội của Thiên Chúa Ba Ngôi
; về phía con người, Giáo Hội là sự quy tụ của Dân Thiên Chúa.
I.
Giáo HỘi cỦa Thiên Chúa Ba Ngôi (ch. I)
Thay vì xét Giáo
Hội từ dưới, từ ý niệm về một xã hội hữu hình và phẩm trật, theo nhãn quan cổ
điển của một thần học có tính chất hộ giáo và quy nhân, có từ thời
Chống–Cải-cách, Vatican II xét Giáo Hội từ trên, theo một nhãn quan quy thần
hơn về mầu nhiệm Giáo Hội. Từ khởi điểm, Giáo Hội là Giáo Hội của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Khai sinh từ ý định tự do của Chúa Cha hằng hữu (GH 2), ý định này được
thực hiện qua sứ mệnh của Chúa Con (GH 3), dưới sự tác động không ngừng của
Chúa Thánh Thần (GH 4).
Nhờ xem xét mầu
nhiệm Giáo Hội từ mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta khám phá ra nguyên lý tối thượng
của sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Giáo Hội Chúa Kitô là một mạch nước vọt ra từ
lòng Chúa Cha, tuôn tràn ơn cứu độ trong Chúa Con, nhờ thần lực của Chúa Thánh
Thần. Cùng một sự sống của Thiên Chúa lưu chuyển qua các định chế của Giáo Hội,
các hoạt động của Giáo Hội và các bí tích được ban phát.
Cách trình bày đầu
tiên về mầu nhiệm Giáo Hội, trong ba đoạn liên tiếp (GH 2-4) nói về vai trò của
từng Ngôi trong Ba Ngôi liên hệ với mầu nhiệm này, kết thúc bằng câu nói của
thánh Cyprianô, cho thấy Giáo Hội như là sự phóng xuất ra bên ngoài sự hiệp
nhất nội tại của Ba Ngôi : Giáo Hội phổ quát xuất hiện "như một Dân có
được sự hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần".
II. Dân Thiên Chúa
(ch. II)
Sau khi đã tìm hiểu
mầu nhiệm Giáo Hội dưới ánh sáng của mầu nhiệm Ba Ngôi, Vatican II hướng về
phía con người. Công Đồng coi Giáo Hội tiên vàn như một Dân Thiên Chúa đang tiến
về Thành Đô vĩnh cửu. Chương II của Hiến chế, tuy không được tiên liệu trước,
nhưng đã trở thành một chương cơ bản.
–
Trong số 80 hình ảnh và
hình bóng Thánh Kinh mạc khải những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm Giáo Hội,
Công Đồng dùng một hình ảnh làm nòng cốt để trình bày mầu nhiệm này. Trước đây,
Giáo Hội được trình bày chủ yếu như là "Nhiệm Thể Chúa Kitô" (
Tổng hợp về mầu
nhiệm Giáo Hội xoay quanh ý niệm "Dân Thiên Chúa". Tuy nhiên, Công
Đồng cũng sử dụng thêm những hình ảnh khác và không quên khai triển hình ảnh
"Thân Thể Chúa Kitô" khi cần. Quả thực, Công Đồng đã lưu ý đến sự
tiến triển trong cảm tính, suy tư và mối quan tâm của con người thời nay.
"Dân" là từ hay được nói đến và đề cao, đặc biệt trong các quốc gia
trẻ hay kém phát triển. Nhờ Thần Khí soi sáng, Công Đồng đã khám phá trong ý
niệm này một sức mạnh dính kết và tổng hợp các giáo huấn chính của mình. Chúng
ta hiểu vì sao Hiến chế đã chấp nhận ý niệm này như nền tảng để trình bày mầu
nhiệm Giáo Hội.
–
Chương II của Hiến chế
chứa đựng mọi nguyên lý nền tảng dùng để trình bày mầu nhiệm Giáo Hội theo cách
thức mới.
Khác với quan niệm
thông thường về Giáo Hội quá nhấn mạnh khía cạnh phẩm trật, Công Đồng mạnh mẽ
nhắc lại sự bình đẳng cơ bản của mọi thành phần trong Dân Chúa. Mức độ thuộc về
Giáo Hội tiên vàn căn cứ vào mức độ bác ái và vâng phục Thần Khí. Trên hết là
địa vị làm con cái Thiên Chúa. Phẩm trật là một hình thức phục vụ, giúp cho mọi
người được triển nở đầy đủ trong sự tự do của các con cái Thiên Chúa.
Cho dù chưa được
hoàn hảo, chương II này cũng đã làm nổi bật địa vị cao cả của mỗi thành phần
trong Dân Chúa : có Đức Kitô làm Thủ Lãnh ; có địa vị là con cái Thiên Chúa,
theo hình ảnh của Chúa Con ; có Phúc Âm là luật tối thượng ; có sứ mệnh là đưa
dẫn mọi người về với Thiên Chúa (GH 9).
Nhờ ân sủng mà trở
nên con cái Chúa, mỗi thành phần trong Dân, tùy theo địa vị của mình, được mời
gọi tham dự vào ba sứ mệnh của Chúa Kitô.
Dân này là dân
thiên sai, dân tư tế, ngôn sứ và vương giả, một Dân Thánh, được tuyển chọn để
làm chứng về Thiên Chúa giữa các dân tộc. Chính đó là tất cả ơn gọi của Giáo
Hội. chức tư tế vương giả nơi các phần tử của Giáo Hội làm cho mọi hành vi
trong đời sống của họ trở thành như một phụng vụ thánh, mà lúc ưu đãi là lúc
dâng hiến đời sống kết hợp với hy tế của Đức Kitô (GH 10-11).
III. Các vỊ lãnh đẠo Dân Thiên Chúa
(ch. III)
Chỉ sau khi đã cho
thấy sự bình đẳng nền tảng của mọi thành phần trong Dân Chúa, Vatican II mới
xét đến quyền hành của phẩm trật, trong chiều hướng phục vụ mọi người, nhất là
những người nghèo khổ, yếu đuối.
Trong một nhãn quan
toàn vẹn về phẩm trật, không thể không ghi nhận hành động tiên khởi của Ba Ngôi
trong thế giới, cũng như ảnh hưởng vô hình nhưng phổ quát và bền bỉ của nhân
tính Đức Kitô nơi Nhiệm Thể.
1.
Thiên Chúa Ba
Ngôi và Chúa Kitô
Trên chóp đỉnh của
phẩm trật là Thiên Chúa Ba Ngôi và nhân tính của Đức Kitô, Thủ lãnh Giáo Hội.
–
Ba Ngôi là Nguồn Mạch tối
thượng, sáng tạo và thực hiện mọi sự lành. Ngôi Lời là ánh sáng soi chiếu thế
gian. Chúa Thánh Thần, linh hồn của Giáo Hội, thúc đẩy mọi hoạt động.
"Giáo Hội ở đâu thì Thần Khí ở đó". Ba Ngôi là tất cả trong Giáo Hội,
là Nguyên-do đầu tiên, Nguyên-mẫu hoàn hảo, Cùng-đích tối hậu của Giáo Hội, lôi
kéo mọi sự bằng quyền năng và lòng nhân từ vô biên của mình. Giáo Hội của Chúa
Kitô thực sự là Giáo Hội của Thiên Chúa, Giáo Hội của Ba Ngôi.
–
Chúa Kitô được Chúa Cha
trao ban mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18) để thiết lập Giáo Hội.
Ngài là "Đá Góc", trên đó Giáo Hội được xây dựng. Trong Lời Mở Đầu,
Hiến chế đã khẳng định là "ánh sáng của Ngài phản chiếu trên dung nhan
Giáo Hội" (GH 1).
Mọi sự trong Giáo
Hội đều phát xuất từ Chúa Kitô. Chỉ mình Ngài là Thủ Lãnh của Giáo Hội, tuy vô
hình nhưng luôn hiện diện và hoạt động, như lời Ngài đã hứa : "Thầy sẽ ở
cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (x. Mt 28,20). Một tổng hợp thần học về Giáo Hội không thể không nhấn
mạnh khía cạnh trên đây. Chúa Kitô là "mọi sự cho mọi người", nơi
từng phần tử, từng hành động. Ngài hiện diện nơi ta hơn chính ta, nhờ Thần Khí
của Ngài. Ngài hành động nơi ta hơn chính ta, trong các quyết định của ta.
Nhiều bản văn Công
Đồng nhắc nhở ta phải đi từ sự hiện diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội để có thể
hiểu về mầu nhiệm phẩm trật. Không phải vô lý khi mà, khởi đầu chương III bàn
về phẩm trật, Hiến chế nhắc ngay đến Chúa Kitô : "Để chăn dắt và phát
triển Dân Thiên Chúa luôn mãi, Chúa Kitô đã thiết lập các thừa tác vụ khác nhau
trong Giáo Hội, nhằm mưu ích cho toàn Thân" [Christus Dominus, ad Populum
Dei pascendum ... (GH 18)].
Thế nên, để trình
bày về phẩm trật, phải luôn bắt đầu bằng Chúa Kitô. Phải dựa vào phần dẫn nhập
Hiến chế (GH 1) trong đó Chúa Kitô là trọng tâm và chóp đỉnh, để xem xét các
cấp bậc khác nhau trong phẩm trật Giáo Hội. Giáo Hoàng (GH 18), các Giám Mục
(GH 19-27), Linh Mục (GH 28), Phó Tế (GH 29) chỉ là những thừa tác viên của
Chúa Kitô, tham dự vào sự hiến thánh của Ngài, sứ mệnh riêng của Ngài, trong đó
Ngài là "Thừa-tác-viên chính" vô hình, là Thượng Tế duy nhất, là Vua
tối cao, là "Đấng Trung Gian duy nhất" giữa Thiên Chúa và con người.
Nguồn gốc của mọi
quyền bính trong phẩm trật là ở trong bí tích Truyền Chức Thánh, qua đó mỗi
thừa tác viên lãnh nhận quyền từ chính Chúa Kitô, qua trung gian của Giám mục
phong chức. Giám mục không phải là nguồn mạch, nhưng chỉ là dụng cụ chuyển đạt
quyền bính của Đức Kitô cho người khác. Một cái nhìn trung thực và đầy đủ về
phẩm trật trong Giáo Hội phải nhận ra những yếu tố đó. Các thừa tác viên lãnh
nhận quyền từ Thiên Chúa Ba Ngôi, qua trung gian của Đức Kitô, các Tông Đồ và
các người kế vị.
Khi phân tích kỹ
lưỡng các bản văn Công Đồng, chúng ta thấy có sự tiến triển trong cách trình
bày về chức tư tế trong Giáo Hội, chẳng hạn về tính bí tích của chức Giám Mục,
tính tập đoàn của Hàng Giám Mục, hoặc về sự chuyển đạt quyền hành và nhiệm vụ
phục vụ dân Chúa. Thần học về chức Giáo Hoàng, Giám Mục và Linh Mục sẽ dựa vào
cái nhìn mới mẻ này.
2.
Đức Giáo Hoàng, các
Giám mục, Linh Mục và Phó Tế
–
Đức Giáo Hoàng lãnh nhận
trực tiếp từ Chúa Kitô, tuy một cách vô hình, quyền lãnh đạo Giáo Hội toàn cầu.
"Do nhiệm vụ của mình, là Đại Diện Chúa Kitô và Chủ Chăn của toàn thể Giáo
Hội, Đức Giáo Hoàng Rôma có một quyền bính trọn vẹn, tối cao, phổ quát trên
Giáo Hội, và bao giờ ngài cũng được tự do thi hành quyền bính ấy" (GH 22).
Ngài không phải là Đấng Kế-vị nhưng là Vị Đại Diện của Đức Kitô, là mục tử hữu
hình tối cao của Dân Thiên Chúa. Lời Chúa nói với Phêrô
được áp dụng cho Đấng Kế-vị : "Con là Phêrô, nghĩa là tảng đá,
và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" (Mt 16,18). Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, nhưng được xây trên
Phêrô và các Đấng Kế-vị, và Chúa Kitô luôn là "Đá Góc" của tòa nhà
Giáo Hội.
Tiếp theo
–
Các Giám mục là những
người Kế-vị Nhóm Mười Hai và, giống như nhóm này, chịu trách nhiệm tập thể về
ơn cứu độ của thế giới. Vatican II đã ý thức về chân lý nền tảng đó, và điều
này đã làm thay đổi những viễn tượng về chức Giám Mục. Chức Giám Mục không được
xét từ dưới, tức là giáo phận, nhưng được xét từ trên, tức từ Tông-đồ-đoàn,
hiệp thông phẩm trật với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục trên toàn thế giới.
Công Đồng khởi đi từ sự chuyển đạt quyền bính của Chúa Kitô cho các Tông Đồ để
mô tả sứ mệnh và nhiệm vụ của Giám Mục. Giám Mục giảng dạy, thánh hóa và lãnh
đạo dân Chúa, nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào Đức Giáo Hoàng và liên kết với
ngài. Giám-mục-đoàn không phải là một tổ chức đơn thuần, nhưng là một sự hiệp
thông phẩm trật, giúp cho Hàng Giám Mục, hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, nắm
trọn quyền của Chúa Kitô được thông ban cho Giáo Hội.
"Giám-mục-đoàn
kế vị cộng đoàn Tông Đồ trong việc giáo huấn và chăn dắt. Chính trong
Giám-mục-đoàn mà cộng đoàn Tông Đồ được trường tồn. Hiệp nhất với Thủ lãnh, tức
Giáo Hoàng Rôma, và không bao giờ tách rời khỏi Thủ lãnh ấy, Giám-mục-đoàn cũng
có quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội, nhưng chỉ có thể thi hành
quyền này khi có sự ưng thuận của Giáo Hoàng Rôma" (GH 22). Bản văn này
rất quan trọng và phải được giải thích liên hệ với "chú thích sơ
khởi" do Đức Phaolô VI thêm vào. Chú thích này nhắc nhở cần phải có một sự
xác định thêm của giáo luật cho việc thi hành nhiệm vụ Giám Mục, tuy vẫn thừa
nhận nhiệm vụ này có một giá trị "hữu thể học" qua bí tích Truyền
Chức Thánh.
Khi phục vụ một
giáo phận, Giám mục phải nỗ lực xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, luôn nhìn tới
Giáo Hội toàn cầu. Trong giáo phận của mình, Giám mục không phải là đại diện
của Giáo Hoàng, nhưng là Đại-diện của Chúa Kitô, có quyền thông thường và trực
tiếp trên giáo phận (GH 27) do chính ý muốn của Chúa, tuy vậy lệ thuộc quyền
bính tối cao trong việc thi hành các quyền của của mình (ibid.). Giám mục làm
cho Chúa Kitô hiện diện trong giáo phận của mình. Ngài phải là dấu chỉ của Chúa
Kitô, Đấng thiết lập Giáo Hội.
–
Linh mục cũng là thừa tác
viên của Chúa Kitô, làm cho Ngài hiện diện nơi các tâm hồn và trong Giáo Hội.
Linh mục được xem xét không phải trong tương quan với Giám mục nhưng là với
Chúa Kitô (GH 28). Nguồn gốc của chức Linh Mục không phải ở nơi Giám mục nhưng
là nơi Chúa Kitô. Vào lúc phong chức, chính Chúa Kitô, Thừa-tác-viên chính, cho
linh mục dự phần vào sự hiến thánh và sứ vụ của mình, vào ba nhiệm vụ giáo
huấn, thánh hóa và lãnh đạo của mình. Như vậy, Linh mục cũng tham dự, tuy một
cách hạn chế, vào chính nhiệm vụ của Giám mục trong vai trò là mục tử.
Cũng như Đức Giáo
Hoàng và các Giám Mục, nhưng ở trong một mức độ thấp hơn và do sự ủy nhiệm,
Linh mục hành động với tư cách của Đức Kitô Thủ Lãnh Dân Chúa (in persona
Christi Capitis), thực sự tham dự vào quyền bính và ân sủng của Đầu. Ý tưởng
này được lấy lại và khai triển thêm trong Sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh
Mục, số 2.
Xét theo sự hình
thành đức tin và chuẩn bị dân Chúa, thì rao giảng Tin Mừng là nhiệm vụ hàng đầu
của Linh mục (LM 4), nhưng xét theo thứ tự hữu thể học của các giá trị, thì
nhiệm vụ cao quý nhất lại là cử hành hy tế. Hiến chế về Phụng Vụ thánh đã nhấn
mạnh điều này : Thánh lễ là nguồn mạch và tột đỉnh của mọi hoạt động trong Giáo
Hội. Thế nên nó phải có địa vị ưu tiên trong thừa tác vụ và đời sống Linh mục
(cũng như Giám mục). Nhiều bản văn khác của Công Đồng cũng nhắc nhở như vậy (vd
: LM 2 ; LM 5 ; PV 7).
Cũng như Giám mục,
Linh mục tiên vàn là tư tế cho Thiên Chúa. Tất cả việc rao giảng Tin Mừng đều
hướng tới chỗ quy tụ dân Chúa quanh Đức Kitô nơi bàn thánh.
–
Phó Tế : phải hiểu sứ vụ
và các nhiệm vụ của Phó tế trong sự nối dài các viễn tượng bí tích trên đây.
Nơi các Phó tế, quyền bính thuộc lãnh vực tế tự. Phó tế không phải là Linh mục,
nhưng giúp Linh mục và Giám mục trong cử hành Thánh Thể, chuẩn bị cho các tín
hữu tham dự Thánh Thể qua việc ban phép Rữa Tội, qua thừa tác vụ Lời Chúa, qua
hành vi bác ái thực hiện trong Dân Chúa.
Ơn gọi Phó tế bao
hàm một nhiệm vụ thánh mà giáo dân không có, đòi hỏi nơi đương sự một sự thánh
thiện vượt trên sự thánh thiện ngay cả của các hình thức đời sống tu trì. Phó
tế cũng là "thừa tác viên của Chúa Kitô", của bàn thờ và Tin Mừng, để
phục vụ Dân Chúa, trong sự hiệp thông với Giám mục và Linh-mục-đoàn (GH 29).
IV. Giáo dân
(ch. IV)
Sau khi bàn về phẩm
trật, Vatican II nói về thành phần đông đảo nhất làm nên Dân Thiên Chúa. Đó là
giáo dân. Trước đây ít có khảo luận nào về Giáo Hội đề cập bậc giáo dân. Quả là
điều thiếu sót, nhưng ta có thể hiểu lý do : những khảo luận ấy nằm trong viễn
tượng hộ giáo của thời Chống-Cải-cách đề cao giáo sĩ và quyền của giáo sĩ. Với
Công Đồng, vai trò của giáo dân được phục hồi. Giáo dân được đề cập như một yếu
tố chủ chốt của mầu nhiệm Giáo Hội. Có thể nói, nếu coi Vatican II như một Công
Đồng hướng về Giám-mục-đoàn thì đồng thời cũng là một Công Đồng thăng tiến giáo
dân.
Điều quan trọng là
phải khám phá sứ mệnh và sự cao cả của bậc giáo dân dựa vào chính sự thánh hiến
của họ trong phép Rửa Tội và Thêm Sức. Mọi kitô-hữu đều có ơn gọi làm tông đồ,
do sự kêu gọi trực tiếp và cá nhân của chính Chúa Kitô. Công Đồng viết :
"Các chủ chăn biết rõ giáo dân giúp ích rất nhiều cho toàn thể Giáo Hội.
các ngài biết rằng Chúa Kitô không đặt các ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả
sứ vụ cứu độ của Giáo Hội đối với thế giới. Nhưng nhiệm vụ cao cả của các ngài
là chăn dắt tín hữu và nhận biết các phận sự và đoàn sủng nơi họ, để mọi người
cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình" (GH 30).
Cả hàng giáo phẩm lẫn giáo dân đều được mời gọi xây dựng Nước Chúa.
Tiếp theo, Công
Đồng xác nhận chân tính và sứ mệnh của giáo dân : "đã được tháp nhập vào
Thân Thể Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự
vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của mình,
giáo dân là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô-giáo trong
Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình" (GH 31).
Ơn gọi riêng của giáo
dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa, đặc biệt bằng cách làm các việc trần thế và
xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. "Tính cách trần thế là tính cách riêng
biệt và đặc thù của giáo dân" (ibid.). Họ sống giữa thế giới, dấn thân vào
mọi bổn phận và trách nhiệm, trong điều kiện bình thường của đời sống gia đình
và xã hội. "Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh
thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành
những nhiệm vụ của mình ; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất
là bằng chứng từ đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác" (ibid.).
Sau khi nói đến sự
cao cả của giáo dân trong tư cách là con cái Thiên Chúa, Công Đồng cho biết họ
tham dự thế nào vào ba chức vụ của Đức Kitô, qua các hoạt động của họ trên thế
giới. Hoạt động tông đồ không phải là độc quyền của hàng giáo phẩm, nhưng là ơn
gọi của mọi kitô-hữu. "Chúa Kitô chu toàn chức vụ tiên tri (kể cả tư tế và
vương giả) không những nhờ hàng giáo phẩm ... nhưng cũng nhờ các giáo dân. Sở
dĩ Ngài đã đặt họ làm chứng nhân, đồng thời ban cho họ cảm thức đức tin và ơn
dùng ngôn ngữ, chính là để sức mạnh Phúc Âm sáng ngời trong đời sống thường
ngày, trong gia đình và ngoài xã hội" (GH 35).
Chương bàn về giáo
dân, một trong những bản văn Công Đồng hay nhất, kết thúc bằng lời khuyên nhủ :
"Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự Phục Sinh và
sự sống của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu chỉ của Thiên Chúa hằng sống ... Tóm
lại, ‘người kitô-hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác
sống’" (GH 38).
V. LỜi kêu gỌi nên thánh
(ch. V)
Với lời kêu gọi nên
thánh trong Giáo Hội, chúng ta đi vào những viễn tượng mới. Ít người nhận thức
được khía cạnh mới mẻ này, một khía cạnh chủ yếu có tính cách thiêng liêng của
mầu nhiệm Giáo Hội.
Được Chúa Thánh
Thần hướng dẫn, Vatican II đã khám phá ra hai cơ cấu nền tảng của Giáo Hội :
một cơ cấu phẩm trật và một cơ cấu khác có nguồn gốc Phúc Âm, do chính Chúa
Kitô thiết lập. Cơ cấu này không thuộc phẩm trật, nhưng có tính chất đoàn sủng
và Thần Khí. Đây là một cơ cấu thực sự, gắn liền với mầu nhiệm yếu tính, đời
sống và cứu cánh của Giáo Hội, một cơ cấu thuộc sự thánh thiện.
Trong Giáo Hội, tuy
chỉ có một sự thánh thiện, nhưng lại có hai con đường khác nhau. Một con đường
chung cho mọi người trong việc thực hành các nhân đức Kitô-giáo theo tinh thần
Bát Phúc. Một con đường của những người sống đời tận hiến đặc biệt cho Chúa qua
việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm.
Trong cách trình
bày này, Công Đồng muốn cho thấy một cơ cấu nền tảng của Dân Chúa là "dân
thánh". Giao Ước Sinai đã làm cho Dân Chúa thành một "dân được hiến
thánh", một "dân tư tế và vương giả", được kêu gọi sống thánh.
Thời Tân Ước, dân này không những phải sống thánh, mà còn phải sống thánh một
cách cao hơn, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa trong việc thực hành các lời
khuyên Phúc Âm qua một hình thức cam kết. Trong bài diễn từ kết thúc kỳ họp thứ
ba của Công Đồng, sau khi ca ngợi những thành quả tốt đẹp liên hệ đến việc
trình bày cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, Đức Phaolô VI nói tiếp : "Quả
thực, tất cả thực tại của mầu nhiệm Giáo Hội không được chứa đựng trong cơ cấu
phẩm trật, không phải trong phụng vụ hay các bí tích, cũng không phải trong các
quyết định luật pháp. Phải tìm kiếm yếu tính thâm sâu của Giáo Hội, nguồn mạch
chính yếu của hiệu năng thánh hóa của Giáo Hội, trong chính sự kết hợp nhiệm
mầu của Giáo Hội với Đức Kitô". Ngoài phẩm trật quyền bính còn có phẩm
trật tình yêu. Vượt lên trên cơ cấu phẩm trật các nhiệm vụ, còn có những cơ cấu
của sự thánh thiện. Những cơ cấu này hữu hiệu hơn trong việc thánh hóa các linh
hồn do sự kết hợp sống động với Đức Kitô.
Do đó, những gì bàn
về sự thánh thiện, là cứu cánh riêng và sự tinh túy của mầu nhiệm Giáo Hội, đều
rất quan trọng. Có thể coi đây là tột đỉnh của mầu nhiệm Giáo Hội.
Phải xem xét một
trật hai chương V và VI, không được tách rời chúng. Chương VI không có phần mào
đầu vì đã được nói trong phần dẫn nhập chương V. Phần này làm chúng ta nhớ đến
điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính : "Tôi tin Giáo Hội ... thánh
thiện". Nó cũng cho ta thấy một tổng hợp vắn tắt về sự thánh thiện của
Giáo Hội, phát xuất từ sự thánh thiện của Ba Ngôi, bao trùm toàn Nhiệm Thể, với
nhiều hình thức khác nhau, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, tùy theo ơn gọi
của mỗi người, và đạt tới tột đỉnh trong việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm.
Chương V chia thành
ba đoạn, bàn về : ơn gọi của mọi người là nên thánh (số 40) ; những khía cạnh
khác nhau của sự thánh thiện Kitô-giáo (số 41) ; yếu tính của sự thánh thiện là
yêu mến và thực hành các nhân đức (số 42).
1.
Lời mời gọi nên
thánh
Khi trình bày về sự
thánh thiện, một nhà tu đức hẳn sẽ định nghĩa sự thánh thiện và xác định những
hình thức thánh thiện Kitô-giáo. Vatican II không làm như vậy, nhưng đứng trên
bình diện mục vụ và hiện sinh để kêu gọi mọi người sống thánh, đi theo con
đường của các ngôn sứ trong Cựu Ước là những người không ngừng nhắc nhở cho dân
lệnh truyền của Giavê : "Hãy sống thánh vì Ta là Đấng Thánh".
Công Đồng đã nhấn
mạnh lời của chính Đức Giêsu kêu gọi dân mới : "Hãy nên hoàn thiện như Cha
các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Có hai lý do : vì Chúa
Thánh Thần được sai đến với các tâm hồn và vì phép Rửa Tội đòi phải sống thánh.
"Tất cả các kitô-hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu
gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô-giáo và đến sự trọn lành của đức
ái" (GH 40). Tất cả các con cái Chúa, do phép Rửa Tội và Thêm Sức, đều đi
vào cùng một sự thánh thiệu, đều được mời gọi sống thánh ở mức độ cao nhất. Chỉ
có phương thế đạt tới đó thì khác nhau, tùy theo ơn gọi của mỗi người.
2.
Những hình thức
khác nhau của sự thánh thiện
Trước hết, Công
Đồng nhắc cho mỗi hạng người trong Giáo Hội về ơn gọi nên thánh của họ, đặc
biệt là các Giám mục, vì do nhiệm vụ của mình, các ngài được mời gọi tới hình
thức cao nhất của sự thánh thiện, "theo hình ảnh của Đức Kitô, Thượng Tế
vĩnh cửu, Mục Tử và Giám Mục của mọi linh hồn" (GH 41).
Tiếp đến là những
hình thức thánh thiện chính khác : của linh mục, phó tế, các thừa tác viên cấp
dưới ; rồi của giáo dân, những người cộng tác vào tông-đồ-vụ của hàng giáo
phẩm, gồm các bậc vợ chồng và cha mẹ, những người góa bụa và độc thân, những
công nhân lao động, những người bị áp bức, những người chịu đau khổ vì phần rỗi
thế gian, những người nghèo đói, bệnh tật, chịu thử thách... (GH 41). Trong cuộc
sống hằng ngày, ai nấy đều cố gắng vươn tới sự hoàn thiện cao nhất, nhờ biết
phó thác hoàn toàn theo ý Chúa.
3.
Bản chất của sự
thánh thiện
Số cuối chương V
bàn về những con đường và những phương tiện nên thánh, tuy vắn tắt nhưng cho
thấy yếu tính của sự thánh thiện Kitô-giáo, đó là : sự ưu tiên của bác ái và sự
thực hành mọi nhân đức Kitô-giáo, mỗi người thi hành tùy theo bậc mình.
Một đoạn vắn mô tả
những con đường và phương tiện nên thánh, dựa trên động lực là bác ái, cốt tủy
của Tin Mừng và của sự thánh thiện : "Đức ái làm cho chúng ta yêi mến
Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì Ngài. Nhưng để đức ái, tựa
như hạt giống tốt, lớn lên trong tâm hồn và kết sinh hoa trái, mỗi người tín
hữu phải sẵn lòng lo lắng nghe Lời Chúa, và, với ơn Ngài, thực hành thánh ý
Ngài ; phải năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, năng tham dự
các nghi lễ phụng vụ, chuyên cần cầu nguyện, từ bỏ mình, nhiệt thành phục vụ
anh em và chuyên cần luyện tập các nhân đức. Thực thế, đức ái là mối dây liên
kết của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật (x. Cl 3,14 ; Rm 13,10) nên
đức ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho chúng hình thành và đạt được
cùng đích. Vì thế đức ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là dấu chỉ người môn đệ
chân chính của Chúa Kitô" (GH 42).
Để kết thúc chương
này, Công Đồng cho thấy ba trường hợp trổi vượt của sự thánh thiện : tử đạo,
đồng trinh và đời sống tu trì.
VI. ĐỜi sỐng tu trì (ch.
VI)
Đời sống tu trì
được coi như chóp đỉnh của đời sống Kitô-giáo, phát huy tất cả tiềm năng của
phép Rửa Tội. Việc thiết lập trong Giáo Hội một con đường đặc biệt để nên thánh
bằng việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, là dựa trên chính lời nói và gương
mẫu của Chúa (GH 43).
Đây là một bậc sống
ổn định nhờ các lời khấn. Số 44 rất quan trọng, nói lên bản chất và những đặc
điểm của đời sống tu trì. Công Đồng nhấn mạnh năm khía cạnh :
–
Khía cạnh quy thần : tu sĩ
tận hiến cho Thiên Chúa tất cả con người và hành động như một của lễ tình yêu.
Đó là yếu tính của mọi đời sống tu trì : "Người môn đệ Chúa Kitô tự buộc
mình tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm bằng lời khấn hoặc bằng những ràng buộc
thánh khác ... Nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự
và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ đặc biệt".
Từ khía cạnh quy
thần trên, đời sống tu trì cho thấy bốn đặc điểm chủ yếu trên các bình diện tu
đức, tông đồ, minh giáo và cánh chung.
–
Khía cạnh tu đức :
"đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô", muốn theo gương Ngài sát hơn để
tìm vinh danh Thiên Chúa và sự cứu rỗi các linh hồn.
–
Khía cạnh tông đồ cho thấy
sự phong phú thiêng liêng của đời sống này trên toàn thể Giáo Hội.
–
Khía cạnh minh giáo cho
thấy đời sống tận hiến là một đời sống làm chứng cho Thiên Chúa và cho sự thánh
thiện của Giáo Hội.
–
Khía cạnh cánh chung :
việc từ bỏ của cải trần gian là dấu chỉ tiên báo đời sống mai hậu, đời sống
vĩnh cửu, trong đó chỉ còn việc chiếm hữu một mình Thiên Chúa.
Kết thúc số 44,
Hiến chế nói rõ : "Bậc sống được thiết lập do việc tuyên các khuyên
Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, nhưng gắn chặt
với đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội". Giáo quyền có vai trò phê
chuẩn, bảo trợ, nhận lời khấn của mọi hình thức tu trì (GH 45).
Đời sống tu trì
thật cao cả và tuyệt vời vì : biểu dương Chúa Kitô một cách đặc biệt ; làm
triển nở đích thực nhân cách của con người khi nó thực hiện những điều kiện
bình thường của sự phát triển, nếu không, nó có nguy cơ làm cho tu sĩ trở thành
ấu trĩ ; sự hiện diện tinh thần giữa thế giới qua các hoạt động tông đồ hay
chiêm niệm, giúp cho tâm hồn tu sĩ hiện diện trong trái tim Đức Kitô và giữa
lòng Giáo Hội (GH 46).
Để kết luận, Công
Đồng kêu mời tu sĩ bền đỗ trong ơn gọi, không ngừng tiến bộ "để làm cho sự
thánh thiện của Giáo Hội thêm phong phú hơn và sự vinh hiển của Thiên Chúa Ba
Ngôi duy nhất và bất phân thêm cao cả hơn ; Ba Ngôi chính là Nguồn Mạch và
Nguồn Gốc của sự thánh thiện, trong và nhờ Chúa Kitô" (GH 47).
VII. Giáo HỘi lỮ hành và Giáo HỘi
vĩnh cỬu (ch. VII)
Được đức tin hướng
dẫn và trong đức cậy, Giáo Hội tiến về ngày của Đức Kitô, ngày ghi dấu chiến
thắng cuối cùng của Thiên Chúa lúc thời gian kết thúc. Hơn bất cứ một Công Đồng
chung nào trước đây, Vatican II đã nhận ra một cách sắc bén đặc tính mau qua
của thế giới này. Giáo Hội lữ hành trên trần gian, tiến về quê hương vĩnh cửu
để được sống trong vinh quang của Thiên Chúa.
Đức Gioan XXIII đã
minh nhiên ước muốn có chương bàn về Giáo Hội vinh thắng này, để cho mọi người
thấy những chiều kích đích thực của Giáo Hội, những chiều kích không giới hạn
trong không gian và thời gian. Ý nghĩa cánh chung của Giáo Hội đã từng được nói
đến trong những khảo luận mới nhất về mầu nhiệm Kitô-giáo, nay được đưa vào
trong các bản văn Công Đồng. Giáo Hội lữ hành và chiến đấu chỉ là một phần của
Giáo Hội của Chúa, siêu việt trên lịch sử nhân loại, được mời gọi tham dự vào
sự vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Trong cuộc lữ hành
tại thế, dù mò mẫm trong sự mờ tối của đức tin, Giáo Hội đã thực sự hiệp thông
với những anh chị em đã đi trước. Chỉ có một Giáo Hội duy nhất với ba thành
phần, tách biệt nhau nhưng liên kết với nhau nhờ Thần Khí, trong mầu nhiệm các
thánh thông công. "Có những người còn đang hành trình nơi trần gian, có
những người đã kết thúc cuộc đời này và đang được tinh luyện, và có những người
được hiển vinh và đang chiêm ngưỡng Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi" (GH
49). Tất cả những ai thuộc về Đức Kitô và nhận lãnh Thánh Thần của Ngài, đều
họp thành một Giáo Hội duy nhất và liên kết với nhau trong Ngài (x. Ep 4,16).
Để kết thúc cả
chương này, Công Đồng khẳng định : "Khi hiệp thông với nhau trong tình bác
ái và trong việc đồng thanh ca tụng Thiên Chúa, chúng ta được tham dự và cảm
nếm trước phụng vụ vinh hiển toàn hảo" (GH 51,b), tức là đã bắt đầu cuộc
sống vinh quang.
VIII. ĐỨc Maria trong mẦu nhiỆm Chúa
Kitô và Giáo HỘi (ch. VIII)
Phần trình bày mầu
nhiệm Giáo Hội kết thúc bằng một tổng hợp về mầu nhiệm Đức Maria, được coi như
chóp đỉnh và hoàn tất cho mầu nhiệm Giáo Hội, như chính Đức Phaolô VI nói.
Trong bài diễn từ bế mạc kỳ họp thứ ba, ngài ghi nhận rằng đây là lần đầu tiên
một Công Đồng chung "đưa ra một tổng hợp lớn của giáo lý công giáo về chỗ
đứng của Đức Maria trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội".
Vatican II đã
chuyển mầu nhiệm Đức Maria từ bình diện sùng kính sang bình diện lịch sử cứu
độ. Mầu nhiệm này gắn liền với mầu nhiệm Chúa Kitô nên cũng gắn liền với nhiệm
cục cứu độ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ cái nhìn của Giáo Hội về mầu nhiệm này
lại phong phú như vậy. Từ đây, thần học về Đức Maria đều phải dựa vào đó.
Trong lịch sử, nếu
Êphêsô được coi là Công Đồng đề cao tư cách của Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, thì
Vatican II mãi mãi sẽ là Công Đồng đề cao tư cách của Người là Mẹ thiêng liêng.
Giữa việc định tín tước hiệu "Mẹ Thiên Chúa" và việc long trọng công
bố tước hiệu "Mẹ Giáo Hội", có sự liên tục và duy nhất. Đức Maria là
Mẹ Giáo Hội vì là Mẹ Thiên Chúa. Người là Mẹ của Đầu thì cũng là Mẹ của Thân
Thể.
1.
Đức Maria trong
nhiệm cục cứu độ
Để nói về mầu nhiệm
Đức Maria, Vatican II đã chọn phương pháp khách quan nhất, dễ được mọi người
chấp nhận nhất, đó là dựa trên kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, theo viễn tượng
Kinh Thánh, vì chính Kinh Thánh mạc khải ý tưởng trung thực nhất của Thiên
Chúa, với điều kiện phải đọc Kinh Thánh theo sự hướng dẫn của Giáo Hội.
"Kinh Thánh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, và Thánh Truyền đáng kính, trình
bày ngày một sáng tỏ hơn vai trò của Mẹ Đấng Cứu Thế trong nhiệm cục cứu độ và
đưa vai trò ấy ra cho chúng ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách Cựu Ước thuật lại
lịch sử cứu độ, trong đó ngày Chúa Kitô xuất hiện trên thế giới được chuẩn bị
cách tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc và về sau hiểu
theo ánh sáng mạc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh của
người nữ, Mẹ Đấng Cứu Thế" (GH 55). Phần trình bày về mầu nhiệm Đức Maria
chính là áp dụng phương pháp cơ bản trên đây.
Dựa vào Kinh Thánh,
Công Đồng cho thấy Đức Maria đã được tiên báo qua hình ảnh người Đàn Bà chiến
thắng Satan nói trong sách Sáng Thế (3,15). Đoạn văn "tiền Phúc Âm"
(protévangile) này xác định vị trí của Đức Maria trong bối cảnh toàn thể nhân
loại sa ngã và nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa. Đây là cách tốt nhất dẫn vào
mầu nhiệm Đức Maria. Công Đồng cũng gợi lại hình ảnh người phụ nữ sinh con
trong Is 7,14 và Mk 5,2.
Quả thực, Đức
Maria, người thiếu nữ tuyệt với của Sion, được coi như tột đỉnh của niềm mong
đợi Đấng Cứu Thế, được Thiên Chúa tuyển chọn để bảo đảm sự chuyển tiếp giữa Cựu
Ước và Tân Ước "sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực hiện", khi
"nhiệm cục mới được thiết lập, lúc mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân
loại nơi Người để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ mầu nhiệm của xác thịt
Chúa" (GH 55).
Công Đồng đề cập
mầu nhiệm Đức Maria trong hai khía cạnh : khía cạnh tín điều nói lên những
tương quan của Người với Chúa Giêsu (GH 55-59) và với Giáo Hội (GH 60-65) ;
khía cạnh phụng vụ và đạo đức về việc tôn sùng Người (GH 66-68).
a)
Đức Maria và Chúa
Kitô
Đây là phần quan
trọng nhất, cho ta thấy Đức Maria liên kết với tất cả các mầu nhiệm của Chúa
Kitô, nhất là với ba thời điểm lớn của lịch sử cứu độ là Nhập Thể, Cứu Chuộc và
Hiện Xuống.
Trung thành với
truyền thống giáo phụ, Công Đồng nhấn mạnh lúc Ngôi Lời Nhập Thể cũng như tầm
quan trọng phổ quát của lời thưa "Xin Vâng" trong sự hoàn tất mầu
nhiệm Cứu Chuộc. Quả thực, theo ý định của Thiên Chúa, việc cứu độ thế giới gắn
liền với lời thưa này của Đức Maria. "Như thế, Đức Maria, con cháu Ađam,
vì chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định
cứu rỗi của Thiên Chúa ... Đức Maria đã tự hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho
thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng,
phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các thánh
Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng : Đức Maria không phải là một dụng cụ thuần túy
thụ động trong bàn tay Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài tự do cộng tác
vào công việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài"
(GH 56).
Công Đồng còn cho
thấy vai trò của Đức Maria trong cuộc đời thơ ấu và công khai của Chúa, nhưng
nhất là hình ảnh của Đức Maria dưới chân Thập Giá "nơi mà theo ý Thiên
Chúa, Ngài đã đứng ở đó, đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của mình và dự
phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến
tế lễ vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng, chính Chúa Giêsu-Kitô khi hấp hối
trên Thập Giá đã trối Ngài làm Mẹ của môn đệ qua lời này : Thưa Bà, này là con
Bà ! " (GH 58).
Sau cùng là hình
ảnh của Đức Maria sau khi Chúa sống lại và lên trời, cùng với các Tông Đồ cầu
xin Thiên Chúa ban Thánh Thần. Và khi chấm dứt cuộc đời trần gian, Đức Maria
"được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, được Thiên Chúa
tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các
chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết" (GH 59).
b)
Đức Maria và Giáo
Hội
Tiếp theo tương
quan với Chúa Kitô là tương quan với Giáo Hội. Thực ra, tương quan này chỉ
thuần túy nối dài tương quan với Chúa Kitô, do sự duy nhất bất khả phân chia
của Chúa Kitô toàn thể.
Trong Giáo Hội, Đức
Maria tiên vàn là một người Mẹ. "Từ muôn đời, Đức Nữ Trinh đã được tiền
định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa
... Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế...,
để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân
sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta" (GH 61).
Nền tảng của mẫu
tính thiêng liêng này chính là tư cách làm Mẹ Thiên Chúa và vai trò là người
cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa Kitô. Chưa bao giờ có một tài liệu Huấn
Quyền nào đã minh nhiên và mạnh mẽ nói lên nguyên lý liên kết này.
Mẫu tính thiêng
liêng này, Đức Maria vẫn không ngừng tiếp tục thi hành : "Sau khi về trời,
vai trò của Ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục cầu
bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời.
Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên
dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh
phúc quê trời" (GH 62).
Không những là Mẹ
Giáo Hội, Đức Maria còn là "khuôn mẫu của Giáo Hội", theo kiểu nói
của thánh Ambrôsiô được Công Đồng trích dẫn. Cũng như Đức Maria và theo gương
Người, Giáo Hội vừa là trinh nữ vừa là mẹ. Đức Maria còn là một tấm gương lý
tưởng, một kiểu mẫu nhân đức cho Giáo Hội.
2.
Việc tôn kính Đức
Maria
Phần II của chương
VIII bàn về việc tôn kính Đức Maria. Vatican II cho thấy bản chất, nền tảng,
tinh thần của việc tôn kính này (GH 66), đưa ra những chỉ dẫn thực hành giúp
cho việc học hỏi và giảng thuyết về Đức Maria, sao cho tâm hồn các tín hữu vẫn
hướng về Chúa Kitô.
Việc tôn kính đích
thực trước hết phải dựa trên tư cách của Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, trên các
đặc ân Thiên Chúa ban cho Người ; không dựa trên tình cảm, nhưng trên ánh sáng
đức tin. Phải tránh mọi hình thức thái quá hoặc bất cập.
Đoạn II : Khía cẠnh mỤc vỤ
Sau khi bàn về khía
cạnh tín lý của mầu nhiệm Giáo Hội, Vatican II đưa ra những chỉ dẫn mục vụ dựa
vào khía cạnh ấy. Tín lý chi phối luân lý và những áp dụng thực hành. Nhãn quan
mới của Công Đồng về Giáo Hội lôi kéo theo một loạt những Sắc Lệnh và Tuyên
Ngôn nhằm hướng dẫn đời sống cụ thể hằng ngày của Giáo Hội trong thế giới hôm
nay, vừa giúp canh tân dân Chúa (ad intra), vừa tạo điều kiện đối thoại với mọi
người (ad extra).
I.
PhỤng vỤ cỦa Dân Chúa
Công Đồng quả có lý
khi ban hành văn kiện đầu tiên là Hiến chế về Phụng Vụ Thánh, bởi không gì có
thể diễn tả tốt hơn cho thế giới bản tính thâm sâu và sứ mạng đầu tiên của Giáo
Hội là tôn vinh Thiên Chúa, đưa dẫn người ta đến với Chúa Kitô, bằng sự thông
hiệp vào mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngay từ đầu, Công Đồng đã mạnh mẽ nhắc
nhở rằng đời sống Kitô-giáo tiên vàn là ở chỗ đồng hình với Đức Kitô Tử Nạn và
Phục Sinh.
Nhưng tại sao Công
Đồng lại khởi sự công trình canh tân Giáo Hội từ bên trong bằng phụng vụ ? Có
nhiều lý do lịch sử. Đặc biệt phong trào phụng vụ trước Công Đồng cùng với
những nghiên cứu, hội nghị và kinh nghiệm mục vụ đã làm cho tiến trình được
chín mùi. Hiến chế về Phụng Vụ Thánh hoàn tất cho tiến trình này.
Tuy vậy, còn có một
lý do sâu xa hơn. Trong Giáo Hội, phụng vụ là công trình tuyệt hảo của Thiên
Chúa, trong đó Thiên Chúa được tôn vinh nhất và con người được thánh hóa nhất.
Trong bài Diễn từ bế mạc kỳ họp thứ hai, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh địa vị tối
cao của phụng vụ trong đời sống Giáo Hội cũng như trong bậc thang các giá trị :
Thiên Chúa phải trên hết ; cầu nguyện là bổn phận đầu tiên của chúng ta ; phụng
vụ là nguồn mạch đầu tiên của cuộc trao đổi qua đó sự sống Thiên Chúa được ban
cho ta ; phụng vụ là trường huấn luyện đời sống thiêng liêng ; phụng vụ là ân
huệ đầu tiên được ban cho dân Chúa ; phụng vụ là lời mời gọi đầu tiên được gửi
đến cho con người ...
Được Chúa Thánh
Thần thúc đẩy, Công Đồng đã bắt tay ngay vào công trình chính yếu của Giáo Hội
: tôn vinh Chúa Cha và Ba Ngôi bằng mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành đặc biệt
trong hy tế Thánh Thể là chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội và trung tâm của phụng
tự Kitô-giáo.
Hy tế của Đức Kitô
là hành động cao cả nhất mà Giáo Hội có thể cử hành. Ở đây, chúng ta đạt tới
chóp đỉnh của bậc thang các giá trị. "Vì là công việc của Chúa Kitô Tư Tế
và của Thân Thể Người là Giáo Hội, mọi cử hành phụng vụ đều là hành động thiêng
thánh, và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về
danh hiệu lẫn đẳng cấp" (PV 7). Vatican II cũng đã phục hồi địa vị trung
tâm của mầu nhiệm Vượt Qua trong nhiệm cục cứu độ. Trong hiến tế tạ ơn,
"tất cả công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (PV 2), vì hiến
tế này đem lại cho con người những ơn ích của việc cứu chuộc.
Công Đồng còn khẳng
định thêm : "Phụng vụ là tột đỉnh (culmen) quy hướng mọi hoạt động của
Giáo Hội, đồng thời là nguồn mạch (fons) tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội...
Phụng vụ, nhất là Lễ Tạ Ơn, như là nguồn mạch chảy tràn ân sủng vào trong chúng
ta và làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách hữu hiệu, đồng
thời Thiên Chúa được vô cùng tôn vinh ; đó là điều mà mọi công việc khác của Giáo
Hội đều phải quy hướng về như là cứu cánh" (PV 10).
Dựa vào thông điệp
Đấng Trung Gian (Mediator Dei) của Đức Piô XII, Vatican II đã định nghĩa phụng
vụ như là sự thực hành chức tư tế của Đức Kitô qua thừa tác vụ của Giáo Hội.
"Phụng vụ đáng được coi là việc thực thi chức tư tế của chính Chúa Kitô,
trong đó, nhờ những dấu chỉ khả giác, sự thánh hóa con người được biểu thị và
được thể hiện cách khác nhau theo từng dấu chỉ, và việc phụng tự công toàn vẹn
được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là gồm cả Đầu cùng các chi thể của
Người" (PV 7).
Qua các nghi thức
và biểu tượng, mọi thành phần trong dân Chúa, dù là linh mục, tu sĩ hay giáo
dân, phải ưu tiên làm lộ ra sự hiện diện của Chúa Kitô trong cộng đoàn phụng
vụ. Mọi canh tân và thích nghi trong phụng vụ đều nhằm giúp cho dân Chúa có thể
tham dự phụng vụ cách hành động, tích cực và hữu hiệu.
Chắc chắn, phụng vụ
không làm trọn mọi hoạt động của Giáo Hội (PV 9), nhưng nó là thành phần cao cả
và phong phú nhất.
Bởi vậy, trước khi
bàn về bản chất thâm sâu cũng như hoạt động tông đồ của Giáo Hội, Vatican II đã
ưu tiên bàn về phụng vụ, dạy Giáo Hội cầu nguyện. Qua đó, Công Đồng đã thực
hiện nhiệm vụ cấp bách nhất của công cuộc canh tân là đặt con người đối diện
với Thiên Chúa trong kinh nguyện.
II.
Giáo HỘi Đông Phương và Tây Phương
Đối với nhiều Nghị
Phụ, một trong những khám phá lớn ở Vatican II là sự hiện diện của Giáo Hội
Đông Phương công giáo. Tuy chỉ có số tín hữu ít ỏi, nhưng đây là một Giáo Hội
rất đáng kính do nguồn gốc, truyền thống và tập tục. Công Đồng đã dành riêng
cho Giáo Hội này một Sắc lệnh, nhằm giúp cho Tây Phương hiểu hơn mầu nhiệm Giáo
Hội, một mầu nhiệm vừa duy nhất vừa đa diện, đồng thời cũng giúp tiếp cận dễ
dàng hơn với các Giáo Hội Đông Phương ly khai.
Trong Lời mở đầu và
đoạn I của Sắc Lệnh, Công Đồng nhấn mạnh sự duy nhất của một Giáo Hội Chúa
Kitô. Sắc lệnh mở đầu bằng những lời lẽ đầy tình huynh đệ : "Giáo Hội công
giáo rất mực tôn trọng những nghi lễ phụng vụ, truyền thống giáo thuyết và quy
luật của đời sống Kitô-giáo nơi các Giáo Hội Đông Phương công giáo. Thật vậy,
truyền thống từ các Tông Đồ qua các Giáo Phụ vẫn được sáng tỏ nơi các Giáo Hội
vốn nổi danh nhờ sự cổ kính đáng mộ mến ấy. Chính Truyền-thống này tạo nên một
phần mạc khải của Thiên Chúa và một phần gia sản nguyên tuyền của toàn thể Giáo
Hội. vì thế, trong niềm ưu ái đối với các Giáo Hội Đông Phương là những chứng
tá sống động của Truyền-thống trên, Thánh Công Đồng này ước mong các Giáo Hội
ấy được thịnh vượng và biết chu toàn phận vụ đã được trao phó với tinh thần tông
đồ hăng say mới mẻ" (ÐP 1).
Tiếp đến, trong sáu
đoạn, Công Đồng nói về :
–
Bản chất và vai trò của
các Giáo Hội địa phương giữa lòng Giáo Hội phổ quát, đặc biệt sứ mệnh của các
Giáo Hội Đông Phương, "dưới quyền cai quản mục vụ của Giáo Hoàng
Rôma" (ÐP 3).
–
"Giáo Hội Đông Phương
cũng như Tây Phương đều có quyền lợi và bổn phận tuân theo những quy luật riêng
của mình, vì những quy luật này có giá trị nhờ ở đặc tính cổ kính đáng quý
trọng, phù hợp hơn với các tập tục của các tín hữu và xem ra có thể mưu ích cho
các linh hồn cách hữu hiệu hơn" (ÐP 5).
–
"vì thể chế Thượng
Phụ là hình thức cai trị cổ truyền nơi các Giáo Hội Đông Phương, nên Thánh Công
Đồng Chung hết sức mong ước thiết lập thêm những Tòa Thượng Phụ khi cần. Việc
thiết lập này được dành cho Công Đồng Chung hay Giáo Hoàng Rôma" (ÐP 11).
Hai đoạn kế tiếp
xác định kỷ luật mới về bí tích (ÐP 12-18) và về việc cử hành phụng tự thánh
(ÐP 19-25).
Đoạn cuối cùng cho
thấy tinh thần đại kết của Vatican II, khi hướng các Giáo Hội Đông Phương công
giáo nhìn tới các Giáo Hội Chính-thống ly khai.
III. NhiỆm
vỤ mỤc vỤ cỦa các Giám MỤc
Mối quan tâm chính
của Vatican II là canh tân cơ cấu Hàng Giám Mục và tinh thần Phúc Âm của các
thủ lãnh Dân Chúa. Nói chung, Hàng Giám Mục thực sự xứng đáng với ơn gọi của
mình, cho dù trong lịch sử, từng nơi và từng thời, không phải tất cả đều tốt
đẹp.
Là những người kế
vị các Tông Đồ, quy tụ quanh Đức Giáo Hoàng, các Giám mục có sứ mệnh cùng nhau
hoạt động cho ơn cứu độ của mọi người. Để làm công việc này, các ngài phải
tương trợ lẫn nhau về tinh thần cũng như về vật chất. Vatican II đã khơi dậy
nơi các ngài ý thức trách nhiệm tập thể về Giáo Hội toàn cầu, mở ra một viễn
ảnh về nhiều việc có thể làm trong tương lai.
Lần đầu tiên trong
lịch sử các Công Đồng, sứ mệnh phục vụ Giáo Hội toàn cầu chiếm vị trí hàng đầu
trong nhiệm vụ mục vụ của Giám mục. Đó là điều được nói ngay trong Lời mở đầu
và chương I : "Các Giám mục, những người chia sẻ sự quan tâm của tất cả
các Giáo Hội, thi hành nhiệm vụ mà các ngài đã lãnh nhận do việc tấn phong Giám
mục, trong sự hiệp thông và dưới quyền Đức Giáo Hoàng, đối với những gì thuộc
quyền giáo huấn và quyền cai quản mục vụ ; tất cả các ngài họp thành
Giám-mục-đoàn đối với toàn thể Giáo Hội Chúa" (GM 3). "Từng Giám mục
thi hành nhiệm vụ ấy trên phần đoàn chiên Chúa đã được chỉ định cho mình, mỗi
vị coi sóc một Giáo Hội địa phương được ủy thác cho mình hoặc đôi khi vài vị
cùng nhau lo cho một số nhu cầu chung của nhiều Giáo Hội khác nhau"
(ibid.).
Sự phân biệt giữa
việc thi hành "cách tập-đoàn" và "cách cá nhân" rất quan
trọng. Giám mục thi hành quyền bính "cách tập-đoàn" trên
toàn thể Giáo Hội và "cách trọng thể trong Công Đồng Chung"
(GM 4). "Các Giám mục trên khắp thế giới, hiệp thông với Đức Giáo Hoàng,
còn có thể thi hành quyền tập-đoàn ấy, khi Thủ lãnh Giám-mục-đoàn mời gọi các
ngài hành động cách tập-đoàn, hay ít ra khi ngài ưng thuận hoặc tự do chấp nhận
hành động chung của các Giám mục rải rác để làm cho nó trở thành một hành động
thực sự có tính cách tập-đoàn" (ibid.). Ngoài ra, còn có thể chế Thượng hội
đồng Giám mục quy tụ một số Giám mục được tuyển chọn, "đóng vai trò của
toàn thể Hàng Giám Mục công giáo, đồng thời nói lên rằng tất cả các Giám mục,
trong sự hiệp thông phẩm trật, cùng chia sẻ mối quan tâm của toàn thể Giáo
Hội" (GM 5).
Như vậy, viễn tượng
mới về chức Giám mục cho thấy : các ngài "là những người kế vị hợp pháp
các Tông Đồ và là thành viên của Giám-mục-đoàn, liên kết với nhau, cùng nhau lo
lắng cho tất cả Giáo Hội, mỗi vị, cùng với các Giám mục khác, phải là người có
trách nhiệm với cả Giáo Hội" (GM 6).
Trong giáo phận của
mình, "dưới quyền Đức Giáo Hoàng", Giám mục là Thủ lãnh Dân Chúa, là
nguyên lý của sự liên kết và hợp nhất, là Mục tử riêng, thông thường và trực
tiếp, có nhiệm vụ giáo huấn, thánh hóa và lãnh đạo.
Xét theo khía cạnh
nguyên ủy của đức tin thì nhiệm vụ hàng đầu của Giám mục là rao giảng Tin Mừng.
Các ngài có sứ mệnh trình bày cho con người "mầu nhiệm toàn vẹn của Đức
Kitô" (GM 12) và chiếu ánh sáng của Giáo Hội trên mọi vấn đề của con người
(ibid.).
Nhưng trên tất cả,
Giám mục là Thượng Tế "được chọn giữa loài người ... để dâng của lễ và lễ
vật hy sinh đền tội" (GM 15), "là những người phân phát chủ yếu các
mầu nhiệm của Thiên Chúa và là những vị điều hành, cổ võ, bảo vệ toàn thể đời
sống phụng vụ trong Giáo Hội đã được trao phó" (ibid.), "lo cho các
tín hữu thấu hiểu và sống sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua" (ibid.). "Là
những người có nhiệm vụ giúp người khác nên trọn lành, các Giám mục phải nhiệt
thành thúc đẩy các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân của mình sống thánh thiện ... hết
sức cổ võ ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ, nhất là lưu tâm đến ơn gọi truyền
giáo" (ibid.).
Trong vai trò là
người cha và chủ chăn, Giám mục sống giữa dân như là người phục vụ, như người
chủ chăn hiền từ biết các chiên, như người cha đích thực tỏ lòng yêu thương và
lo cho các con cái ; yêu mến các linh mục, coi họ như những người con, người
bạn. Sự quan tâm mục vụ của ngài phải hướng tới cả những người không tin và mọi
người khác (GM 16).
Giám mục "phải
thích nghi đúng mức các hình thức hoạt động tông đồ với những nhu cầu hiện đại,
quan tâm tới những hoàn cảnh của con người, không những về điều kiện tinh thần
và luân lý, mà cả hoàn cảnh xã hội, dân số và kinh tế nữa" (GM 17).
Để bảo đảm hiệu quả
tối đa cho việc tông đồ, các Hội Đồng Giám Mục cần nghiên cứu những vấn đề cấp
bách nhất (GM 18) và hành động hài hòa với nhau trong một mục vụ toàn bộ.
Các cơ cấu giáo
phận và giáo phủ cần được duyệt lại không những theo chiều hướng hành chánh mà
tiên vàn theo chiều hướng tông đồ, phối hợp các linh mục triều cũng như dòng
trong một Linh-mục-đoàn duy nhất và trong tình bằng hữu huynh đệ.
Có điều lạ là Sắc
lệnh không dành một phần đặc biệt nào để xác định mối tương quan giữa Giám mục
và giáo dân, đang khi giáo dân chiếm tới 99% Dân Chúa. Có những vấn đề cơ bản
về cơ cấu và cộng tác tông đồ mà thời kỳ hậu-Công Đồng không thể không lưu ý,
vì tương lai của Giáo Hội tùy thuộc vào đó. Tuy vậy, xét toàn bộ, phải nhận
rằng Vatican II đã dành một vị trí cho giáo dân.
IV. ThỪa
tác vỤ và đỜi sỐng Linh MỤc
Chỉ một mình Đức
Giáo Hoàng không thể đáp ứng mọi nhu cầu của cả Giáo Hội. Cần có sự cộng tác
của Hàng Giám Mục trên toàn thế giới. Cũng vậy, một Giám mục không thể tự mình
chu toàn nhiệm vụ mục vụ trong cả giáo phận. Cần có sự cộng tác của hàng linh
mục. Hơn bao giờ hết, vai trò của các linh mục là thiết yếu trong Giáo Hội.
Vatican II đã thấy
rõ điều đó. Bởi vậy, để bù đắp vào phần nhỏ nhoi nói về linh mục trong Hiến chế
tín lý về Giáo Hội, Công Đồng đã soạn thảo riêng một Sắc lệnh trình bày chức
Linh Mục trong những tương quan cơ bản với Đức Kitô, với Giám mục, với
Linh-mục-đoàn và với các tín hữu khác trong Dân Chúa.
Các Nghị Phụ đã
hiểu vai trò của các linh mục như những cộng-tác-viên bất khả thay thế, giúp
các ngài chu toàn nhiệm vụ. Thế nên, vào tháng 10.1964, các ngài đã không chấp
nhận một lược đồ quá sơ sài về thừa tác vụ và đời sống linh mục. Ủy vụ chuyên
trách đã phải làm việc lại, nhờ đó mới có được bản văn Sắc lệnh như hiện có,
giống như một hiến chương mới về chức Linh Mục, hài hòa với Hiến chế về Giáo
Hội, nêu lên một giáo thuyết sâu sắc và minh nhiên phù hợp với những đòi hỏi
của thực tế và hoạt động của linh mục hôm nay. Có những yếu tố nền tảng của
thần học về chức Linh mục thừa tác, làm nổi bật vai trò của linh mục trong Giáo
Hội.
Có thể quy giáo
huấn của Công Đồng về ba viễn tượng sau đây, bổ túc cho nhau, tương ứng với ba
chương của Sắc lệnh :
–
Sứ mệnh của linh mục trong Giáo Hội, tiếp nối
sứ mệnh của Đức Kitô và các Tông Đồ.
–
Thừa tác vụ của linh mục
trong Giáo Hội, nối dài thừa tác vụ của Đức Kitô, các Tông Đồ và các Giám mục,
nhờ thi hành cùng những nhiệm vụ ngôn sứ, tư tế và vương giả, để dẫn đưa mọi
người đến cùng Thiên Chúa.
–
Sự thánh thiện của linh
mục, noi gương Đức Kitô là Thầy, Linh Mục và Vua.
Cần suy đi ngẫm lại
Sắc lệnh này để thấy rõ lý tưởng cao vời của chức Linh Mục. "Thi hành chức
vụ của Chúa Kitô là Đầu và là Chủ Chăn theo phận vụ mình, các linh mục nhân
danh Giám mục tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất,
và nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha"
(LM 6).
Sứ mệnh của linh
mục không chỉ liên hệ tới từng người, nhưng tới tất cả cơ cấu xã hội, trong mọi
lãnh vực, cả quốc gia lẫn quốc tế : "Nhiệm vụ của chủ chăn không phải chỉ
thu hẹp trong việc coi sóc từng cá nhân tín hữu, nhưng còn lan rộng tới việc
huấn luyện một cộng đoàn kitô-hữu đích thực. Muốn thế, tinh thần cộng đoàn đích
thực này phải bao gồm không những Giáo Hội địa phương mà cả Giáo Hội phổ quát
nữa. Vì thế, cộng đoàn địa phương không những phải lưu tâm đến việc chăm sóc
các tín hữu của mình, nhưng một khi đã thấm nhuần nhiệt tâm truyền giáo, còn
phải dọn đường cho mọi người đến với Chúa Kitô" (ibid.).
Linh mục không chỉ
dành cho một giáo xứ hay một giáo phận, mà còn cho toàn thế giới. Phải phân
biệt việc nhập tịch vào một giáo phận với sứ mệnh hướng tới sự cứu độ toàn thế
giới, theo cái nhìn của Đức Kitô. "Ân huệ thiêng liêng mà các linh mục đã
nhận lãnh trong khi chịu chức, chuẩn bị cho các ngài không phải cho một sứ mệnh
giới hạn và thu hẹp nào đó, nhưng cho một sứ mệnh cứu rỗi rất rộng lớn và bao
quát ‘đến tận cùng trái đất’ (Cv 1,8), vì bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng
đều tham gia vào sứ mệnh rộng lớn và bao quát mà Chúa Kitô đã trao phó cho các
Tông Đồ. Thực vậy, chức Linh Mục của Chúa Kitô mà các linh mục được tham dự,
cần phải hướng về mọi dân nước và mọi thời đại, không bị hạn chế bởi một ranh
giới, một dân tộc hay một thời đại nào ... Linh mục phải để tâm lo lắng cho tất
cả các Giáo Hội" (LM 10).
Trên đây là những
nét cơ bản. Xoay quanh đó là những viễn tượng bổ túc : điều kiện sống của các
linh mục giữa thế gian (LM 3), sự hiệp thông huynh đệ và công tác giữa các linh
mục (LM 8), tương quan với giáo dân (LM 9), việc phân phối các linh mục (LM
10), sự quan tâm của linh mục về các ơn gọi linh mục (LM 11), những đòi hỏi về
thiêng liêng và trí thức (LM 15-19), thù lao cân xứng (LM 20), quỹ hỗ trợ các
linh mục (LM 21).
Có thể nói, Vatican
II đã quan tâm xem xét thừa tác vụ và đời sống linh mục trong tất cả những đòi
hỏi tinh thần và vật chất, trên bình diện cá nhân cũng như xã hội, với một ý
thức thực tiễn về các điều kiện cụ thể của chức Linh Mục trong thế giới hôm
nay.
V. Đào tẠo
Linh mỤc tương lai
Giá trị của một
linh mục tùy thuộc vào việc đào tạo linh mục ấy. Đức Kitô đã dành một phần lớn
cuộc đời công khai để đào tạo các Tông Đồ. Sau hai mươi thế kỷ, Giáo Hội thấy
tầm quan trọng hàng đầu của những năm tháng chuẩn bị cho những tông đồ mới của
Đức Kitô. Tiếp nối truyền thống các Công Đồng trong quá khứ, từ những câu đầu
tiên của Sắc lệnh về Đào tạo linh mục, Vatican II đã muốn nhắc lại một chân lý
thuộc kinh nghiệm như sau : "Mọi người mong ước canh tân toàn thể Giáo
Hội, Thánh Công Đồng ý thức rõ như thế, và công cuộc canh tân này phần lớn tùy
thuộc việc thi hành chức vụ linh mục đã được Thần Linh Chúa Kitô thúc đẩy, do
đó Thánh Công Đồng tuyên bố việc đào tạo linh mục là việc vô cùng quan trọng và
nêu ra một vài nguyên tắc căn bản : các nguyên tắc này xác quyết những quy luật
đã được kinh nghiệm ngàn đời chấp nhận và thêm vào đó những nguyên tắc mới cho
hợp với các Hiến chế và Sắc lệnh của Thánh Công Đồng này, cũng như với những
biến chuyển của thời đại" (Lời mở đầu).
Nguyên tắc hướng
dẫn việc chuẩn bị cho đời sống linh mục là sự đào tạo toàn vẹn người linh mục,
không chỉ trong các khoa học thánh và lòng đạo đức như trước đây, mà cả trong
lãnh vực tông đồ và mục vụ, nhằm xây dựng một mẫu linh mục mới của Đức Kitô.
"Việc giáo dục toàn diện chủng sinh (trong các Đại chủng viện) phải nhằm
huấn luyện cho họ thực sự trở thành những vị chăn dắt các linh hồn, theo gương
Chúa Giêsu-Kitô là Thầy, là Linh Mục và là Chủ Chăn" (ÐT 4).
Những linh mục
tương lai phải được chuẩn bị cho ba nhiệm vụ của một chủ chăn : rao giảng Lời
Chúa, thánh hóa, lãnh đạo. Cũng như các Giám mục và cùng với các ngài, linh mục
là thủ lãnh của dân Chúa, là mục tử của các linh hồn theo hình ảnh của Đức
Kitô. Như vậy, mọi khía cạnh của việc huấn luyện tu đức, trí thức, kỷ luật đều
quy hướng về mục đích mục vụ (ibid.).
Việc huấn luyện tu
đức phải liên kết chặt chẽ với việc trau dồi học vấn và huấn luyện mục vụ
"sao cho các chủng sinh tập biết luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Cha,
nhờ Chúa Giêsu-Kitô Con của Người và trong Chúa Thánh Thần. Vì do phép Truyền
Chức Thánh mà họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng
chia sẻ một cuộc sống của Người nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn
hữu. Họ phải sống mầu nhiệm Vượt Qua của Người thế nào để biết khai sáng mầu
nhiệm ấy cho đoàn chiên sẽ được giao phó" (ÐT 8).
Tất cả những giáo
huấn của Công Đồng đều nhằm giúp cho chủng sinh trở nên đồng hình đồng dạng với
Đức Kitô Chủ Chăn. Do tính chất đa dạng và những nhu cầu khác nhau của các Giáo
Hội và các quốc gia, Công Đồng đã để cho các Hội Đồng Giám Mục được nhiều quyền
trong sáng kiến và tổ chức (ÐT 1), nhưng cũng đòi hỏi những tiêu chuẩn nghiêm
túc nơi các nhà giáo dục và các ứng viên (ÐT 6). Phải huấn luyện chủng sinh về
mặt đạo đức (ÐT 8), giúp cho họ có cảm thức về Giáo Hội (ÐT 9), về sự độc thân
được thánh hiến để phục vụ Chúa Kitô và các linh hồn (ÐT 10), giúp họ đạt mức
trưởng thành đã được kiểm nghiệm, sử dụng sự tự do cách khôn ngoan (ÐT 11). Cần
có những thời kỳ huấn luyện tu đức sâu rộng hơn, và những khóa thực tập mục vụ
(ÐT 12).
Về học vấn, cơ bản
trong bước đầu là phải có một nền giáo dục về nhân bản và khoa học sao cho đủ,
có lớp nhập môn về lịch sử cứu độ và mầu nhiệm Chúa Kitô, để ngay từ đầu, chủng
sinh có được một nhãn quan Kitô-giáo về thế giới (x. ÐT 13-14).
Các môn triết học
phải dựa vào "di sản triết học có giá trị ngàn đời" (ÐT 15), giúp cho
các linh mục tương lai hiểu đúng "não trạng thời đại để đối thoại được với
người đương thời" (ibid.).
Các môn thần học,
dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội, đưa họ vào các mầu nhiệm Kitô-giáo (x. ĐT 16).
Kinh Thánh phải là "linh hồn của toàn thể khoa thần học" (ibid.).
Phải "cho các chủng sinh thấy các Giáo Phụ Đông và Tây phương cũng như
diễn tiến lịch sử tín điều đã đóng góp gì trong việc trung thành lưu truyền và
minh giải từng chân lý mạc khải...", giúp họ "đào sâu và nhận thức
được mối liên hệ giữa các mầu nhiệm cứu độ, nhờ phương pháp suy luận theo đường
lối của thánh Tôma" (ibid.). Không phải là thứ học thuyết Tôma cứng ngắc
và lỗi thời, nhưng là một học thuyết Tôma sống động, hấp thụ những chân lý mới
theo tinh thần sáng tạo của Thánh Tiến Sĩ.
Các bộ môn thần học
khác cũng cần được canh tân "nhờ tiếp xúc linh động hơn với mầu nhiệm Chúa
Kitô và lịch sử cứu độ" (ibid.), cải thiện môn thần học luân lý "với
lối trình bày có khoa học và thấm nhuần giáo lý Thánh Kinh nhiều hơn"
(ibid.), trình bày môn Giáo Luật và Giáo Sử "cho liên lạc với mầu nhiệm
Giáo Hội, theo Hiến chế tín lý về Giáo Hội" (ibid.). Môn Phụng vụ không
giới hạn ở việc học chữ đỏ, nhưng phải giúp chủng sinh hiệp thông sâu xa hơn
với mầu nhiệm Vượt Qua. "Môn Phụng Vụ phải được coi là nguồn
mạch thiết yếu số một của tinh thần Kitô-giáo đích thực" (ibid.).
Các chủng sinh cũng "phải được hướng dẫn để hiểu biết đầy đủ
hơn về những Giáo Hội và Cộng đồng Giáo Hội ly khai" (ibid.).
Tiếp theo là những
định hướng mới về việc huấn luyện mục vụ đích danh : huấn giáo và giảng thuyết,
việc phụng tự và ban phát các bí tích, công cuộc từ thiện, nghĩa vụ tìm các
chiên lạc và đến với người vô tín, những công tác mục vụ khác, nghệ thuật hướng
dẫn các tâm hồn, giúp đỡ các tu sĩ nam nữ (x. ÐT 19), sử dụng những phương thế
mà khoa sư phạm, tâm lý, xã hội cung ứng (x. ÐT 20), học nghệ thuật tông đồ
trên lý thuyết và trong thực hành, dưới sự hướng dẫn của các chuyên viên (x. ÐT
21).
Ngoài ra còn có
việc huấn luyện bổ túc sau khi đã mãn trường.
Mẫu linh mục mới
sau Công Đồng Vatican II phải là như thế.
VI.
Canh tân đỜi sỐng tu trì
Công Đồng Vatican
II đã định vị đời sống tu trì trong toàn bộ mầu nhiệm Giáo Hội không phải trên
bình diện phẩm trật, nhưng trên bình diện đặc sủng và thần khí. Cuộc canh tân
Giáo Hội không thể không có sự góp phần của những người tuyên khấn các lời
khuyên Phúc Âm. Do đó mà có Sắc lệnh về đời sống tu trì, quy định "những
nguyên tắc tổng quát nhằm thích nghi canh tân đời sống và kỷ luật các
dòng" (DT 1) cho phù hợp với nhu cầu hiện nay.
Những lời đầu tiên
của Sắc lệnh nhắc lại mục đích và những phương tiện chủ yếu của đời sống tu trì
: theo đuổi đức mến trọn hảo bằng việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, bắt
nguồn từ giáo lý và mẫu gương của Thầy Chí Tôn (ibid.).
Văn kiện này là nền
tảng của mọi cuộc canh tân đời sống tu trì. Nó được coi như một lời mời gọi
hướng tới những đỉnh cao nhất của sự trọn hảo theo tinh thần Phúc Âm, dưới sự
thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
–
Các số từ 2 đến 6 chứa
đựng những chỉ dẫn tổng quát của việc canh tân. Điều nói ở số 2 là quan trọng
nhất : trên hết và trước hết là theo Chúa Kitô như Phúc Âm dạy. Đây là tiêu
chuẩn tối hậu của đời sống tu trì, là quy luật tối thượng ; trung thành nhận
thức và noi giữ tinh thần và ý hướng đặc biệt của đấng Sáng Lập. Tinh thần và ý
hướng này làm nên tính chất và sứ mệnh riêng của mỗi hội dòng. Tất cả nhằm mưu
ích cho Giáo Hội. Nhìn tới nhu cầu của Giáo Hội hôm nay ; tìm hiểu hiện trạng
của thế giới và con người hôm nay ; canh tân về tu đức là yếu tố có địa vị then
chốt.
Những ý hướng cơ
bản trên đây chi phối những việc canh tân cụ thể : thích nghi với những điều
kiện thể lý, tâm lý của các tu sĩ, những điều kiện cá nhân, xã hội và tông đồ ;
điều chỉnh hệ thống lãnh đạo sao cho thích ứng với nhu cầu hiện tại ; duyệt lại
Hiến pháp, nội quy, sách Kinh ..., loại bỏ những quy luật lỗi thời (DT 3).
Mọi tu sĩ đều cộng
tác vào việc canh tân này, nhưng quyết định là thuộc thẩm quyền hữu trách (DT
4).
Số 5 nhắc lại những
mục đích cao cả của đời sống tu trì. Đây là một ơn gọi nhằm đạt tới sự trọn
lành của đức ái bằng việc tuyên các lời khuyên Phúc Âm, sống cho một mình Thiên
Chúa, phục vụ Ngài, trong một sự thánh hiến hoàn toàn, bám rễ trong sự thánh
hiến của phép Rửa và biểu lộ sự thánh hiến này cách trọn hảo hơn. Tâm hồn tu sĩ
phải là một tâm hồn thánh hiến, một tâm hồn thánh, dành trọn cho Đức Kitô, chỉ
tìm một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự, bằng việc chiêm niệm liên kết với hoạt
động và với sự nhiệt thành tông đồ.
Số 6 nhấn mạnh sự
ưu tiên của đời sống thiêng liêng, là điều kiện hàng đầu của tất cả việc canh
tân đời sống tu trì, một đời sống âm thầm với Đức Kitô trong Thiên Chúa, vì
phần rỗi nhân loại và xây dựng Giáo Hội, trong tinh thần cầu nguyện và với sự
"cảm thức về Giáo Hội".
–
Sau phần nói về những quy
tắc tổng quát của việc canh tân, Sắc lệnh mô tả những hình thức khác nhau của
đời sống tu trì : chiêm niệm, hoạt động tông đồ, thể chế đan viện, tu hội đời
(DT 7-10).
Ba số 12-14 rất
quan trọng, xác định những điều kiện hiện thời cho việc tuân giữ các lời khuyên
Phúc Âm về khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, mà vẫn tôn trọng phẩm giá của
con người và địa vị cao cả của các con cái Thiên Chúa.
Đời sống huynh đệ
và việc huấn luyện tu sĩ cũng được chú trọng (DT 15 và 18).
–
Cuối cùng là một số vấn đề
có tính cách thời sự : Nội vi của các nữ đan sĩ ; tu phục ; thành lập những hội
dòng mới, duy trì – thích nghi hay loại bỏ những việc riêng của hội dòng ; sát
nhập hay liên kết giữa các hội dòng ; hội nghị những Bề trên cao cấp ; cổ võ ơn
gọi tu trì (DT 16-24).
Từ mấy chục năm
qua, hầu hết các hội dòng đã khởi xướng hoặc thực hiện việc canh tân sâu rộng
dựa vào những chỉ thị của Công Đồng.
VII.
ViỆc tông đỒ cỦa giáo dân
Sắc lệnh Tông đồ
giáo dân, công bố ngày 18.11.1965, rất quan trọng, có một ý nghĩa lịch sử to
lớn. Những chỉ dẫn mục vụ trong đó đem lại những cơ sở mới mẻ cho việc định
hướng tông-đồ-vụ giáo dân trong Giáo Hội hôm nay và ngày mai.
Ngay từ đầu,
Vatican II đã thấy rõ vai trò quan trọng của giáo dân trong hoạt động tông đồ
của Giáo Hội. Nhiều văn kiện của Công Đồng ít nhiều đề cập đến giáo dân. Đặc
biệt Hiến chế tín lý về Giáo Hội đã khẳng định địa vị nền tảng của mọi thành
phần dân Chúa,tất cả đều nhờ ân sủng mà trở nên con cái Thiên Chúa (GH 9). Hiến
chế còn nói rõ : giáo dân được tham dự vào ba chức vụ tiên tri, tư tế và vương
giả của chính Đức Kitô (GH 31).
Sắc lệnh về Tông đồ
giáo dân nhắc lại những nền tảng giáo lý trên đây trong những công thức còn
phong phú hơn nhiều, cho thấy cứu cánh và sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội :
"Trong Giáo Hội, có nhiều nhiệm vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ
mệnh ... Phần giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào quyền tư tế, tiên tri và
vương giả của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của mình trong sứ mệnh của
toàn dân Thiên Chúa trong Giáo Hội và ở giữa trần gian" (TĐ 2).
Sắc lệnh đã tổng
hợp những khía cạnh khác nhau của tông-đồ-vụ giáo dân.
Trước hết, Sắc lệnh
nói đến bản chất và nền tảng của việc mọi người, trong đó có giáo dân, tham dự
vào sứ mệnh của Giáo Hội (các số 2-3), những nguyên tắc đặc biệt của một linh
đạo giáo dân : "Nguyên lý đời sống thiêng liêng của mỗi giáo dân phải mang
sắc thái đặc biệt tùy theo điều kiện sinh sống : đời sống hôn nhân và gia đình,
đời sống độc thân hay góa bụa, tình trạng đau yếu, sinh hoạt nghề nghiệp và xã
hội" (TÐ 4). Mọi hình thức sống thánh theo Phúc Âm đều dựa vào trục cơ bản
này là trung thành thực thi các nhân đức đối thần và luân lý, để tiến tới sự
trọn lành dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Tuy vậy, mỗi kiểu mẫu thánh thiện
phản ánh một cung cách đặc biệt theo gương Đức Kitô.
Tiếp theo, Sắc lệnh
đề cập những khía cạnh của tông-đồ-vụ giáo dân :
–
Những mục tiêu chính :
Phúc-âm-hóa và thánh hóa con người, làm cho trật tự trần thế được tốt đẹp, bằng
dấu ấn bác ái là dấu chỉ phân biệt người môn đệ Đức Kitô (TÐ 6-8).
–
Những môi trường hoạt động
tông đồ khác nhau phù hợp với thời gian và không gian : giáo xứ, giáo phận và
Giáo Hội toàn cầu, gia đình, giới trẻ, các môi trường xã hội, trên bình diện
quốc gia và quốc tế (TÐ 10-14). Đặc biệt phải chú ý tới sự liên đới giữa các
quốc gia, dân tộc, sự liên đới nhân loại trong mọi vấn đề quốc tế. Người công
giáo được kêu gọi cộng tác huynh đệ với mọi người trên thế giới (TÐ 14).
–
Các phương thức hoạt động
tông đồ : phương thức cá nhân và phương thức xã hội.
Công Đồng quả có lý
khi nhấn mạnh lời mời gọi mọi người tham gia vào việc tông đồ do những đòi hỏi
của phép Rửa Tội và Thêm Sức. Đó chính là lời mời gọi trực tiếp, cá nhân của
Đức Kitô gửi tới mỗi chi thể của Nhiệm Thể. "Việc tông đồ cá nhân này rất
hiệu quả ở bất cứ nơi nào và thời nào. Hơn nữa, trong một số hoàn cảnh, chỉ có
hoạt động tông đồ này mới thích hợp và mới có thể thực thiện được. Mọi người
giáo dân, dù thuộc thành phần nào đi nữa, dù không có cơ hội hay khả năng để
cộng tác trong các hội đoàn, đều được kêu gọi và hơn nữa phải làm việc tông đồ
cá nhân" (TÐ 16). Mỗi giáo dân đều chịu trách nhiệm về thế giới và toàn
thể Giáo Hội. Phép Rửa Tội và Thêm Sức liên kết họ với mọi chi thể của Nhiệm
Thể và thôi thúc họ hướng tới mọi người.
Tuy vậy, hoạt động
tông đồ tập thể vẫn có giá trị hàng đầu trong một thế giới dành ưu tiên cho
những yếu tố xã hội và quốc tế. Phương thức sinh hoạt này sử dụng những kỹ
thuật truyền thông mau lẹ, có sức mạnh tác động rất lớn tới đại chúng. Hoạt
động tông đồ tập thể có tổ chức được thực hiện trong các hội đoàn. "Những
hội đoàn được thành lập nhằm hoạt động tông đồ tập thể, nâng đỡ và huấn luyện các
hội viên làm tông đồ, phối hợp và hướng dẫn hoạt động tông đồ của họ, để có thể
hy vọng nơi họ những kết quả phong phú hơn là nếu từng người hoạt động riêng
rẽ" (TÐ 18).
Những hình thức
khác nhau của Công-giáo-tiến-hành, "cộng tác chặt chẽ với hàng giáo
phẩm" (TÐ 20), có một vị trí ưu đãi trong tông-đồ-vụ của Giáo Hội.
"Thánh Công Đồng ân cần giới thiệu những tổ chức này, vì chắc chắn chúng
đáp ứng đúng những đòi hỏi của việc tông đồ của Giáo Hội trong nhiều quốc gia.
Thánh Công Đồng cũng kêu mời các linh mục hoặc giáo dân đang tham gia các hoạt
động trên ... hãy luôn lấy tình huynh đệ mà cộng tác với các hình thức tông đồ
khác trong Giáo Hội" (ibid.).
Ngoài ra,
"việc tông đồ của giáo dân, cá nhân hay tập thể, phải được đặt vào đúng
chỗ trong công cuộc tông đồ của toàn thể Giáo Hội ... liên kết với những người
đã được Chúa Thánh Thần đặt lên cai trị Giáo Hội của Thiên Chúa" (TÐ 23).
Nếu như giáo quyền phải cổ võ và bảo vệ những sáng kiến hợp pháp của giáo dân,
thì về phần mình, giáo dân cũng phải có tinh thần cộng tác với giáo quyền. Các
tổ chức tông đồ không những cần cộng tác với nhau mà còn phải được giáo quyền
điều hành thích đáng (ibid.). Giáo quyền không điều hành kiểu cha chú, độc
đoán. Giáo dân cũng không hành động theo ý riêng. Tất cả biểu lộ một sự phối
hợp và tương trợ. Mọi người cùng hoạt động như những anh em trong Đức Kitô,
thuộc về cùng một gia đình của Thiên Chúa. "Các Giám mục, các cha xứ, các
linh mục dòng triều phải nhớ rằng quyền và bổn phận làm tông đồ là việc chung
cho tất cả mọi tín hữu, không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân, và trong việc xây
dựng Giáo Hội, giáo dân cũng có phần riêng của họ. Vì thế các ngài phải cùng
với giáo dân làm việc trong Giáo Hội và cho Giáo Hội với tình huynh đệ, cũng
như phải đặc biệt để tâm lo cho giáo dân trong khi họ làm việc tông đồ"
(TÐ 25).
Ơn gọi tông đồ của
giáo dân đòi hỏi một sự huấn luyện vững chắc, thích hợp với những nhu cầu của
thế giới hôm nay. Phải nói rằng, nhiều giáo dân không được huấn luyện về tu
đức, giáo lý, kỹ thuật, nghiệp vụ và việc tông đồ. Giáo Hội cần đầu tư nhiều
cho công tác này, cung ứng phương thế như "những khóa học tập, những kỳ
đại hội, những cuộc tĩnh tâm, những buổi họp mặt thường xuyên, những buổi
thuyết trình, những sách báo ... giúp họ trau dồi thêm kiến thức về thiêng liêng
cũng như giúp họ hiểu biết những hoàn cảnh sống của thế giới, để khám phá và sử
dụng những phương pháp thích hợp nhất" (TÐ 32).
Nếu Giáo Hội trung
thánh với những gợi ý được Chúa Thánh Thần soi sáng của Vatican II, chắc hẳn
giáo dân được mời gọi nắm giữ vai trò chủ chốt trong việc Phúc-âm-hóa thế giới.
Đây chính là thời của giáo dân. Và quả thực, trong nhiều quốc gia, vận mệnh của
Giáo Hội tùy thuộc rất nhiều vào giáo dân.
VIII. Giáo
dỤc Kitô-giáo
Vatican II đặc biệt
quan tâm tới trẻ em và thanh thiếu niên. Giáo Hội biết rằng tương lai của Giáo
Hội và thế giới nằm trong tay những con người này. Mối quan tâm ấy được nói lên
trong mấy từ mở đầu Tuyên ngôn về giáo dục Kitô-giáo : "Gravissimum
educa-tionis momentum" (Vai trò vô cùng quan trọng của việc giáo dục).
Thực vậy, Công Đồng ý thức rằng giáo dục có "tầm quan trọng rất lớn trong
đời sống con người, và ảnh hưởng của nó luôn gia tăng trên đà tiến triển của xã
hội hiện nay" (Lời mở đầu).
Quyền được giáo dục
dựa trên phẩm giá của con người. Việc giáo dục này có mục đích là "đào tạo
con người nhằm đạt tới cùng đích của mình" (GD 1), tức là đi vào đối thoại
và hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Ai nấy đều có quyền được giáo dục, nhờ đó
nhân cách được phát triển đầy đủ. Người kitô-hữu, đã được tái sinh bởi nước và Thánh
Thần và trở nên con cái Thiên Chúa, càng có quyền ấy hơn nữa, nhất là quyền
được giáo dục theo Kitô-giáo (x. GD 6-7). Đây là quyền cơ bản, được Giáo Hội
luôn quan tâm bảo vệ và cổ võ, cho dù trên thực tế, nó không được tôn trọng ở
một số quốc gia. Vatican II lưu ý tới việc giáo dục cả nhân bản lẫn Kitô-giáo,
nhằm làm phát triển con người toàn diện.
Về việc giáo dục
này, Công Đồng nhấn mạnh vai trò hàng đầu và không thể thay thế của gia đình :
"Vì là người truyền thông sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết
sức quan trọng là giáo dục chúng, và vì thế họ được coi là những nhà giáo dục
đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu
thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được... Gia đình là trường học đầu tiên dạy
các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn thể" (GD 3).
Cộng tác với gia
đình trong việc giáo dục là bổn phận của toàn thể xã hội và cả Giáo Hội nữa.
"Với một danh nghĩa đặc biệt, Giáo Hội có trách nhiệm giáo dục, không
những vì Giáo Hội cũng là một xã hội trần gian, phải được thừa nhận có khả năng
giáo dục, hơn nữa vì Giáo Hội có nhiệm vụ loan truyền cho mọi người biết con
đường cứu rỗi, cũng như thông ban sự sống của Chúa Kitô cho các tín hữu và luôn
lo lắng giúp đỡ họ đạt tới sự viên mãn của đời sống ấy" (ibid.).
Trong tất cả các
phương tiện giáo dục thì nhà trường giữ một vai trò quan trọng nhất. Giáo Hội
cũng hiện diện trong môi trường này, nhất là qua các trường công giáo (GH 8).
Trong số những trường công giáo, các trường Cao Đẳng, các Viện Đại học công
giáo được Giáo Hội đặc biệt quan tâm (GD 10). Giáo Hội muốn đào tạo những con
người có trình độ cao, có khả năng trở thành những tông đồ của đức tin, những
người dẫn đạo cho anh chị em đồng loại.
Tuyên ngôn về Giáo
dục Kitô-giáo kết luận bằng lời khuyên các người trẻ "ý thức nhiệm vụ cao
cả của việc giáo dục", cố gắng làm việc để "không những đẩy mạnh cuộc
canh tân bên trong Giáo Hội", mà còn, trong tinh thần đối thoại và tương
trợ, "phát huy thêm sự hiện diện hữu ích của Giáo Hội trong thế giới hôm
nay, nhất là trong giới trí thức".
Đoạn III : khía cẠnh đẠi kẾt
Chắc chắn một trong
những mối bận tâm hàng đầu của Vatican II là sự hiệp nhất các kitô-hữu trong sự
duy nhất của Giáo Hội Chúa Kitô. Lúc Công Đồng được triệu tập là lúc bầu không
khí đại kết đang ngày càng tốt đẹp. Sự chia rẽ đã làm tổn hại cho sự phát triển
của một Giáo Hội truyền giáo. Người ta đang hy vọng một ngày nào đó nó sẽ chấm
dứt. Các Giáo Hội đang xích lại gần nhau. Về phía Giáo Hội công giáo, việc Công
Đồng công bố Sắc lệnh về Hiệp Nhất (21.11.1964) rõ ràng cho thấy ý muốn
tìm lại sự hiệp nhất. Rôma không còn giữ thái độ nghi kỵ và xa cách trước đây
đối với phong trào Đại-kết của các Giáo Hội ly khai, hoặc với nỗ lực truyền
giáo của Cộng đồng Giáo Hội Tin-lành.
Sắc lệnh có màu sắc
chủ yếu là mục vụ, kêu gọi mọi người công giáo đi vào phong trào hiệp nhất, với
thái độ thận trọng nhưng cương quyết. Bản văn của Sắc lệnh tránh mọi hình thức
lên án hay hộ giáo. Công Đồng hiểu rằng, trong sự ly khai này, cả hai bên đều có
lỗi. Đây là lúc phải tha thứ cho nhau để, giống như hai môn đệ Emmaus, cùng
nhau lắng nghe Chúa Kitô và tiến gần đến Ngài.
Sắc lệnh gồm ba
chương, bàn về : các nguyên tắc công giáo về hiệp nhất ; cách tham dự phong
trào Hiệp Nhất ; cái nhìn mới về các Giáo Hội và Cộng đồng Giáo Hội ly khai.
Điều kiện cơ bản
của phong trào hiệp nhất là cùng nhau tìm tới chân lý. Không phải là thứ xu
thời sai lệch (irénisme). Thế nên ngay từ đầu, Giáo Hội công giáo đã cho thấy
rõ những quan điểm nền tảng, những cấu tố của quan niệm về sự hiệp nhất. Đó là
: Thần tính của Đức Kitô ; Sự thiết lập Thánh Thể, như biểu tượng và thực hiện
sự hiệp nhất ; Vai trò kết hợp của Chúa Thánh Thần ; Sự thiết lập một phẩm trật
trong Nhóm Mười Hai và các người Kế-vị, trong sự duy nhất của một đức tin, một
phụng tự, một sự lãnh đạo phục vụ mọi người. "Đó là mầu nhiệm thánh của sự
hiệp nhất Giáo Hội trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô, dưới sự tác động của Chúa
Thánh Thần trong nhiều thừa tác vụ khác nhau", một sự hiệp nhất có
"mẫu mực tối cao và nguyên lý là sự hiệp nhất trong Ba Ngôi của một Thiên
Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần" (HN 2).
Cả chương II nêu ra
những chỉ dẫn cho việc tham dự của cả Giáo Hội vào phong trào hiệp nhất : không
ngừng canh tân Giáo Hội ; hoán cải ; cầu nguyện chung ; hiểu biết lẫn nhau
trong tình huynh đệ ; huấn luyện về việc đại kết ; trình bày và diễn tả các mầu
nhiệm đức tin cho phù hợp ; thường xuyên cộng tác với các anh em ly khai,
"nỗ lực áp dụng Phúc Âm vào đời sống xã hội" (HN 12).
Chương III của Sắc
lệnh kêu gọi người công giáo có một cái nhìn thiện cảm về các giá trị tôn giáo
nơi hai khối ly khai chính là Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Cải
Cách.
Các Giáo Hội Đông
Phương từ lâu vẫn liên kết với Giáo Hội Tây Phương "trong tình huynh đệ
nhờ hiệp thông trong đức tin và đời sống bí tích", trong "những tín
điều căn bản về đức tin Kitô-giáo như Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi Lời Thiên Chúa
Nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria" (HN 14). Ở Đông Phương, truyền
thống phụng vụ và tu đức rất phong phú (HN 15), kể cả kỷ luật Giáo Hội và thần
học (HN 16-17). "Toàn bộ di sản tu đức và phụng vụ, kỷ luật và thần học
trong các truyền thống ấy, thuộc về đặc tính công giáo và tông truyền trọn vẹn
của Giáo Hội" (HN 17).
Còn về phía các
người Cải Cách, mặc dù có những dị biệt quan trọng với Giáo Hội công giáo
"chẳng những về phương diện lịch sử, xã hội, tâm lý, văn hóa, mà nhất là
về cách giải thích chân lý mạc khải" (HN 19), vẫn phải "cố gắng thiết
lập cuộc đối thoại hiệp nhất", dựa vào một số điểm "có thể và phải là
nền tảng và yếu tố thúc đẩy cho cuộc đối thoại ấy" (ibid.) : niềm tin vào
Đức Kitô, nguồn mạch và trung tâm của sự hiệp thông Giáo Hội (HN 20) ; lòng yêu
mến, kính trọng và học hỏi Kinh Thánh (HN 21) ; đời sống bí tích (HN 22) ; đời
sống trong Đức Kitô (HN 23).
Cho dù sự hiệp nhất
"vượt quá sức lực và khả năng loài người", Công Đồng vẫn "đặt
hết hy vọng vào lời Chúa Kitô cầu xin cho sự hiệp nhất của Giáo Hội, vào tình
thương của Chúa Cha và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần" (HN 24).
Phần II : Giáo
HỘi "ad extra"
Nỗ lực chính của
Vatican II là canh tân Giáo Hội từ bên trong về hiệp nhất các kitô-hữu. Tuy
vậy, ngay từ đầu, như Sứ điệp của Công Đồng gửi đến thế giới cho thấy, Công
Đồng cũng nhìn về con người hôm nay. Mối quan tâm Phúc-âm-hóa thế giới nổi bật
trong giai đoạn thứ hai của Công Đồng, đạt tới tột đỉnh trong việc công bố Hiến
chế Mục vụ Giáo Hội trong thế giới hôm nay (07.12.1965). Đây là văn kiện cuối
cùng tổng hợp những khát vọng tông đồ của Công Đồng.
I.
HoẠt đỘng truyỀn giáo cỦa
Giáo HỘi
Cùng một Giáo Hội
vừa tự canh tân mình vừa muốn chu toàn sứ mệnh cứu độ nơi con người.
Sắc lệnh về Hoạt
động truyền giáo cho thấy rõ nhất ý thức ấy về hai khía cạnh của mầu nhiệm Giáo
Hội. Sắc lệnh khởi đi từ chóp đỉnh của mầu nhiệm Ba Ngôi, sứ mệnh của từng
Ngôi, để rồi hướng tới dân ngoại là những người chưa nhận được sứ điệp của Đức
Kitô. Giáo Hội truyền giáo thực sự là Giáo Hội hướng tới thế giới để cứu thế
giới.
Viễn tượng Ba Ngôi
về mầu nhiệm Giáo Hội nói trong Hiến chế tín lý về Giáo Hội được lặp lại trong
Sắc lệnh về Truyền giáo và Hiến chế Mục vụ, nhưng dưới hình thức năng động hơn.
Đây là một Giáo Hội được Ba Ngôi soi sáng cả trong đời sống bên trong lẫn trong
hoạt động truyền giáo bên ngoài.
Trong Sắc lệnh,
người ta thấy rõ nguồn gốc, ý định, đà tiến, cứu cánh và nguyên lý hiệp nhất
của việc truyền giáo đều được tìm thấy nơi mầu nhiệm Ba Ngôi. Việc truyền giáo
khởi sự từ Ba Ngôi và hướng tới Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, dưới tác động của Chúa
Thánh Thần. "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo
Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên
Chúa Cha" (TG 2). Thiên Chúa yêu thương đã muốn quy tụ mọi người trên mặt
đất vào sống trong đại gia đình của Ngài. Chính vì thế mà "Giáo Hội có bổn
phận truyền bá đức tin và ơn cứu rỗi của Đức Kitô" (TG 5). "Mục đích
riêng của hoạt động truyền giáo này là rao giảng Phúc Âm và trồng Giáo Hội vào
các dân tộc hay những nhóm người mà Giáo Hội còn chưa bén rễ" (TG 6).
Tất cả Sắc lệnh
được khai triển theo một lược đồ như sau : bản chất sâu xa của hoạt động truyền
giáo là nối dài sứ mệnh của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, để làm vinh danh Chúa
Cha ; toàn thể nhân loại được mời gọi làm thành một Dân duy nhất của Thiên Chúa
(ch. I). Công cuộc truyền giáo và những giai đoạn xây dựng Giáo Hội (ch. II) ;
quy chế các Giáo Hội địa phương (ch. III) ; các nhà truyền giáo : ơn gọi, việc
huấn luyện, linh đạo truyền giáo (ch. IV) ; tổ chức hoạt động truyền giáo (ch.
V) ; sự cộng tác của cả Giáo Hội vào công cuộc truyền giáo (ch. VI).
Như vậy, Công Đồng
xem xét vấn đề truyền giáo trong mọi khía cạnh, đồng thời đưa ra những nguyên
tắc giải quyết về hoạt động này trong các chỉ dẫn mục vụ.
II. Giáo HỘi và các tôn giáo ngoài Kitô-giáo
Cũng do ý hướng
muốn mở ra trước thế giới để cứu thế giới, Công Đồng đưa ra bản tuyên ngôn về
những liên hệ của Giáo Hội với các tôn giáo Ngoài Kitô-giáo, công bố ngày
28.10.1965. Quả thực, Giáo Hội của Vatican II là một Giáo Hội muốn đối thoại
với mọi người. Giáo Hội không muốn tiên vàn nhìn đến những gì gây chia rẽ,
nhưng quan tâm đến những yếu tố chung của nhân loại. Cùng một vận mệnh liên kết
mọi người. Cùng những vấn nạn đặt ra cho mọi người : "Con người là gì ?
Đời người có mục đích và ý nghĩa nào ? Sự thiện và tội lỗi là gì ? Đâu là
nguyên nhân và mục đích của đau khổ ? Đâu là con đường dẫn tới hạnh phúc bất
diệt ? Cái chết, sự phán xét và thưởng phạt sau khi chết có ý nghĩa ra sao ?
Sau cùng, cái huyền nhiệm tối hậu khôn tả vẫn bao trùm cuộc sống của chúng ta
là chi, chúng ta phát xuất từ đâu và chúng ta hướng về đâu ?" (NK 1).
Những vấn nạn cơ
bản này đặt ra cho con người ở bất cứ thời nào. Nhưng giải đáp lại khác nhau
tùy theo văn hóa, văn minh và tôn giáo. Đặc biệt các tôn giáo có vai trò quan
trọng trong những giải đáp này. Do đó mà có Tuyên ngôn của Công Đồng, như một
đáp ứng mục vụ của một Giáo Hội đối thoại nhằm đưa mọi người về với Đức Kitô.
Chúng ta có thể
thấy thái độ cởi mở của Giáo Hội với Ấn-giáo, Phật-giáo và những tôn giáo khác
(NK 2), đặc biệt với Hồi-giáo vì "cùng thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất,
hằng sống và hằng hữu, từ bi và toàn năng, Đấng tạo thành trời đất" (NK
3), đặc biệt hơn nữa là với Do-thái-giáo, vì do nguồn gốc của mình, Kitô-giáo
có mối dây liên kết thiêng liêng với tôn giáo này. "Giáo Hội Chúa Kitô
công nhận rằng khởi điểm của đức tin và việc Chúa chọn mình được tìm thấy nơi
các Tổ Phụ, Môsê và các Tiên Tri, theo như mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa ...
Giáo Hội không thể quên rằng nhờ dân đó, dân mà Chúa đã thương bằng tình thương
xót khôn tả của Người trong Giao ước xưa, Giáo Hội đã nhận được mạc khải Cựu
Ước" (NK 4). Hơn nữa, Đức Kitô, Đức Trinh Nữ Maria, "các Tông Đồ, nền
móng và cột trụ Giáo Hội, cũng như rất nhiều môn đệ đầu tiên của các ngài,
những người loan báo Phúc Âm Chúa Kitô cho trần gian, đã được sinh ra từ dân
tộc Do-thái" (ibid.).
Giáo Hội mong muốn
sống tình huynh đệ đại đồng với hết mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn
giáo..., vì tất cả đều là con cái của một Cha trên trời (NK 5).
III. TỰ do
tôn giáo
Công Đồng còn đi xa
hơn trong tinh thần đối thoại khi tuyên bố Tự do tôn giáo, vì tôn trọng phẩm
giá con người. Ai nấy đều có quyền chọn theo tôn giáo nào tùy ý.
Quan điểm này lúc
đầu không làm hài lòng một số người, nhất là vì nó đụng chạm đến một số quốc
gia chọn công giáo làm quốc giáo. Nhưng rồi vấn đề được chuyển sang khía cạnh
nhân phẩm, như ta thấy ở hai từ đầu tiên của Tuyên ngôn : "Dignitatis
humanae" (Phẩm giá con người). Không chấp nhận hình thức thờ ơ tôn giáo,
không hạ giá chân lý tôn giáo, không tạo nên nền tảng hợp pháp cho sự sai lầm
và vô luân, bản văn Công Đồng, sau nhiều lần sửa chữa, đã dung hòa những điều
kiện xã hội phức tạp ngày nay với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Ngay phần Mở đầu,
Tuyên ngôn khẳng định đạo công giáo là đạo thật và "mọi người đều có nhiệm
vụ tìm kiếm chân lý, nhất là những chân lý có liên quan đến Thiên Chúa và Giáo
Hội Người, và khi nhận biết rồi, họ phải tin theo và tuân giữ" (TD 1).
Ngay cả tựa đề phụ của Tuyên ngôn cũng xác định ý nghĩa của sự tự do tôn giáo
này. Không có vấn đề tin và thực hành một học thuyết luân lý theo sở thích của
mình, nhưng ở đây nói về "quyền của cá nhân và đoàn thể có được sự tự do
xã hội và dân sự trong vấn đề tôn giáo".
Công Đồng đã cẩn
thận xác định đối tượng và nền tảng của tự do tôn giáo như sau : "Quyền tự
do này hệ tại ở chỗ con người không bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn
thể xã hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Với ý nghĩa đó, trong
lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không
ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, cho dù đó là hành động riêng tư hay
công khai, một mình hay cùng với người khác" (TD 2). Và Công Đồng còn thêm
: "Quyền tự do tôn giáo được ây dựng trên chính phẩm giá con người, một
phẩm giá đúng như Lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết. Quyền tự do
tôn giáo này của con người trong trật tự pháp lý của xã hội phải được công nhận
như một quyền dân sự" (ibid.).
Những Nghị Phụ sống
trong các nước Đông Âu là những người đầu tiên đòi tự do tôn giáo cho Giáo Hội
và mọi người. Các Giám mục Mỹ-châu và dư luận thế giới cũng đều đồng tình.
Tuyên ngôn của Công
Đồng ghi dấu một bước tiến mới của sự tự do và hiểu biết lẫn nhau trong những
mối tương quan xã hội giữa Giáo Hội và thế giới hôm nay.
IV. Giáo HỘi trong thẾ giỚi hôm nay
Hiến
chế Mục vụ là văn kiện cuối cùng được ban hành, đồng thời cũng là văn
kiện cho thấy rõ nhất não trạng của Vatican II. Nó phản chiếu cái nhìn đích
thực của Giáo Hội : vừa hướng về Thiên Chúa vừa hướng về con người để giúp đưa
con người về với Thiên Chúa. Không một văn kiện nào khiến cho dư luận thế giới
quan tâm như vậy, đặc biệt vì văn kiện này nhằm gửi tới mọi người.
Văn kiện được hoàn
thành nhờ sự đóng góp của rất nhiều chuyên viên, giáo sĩ cũng như giáo dân, nhờ
nỗ lực miệt mài của các Ủy ban và Tiểu ban, qua những sửa chữa liên tục. Nhờ
đó, nó có được sự duy nhất sâu xa, với trọng tâm xoay quanh vấn đề lớn của thế
giới hôm nay, đó là : sự thăng tiến và bảo vệ phẩm giá con người trên mọi bình
diện. Ngay trong Lời mở đầu, văn kiện đã xác định rõ mục tiêu : "Việc phải
làm là cứu rỗi con người và canh tân xã hội loài người. Do đó, con người – dĩ
nhiên là con người xét trong sự duy nhất và toàn thể của nó, với thể xác và
linh hồn, tâm hồn và lương tri, trí khôn và ý chí –, sẽ là then chốt tất cả
phần trình bày của chúng tôi" (MV 3).
Để trả lời cho
những thắc mắc tại sao Vatican II lại quan tâm đến vấn đề con người như vậy,
Đức Giáo-hoàng Phaolô VI, trong Diễn văn Bế mạc Công Đồng, 07.12.1965, đã nói :
" Quả thực, Vatican II có một ý nghĩa tôn giáo". Kể từ thời Phục
Hưng, con người ngày càng xa rời Thiên Chúa. Thế nên Giáo Hội phải đi tìm kiếm
con người, để đưa họ về lại với Thiên Chúa.
Con người đuợc Công
Đồng xem xét không phải là con người chung chung, nhưng là con người thời nay,
con người hướng về mình, con người vô thần muốn xây dựng một chủ tuyết nhân bản
mới không có Thiên Chúa. Sứ mệnh cấp bách của Giáo Hội là giải thoát con người
khỏi chính họ bằng cách đưa họ lại gần Thiên Chúa, đối thoại với họ để giúp họ
khám phá ra phẩm giá của họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
Sau Lời mở đầu là
phần Nhập đề khá dài nói về những thay đổi sâu xa trên thế giới có ảnh hưởng
tới thân phận con người. "Nhân loại ngày nay đang sống vào một giai đoạn
mới trong lịch sử của mình, đó là giai đoạn chất chứa những thay đổi sâu xa và
mau chóng đang dần dần lan rộng tới tất cả hoàn cầu ... Chúng ta có thể nói đến
một sự biến đổi đích thực về xã hội cũng như về văn hóa, một sự biến đổi cũng
có tác động trên đời sống tôn giáo" (MV 4).
Tiếp theo phần Nhập
đề là hai phần chính.
Phần I bàn về con
người dưới ánh sáng đức tin, trình bày thiên chức của con người trên bình diện
cá nhân (ch. I) và xã hội (ch. II), ý nghĩa hoạt động của con người trên thế
giới (ch. III), sứ mệnh thần linh của Giáo Hội giữa con người (ch. IV)
Tựa đề của chương I
gói ghém đề tài cơ bản của cả Hiến chế : Phẩm giá con người. Đây không chỉ là
những quyền của con người. Những quyền này đã được thừa nhận trong hầu hết các
pháp chế dân sự, nhưng bi vi phạm nghiêm trọng làm phương hại đến phẩm giá của
con người. Chính phẩm giá này phải được quan tâm trên mọi bình diện cá nhân,
gia đình, xã hội và qua những hoạt động khác nhau của con người. Đó là nội dung
của phần I.
Trong phần II, Hiến
chế nêu ra một số khía cạnh cụ thể cấp bách liên hệ đến phẩm giá tối cao này.
Do đó có năm chương bàn về : phẩm giá của hôn nhân (ch. I) ; quyền của mỗi
người được hưởng một văn hóa cao nhất (ch. II) ; sự bảo đảm cho mỗi người trong
đời sống kinh tế xã hội (ch. III) ; cộng đồng chính trị (ch. IV) ; sự cổ võ hòa
bình và xây dựng cộng đồng các dân tộc (ch. V).
Để kết thúc Hiến
chế, Công Đồng ước mong mọi người, đặc biệt các kitô-hữu, góp phần với người
khác cùng nhau xây dựng một thế giới mới và đưa tới cùng đích của nó.
1.
Điều kiện con người
trong thế giới hôm nay
"Thay
đổi" là từ chủ chốt, cho thấy rõ tình trạng hiện thời của thế giới.
"Nhân loại ngày nay đang sống vào một giai đoạn mới trong lịch sử của
mình. Đó là giai đoạn chất chứa những thay đổi sâu xa và mau chóng đang dần dần
lan rộng tới tất cả hoàn cầu" (MV 4). "Sự giao động tâm trí hiện nay
và sự thay đổi các điều kiện sống gắn liền với một sự biến chuyển rộng lớn hơn.
trong phạm vi trí dục, sự biến chuyển này làm cho toán học, các khoa học tự
nhiên và nhân văn ngày càng thêm ưu thế, còn trong phạm vi hoạt động, thì kỹ
thuật, con đẻ của khoa học cũng vậy" (MV 5).
Sự thay đổi trên
đây tác động trên mọi lãnh vực : xã hội, tâm lý, luân lý và tôn giáo. Một xã
hội mới theo kiểu mẫu công nghiệp dần dần bành trướng, "đưa một số quốc
gia tới mức thịnh vượng kinh tế và làm thay đổi tận gốc rễ những quan niệm và
những điều kiện sống đã cố định lâu đời trong xã hội" (MV 6). Những điều
kiện vật chất của cuộc sống lôi kéo theo những thay đổi sâu xa trên bình diện
tâm lý và luân lý. "Những biến chuyển tâm thức và cơ cấu thường làm cho
con người bất đồng ý kiến về những giá trị đã được chấp nhận, nhất là nơi những
người trẻ" (MV 7). "Các định chế, luật pháp, những lối suy tư và cảm
nghĩ của người xưa truyền lại hình như không phải lúc nào cũng phù hợp với tình
thế hiện tại, do đó, có sự xáo trộn trầm trọng trong phương thức và trong chính
các tiêu chuẩn hành động" (ibid.).
Những điều kiện
sống mới mẻ cũng gây ra những hệ quả nghiêm trọng về mặt thiêng liêng. Những
vấn đề đô thị và lao động thường chi phối sự thực hành tôn giáo. Thuyết nhân
bản vô thần phần nhiều là kết quả của một văn minh kỹ thuật, trong đó người ta
chỉ biết tìm kiếm những tiện nghi tức thời. Những bất bình đẳng về xã hội, kinh
tế và chủng tộc đè nặng trên lương tâm nhiều người trong thái độ của họ đối với
Thiên Chúa. "Khác với thời xưa, sự từ chối hoặc tránh né đề cập tới Thiên
Chúa hay tôn giáo không còn là một hành vi dị thường và cá nhân nữa, vì ngày
nay, biết bao người coi đó như một đòi hỏi của tiến bộ khoa học hay của nền
nhân bản mới. Tại nhiều nơi, quan niệm này không những được diễn tả trong các
trường phái triết học, mà còn ảnh hưởng rất nhiều tới văn chương, nghệ thuật,
việc giải thích của các khoa học nhân văn và sử học, cũng như ảnh hưởng tới cả
dân luật khiến cho nhiều người hoang mang" (ibid.).
Do đó, không lạ khi
thấy có sự mất quân bình trong phạm vi cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, quốc gia
và quốc tế.
Dầu vậy,
"trước sự tiến hóa hiện nay của thế giới, ngày càng có nhiều người đặt vấn
đề hoặc nhận thức một cách sâu sắc mới mẻ về những vấn đề hết sức căn bản như :
Con người là gì ? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, sự chết ? Sao chúng còn
tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ ? Bao chiến thắng đạt được với
một giá đắt ấy có ích gì ? Con người có thể đem lại gì cho xã hội và trông đợi
gì ở xã hội ? Cái gì sẽ tiếp sau cuộc sống trần gian này " (MV 10).
Giáo Hội của
Vatican II muốn đem lại một giải đáp cho tất cả những vấn nạn này. "Giáo
Hội tin rằng Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho mọi người, nhờ Thần Khí
của Người mà ban cho con người ánh sáng và sức mạnh, để con người có thể đáp
lại ơn gọi cao cả của mình. Giáo Hội tin rằng dưới bầu trời này chẳng có danh
hiệu nào khác được ban cho loài người, để loài người phải nhờ đó mà được cứu
rỗi. Cũng thế, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm và cùng đích của tất cả
lịch sử nhân loại đều ở trong Đức Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn
nữa, Giáo Hội còn xác nhận rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi
thay, vì nền tảng cuối cùng của những điều không đổi thay này là Đức Kitô, Đấng
hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Vậy dưới ánh sáng của Đức Kitô ... Công
Đồng muốn nói với mọi người, để làm sáng tỏ mầu nhiệm con người và để cùng nhau
tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta" (ibid.).
2.
Giáo Hội và thiên
chức con người (phần I)
Phần này quan trọng
nhất, bàn về thiên chức con người nói chung, cho thấy nhãn quan nhân học
Kitô-giáo về con người trên bình diện cá nhân (ss. 11-22) và xã hội (ss.
23-32), dưới những hình thức sinh hoạt khác nhau (ss. 33-39). Sau khi xem xét
các khía cạnh của thiên chức con người, Giáo Hội cho biết sứ mệnh của mình là
phục vụ con người, và do đó biện minh cho hành động của mình can thiệp vào đời
sống của con người. Chương IV (ss. 40-45) nói về sứ mệnh này, là cao điểm của
cả Hiến chế.
a)
Phẩm giá con người
Hiến chế Mục vụ đặt
trọng tâm nơi con người. Công Đồng không có ý phân tích đời sống con người theo
kiểu hiện-tượng-luận, nhưng sử dụng những thủ đắc của các khoa sinh-vật-học và
tâm-lý-học, cũng như dựa vào mạc khải, để nói về con người.
Công Đồng đã cố ý
đặt tựa đề của chương I là "Về phẩm giá con người". Đây là
chương cơ bản nhất của cả Hiến chế. Các chương khác chỉ nhằm trình bày hoặc bảo
vệ một khía cạnh đặc biệt nào đó liên hệ tới phẩm giá này.
Con người là một
tổng hợp sống động các phẩm chất thuộc thể xác và tinh thần, các ân huệ tự
nhiên và siêu nhiên, theo như "ơn gọi toàn vẹn của nó" (MV 11), ơn
gọi "là con cái trong người Con" (MV 22). Công Đồng đã cẩn thận phân
tích từng yếu tố này.
Được tạo dựng theo
hình ảnh Thiên Chúa, con người là tạo vật hoàn hảo nhất của thế giới hữu hình,
quy tụ nơi mình, như nơi một tiểu vũ trụ, tất cả mọi giá trị vật chất và tinh
thần của vũ trụ. "Mọi vật trên địa cầu phải được quy hướng về con người
như là trung tâm và tột đỉnh của chúng" (MV 12). Nơi con người, thân xác
phục vụ cho "một linh hồn thiêng liêng và bất tử" (MV 14) trong sự
duy nhất bất khả phân chia của một bản tính.
Nhờ trí khôn, con
người "dự phần vào ánh sáng của trí tuệ Thiên Chúa" (MV 15). Nhờ
lương tâm, con người "có lề luật được Thiên Chúa ghi khắc trong tâm
hồn" (MV 16). Sự tự do đích thực của con người là "dấu chỉ cao cả
nhất của hình ảnh Thiên Chúa nơi con người" (MV 17).
Thế nhưng, con
người cũng là một tạo vật bị tổn thương vì tội lỗi (MV 13) và phải đối diện với
sự chết. "Trước sự chết, bí ẩn về thân phận con người đạt tới tột
đỉnh" (MV 18). Tuy vậy, mạc khải đã soi sáng mầu nhiệm của thế giới bên
kia. Đó là : "Thiên Chúa đã và đang kêu gọi con người đem toàn thân kết
hợp với Ngài trong sự thông hiệp vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên
Chúa" (MV 18).
Con người được tạo
thành là để hướng về Thiên Chúa. "Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con
người là con người được kêu gọi tới hiệp thông với Thiên Chúa" (MV 19).
Bởi vậy, người nào phủ nhận Thiên Chúa sẽ trở nên nghèo nàn, mất đi cái chủ
yếu. Chối từ Thiên Chúa sẽ làm cho nhân vị què quặt. Do mối quan tâm mục vụ
muốn giải thoát con người khỏi những hình thức khác nhau của chủ thuyết vô thần
hiện đại, Vatican II đã công bố một bản văn rất quan trọng – một bản văn là kết
quả của nhiều lần tranh luận và điều chỉnh – về những hình thức và mầm mống của
chủ thuyết vô thần, cũng như về thái độ của Giáo Hội trước chủ thuyết này. Bản
văn cho thấy tai họa lớn nhất của thời đại chúng ta : một nhân loại không có
Đức Kitô, không có Thiên Chúa. Giáo Hội không kết án vô thần, nhưng cảnh báo về
các nguyên nhân của nó. Trong số những nguyên nhân này, "phải kể đến phản
ứng chỉ trích chống lại tôn giáo, hơn nữa ở một vài nơi, còn chống lại cả
Kitô-giáo" (MV 19). Người công giáo nào không trung thành với những đòi
hỏi của đức tin chính là người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc này. Công Đồng
đã không ngần ngại nói thẳng : "Các tín hữu có thể chịu phần trách nhiệm
không phải là nhỏ trong việc khai sinh vô thần, hoặc bởi xao lãng việc giáo dục
đức tin, hoặc bởi trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những thiếu sót trong
đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội. Phải nói rằng họ che giấu hơn là bày tỏ
bộ mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo" (MV 19). Đừng trình bày cho người
khác một bộ mặt méo mó của Thiên Chúa.
Để kết thúc chương
quan trọng này, Vatican II hướng chúng ta tới Chúa Kitô, là phản ánh đích thực
của Thiên Chúa và của con người. Giáo Hội của Vatican II luôn luôn dựa vào ánh
sáng của Chúa Kitô để khám phá con người. Công Đồng nói : "Mầu nhiệm con
người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể" (MV 22).
"Đó là tính chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc
Khải Kitô-giáo soi sáng cho các tín hữu. Chính nhờ Chúa Kitô và trong Chúa
Kitô, bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu
chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại, đã hủy diệt sự chết
bằng cái chết của mình, và đã ban cho ta dồi dào sự sống, để với tư cách là con
cái trong Chúa Con, chúng ta kêu lên trong Thần Khí : Abba, Cha ơi ! " (MV
22).
b)
Cộng đồng nhân loại
Con người không
sống một mình, nhưng sống trong một xã hội. Xã hội cần thiết để nhân vị triển
nở. Ơn gọi sống cộng đồng được ghi khắc trong bản tính nhân loại. Nhiều văn kiện
của Huấn Quyền ban hành trước Công Đồng nói rất nhiều về đề tài cơ bản này. Đặc
biệt hai thông điệp "Mẹ và Thầy" (1961) và "Hòa bình
trên trái đất" (1963) của Đức Gioan XXIII đưa ra một tổng hợp về học
thuyết xã hội Kitô-giáo. Vatican II đã dựa vào những văn kiện ấy để trình bày
"một ít chân lý chính yếu" (MV 23) nhằm đáp ứng những nhu cầu của
thời đại chúng ta.
"Thiên Chúa đã
muốn rằng tất cả mọi người phải làm thành một gia đình và đối xử với nhau bằng
tình huynh đệ" (MV 24). Hơn nữa, "sự hiệp thông giữa các nhân
vị" (MV 23), là mục đích của mọi xã hội nhân loại, phải được hoàn tất
trong sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là giáo huấn của Mạc Khải. Dựa
vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha xin cho mọi người nên một,
có thể thấy "một sự tương tự nào đó giữa sự kết hợp của Ba Ngôi Thiên Chúa
với sự kết hợp của các con cái Chúa trong chân lý và bác ái" (MV 24). Sự
hiệp nhất của Ba Ngôi là nguyên mẫu (prototype) của sự hiệp nhất giữa con người
với nhau.
Con người và xã hội
lệ thuộc lẫn nhau. Sự thăng tiến và phát triển giữa hai bên cũng lệ thuộc nhau.
Trong xã hội mà con người sống, mọi sinh hoạt và tổ chức đều phải nhằm phục vụ
con người, vì "con người là và phải là nguyên lý, chủ thể và cứu cánh của
mọi định chế xã hội" (MV 25), kể cả các định chế của Giáo Hội. Nguyên tắc
trên chi phối mọi việc. Chính "nhờ trao đổi với người khác, nhờ phục vụ
lẫn nhau và nhờ đối thoại với các anh em, con người được tăng triển trong mọi
khả năng của mình và có thể đáp lại ơn gọi của mình" (ibid.).
Hiện tượng
xã-hội-hóa (và bây giờ là toàn cầu hóa), nếu đi đúng hướng, giúp ích rất nhiều
cho sự phát triển con người, vì con người được mời gọi sử dụng mọi thiện ích
vật chất cũng như tinh thần trên mặt đất này, để làm cho mình được phong phú.
Nhưng Công Đồng không quên cảnh báo rằng : "Nếu đời sống xã hội giúp nhiều
cho con người chu toàn sứ mệnh của mình, kể cả sứ mệnh tôn giáo, thì ta cũng
không thể phủ nhận rằng con người, do những bối cảnh xã hội họ đang sống và đã
ngụp lặn trong đó từ thuở thiếu thời, thường xa lánh không làm điều thiện và bị
lôi kéo làm điều ác" (ibid.).
Sự liên đới với
điêu thiện và điều ác ngày càng liên kết con người với nhau. Do các phương tiện
truyền thông xã hội tiến bộ mau chóng, cuộc sống của một người có liên hệ với
cuộc sống của nhiều người khác. Do đó những viễn tượng về đời sống con người
nói chung đã thay đổi. Từ nay, các quyền lợi và nghĩa vụ của con người có một
chiều kích toàn cầu. Bởi vậy, "bất cứ tập thể nào cũng phải tôn trọng nhu
cầu và những nguyện vọng chính đáng của các tập thể khác, hơn thế nữa, phải tôn
trọng công ích của toàn thể gia đình nhân loại" (MV 26).
Việc đề cao phẩm
giá con người làm phát sinh những hệ quả rất thực tế. Vatican II đưa ra một số
hệ quả như sau : "Cần phải cho con người tât cả những gì thiết yếu mà con
người phải có, để thực sự sống cho ra con người, như của ăn, áo quần, chỗ ở,
quyền tự do chọn lựa bậc sống và quyền lập gia đình, quyền được giáo dục, quyền
làm việc, quyền được bảo tồn danh thơm tiếng tốt, quyền được tôn trọng, quyền
được thông tin xứng hợp, quyền hành động theo quy tắc đúng đắn của lương tâm,
quyền bảo vệ đời sống tư và quyền tự do chính đáng, kể cả trong phạm vi tôn
giáo" (ibid.).
Tuy không ra vạ
tuyệt thông, Công Đồng vẫn mạnh mẽ tố giác những điều sau đây xúc phạm tới phẩm
giá con người : "Tất cả những gì đi ngược với chính sự sống như giết người
dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, giết chết cách êm dịu, tự tử
cố ý ; tất cả những gì xâm phạm sự toàn vẹn của con người, như cắt bỏ một phần
thân xác, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý ; tất cả những gì
xúc phạm đến nhân phẩm, như những điều kiện sống dưới mức con người, giam cầm
tùy tiện, lưu đày, nô lệ, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em ; cũng phải kể đến
những điều kiện lao động nhục nhã khiến cho công nhân hoàn toàn trở thành dụng
cụ cho lợi nhuận, chứ không được coi như con người tự do và có trách nhiệm :
tất cả những điều nói trên và những điều tương tự đều thực sự ô nhục" (MV
27). Chưa kể chúng còn làm hư hoại văn minh, bôi nhọ chính kẻ chủ động và xúc
phạm Đấng Tạo Hóa (ibid.).
Một điểm khác, rất
thời sự, là việc Công Đồng đấu tranh cho sự bình đẳng giữa mọi người. "Dĩ
nhiên mọi người không bằng nhau vì không có khả năng thể chất như nhau, cũng
không có năng lực trí tuệ và tinh thần như nhau. Tuy nhiên phải vượt lên trên
và loại bỏ mọi hình thức kỳ thị về những quyền lợi căn bản của con người, hoặc
trong phạm vi xã hội hoặc trong phạm vi văn hóa, kỳ thị vì phái tính, chủng
tộc, màu da, địa vị xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo, vì như vậy là trái với ý định
của Thiên Chúa" (MV 29).
Công Đồng đau buồn
nói lên thực trạng này : "Những chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội
giữa những thành phần hay giữa những dân tộc trong cùng một gia đình nhân loại
thực là những gương xấu và đi ngược với sự công bằng xã hội, lẽ phải, nhân phẩm
và nền hòa bình xã hội cũng như quốc tế (ibid.).
Vậy cần phải thay
đổi não trạng. Người kitô-hữu phải là người đầu tiên nêu gương bằng cách ra
khỏi lối sống của một thứ luân lý cá nhân chủ nghĩa, tiến tới một luân lý có
tính chất liên đới xã hội và toàn cầu. "Cần có những con người thực sự mới
và là những người kiến tạo một nhân loại mới" (MV 30).
Lãnh vực ân sủng
không phá hủy lãnh vực tự nhiên, nhưng hoàn tất nó. "Chính Ngôi Lời nhập
thể đã muốn chia sẻ tình liên đới nhân loại" (MV 32). Ngài đã thiết lập
"giữa tất cả những kẻ lấy lòng tin và lòng mến đón nhận Ngài một sự hiệp
thônghuynh đệ mới trong Thân Thể Ngài là Giáo Hội" (ibid.). "Sự liên
đới này cần phải không ngừng gia tăng cho tới ngày nó được hoàn tất ; ngày đó,
loài người được ân sủng cứu thoát, giống như một gia đình được Thiên Chúa và
Chúa Kitô là Anh yêu thương, sẽ dâng lên Thiên Chúa lời tôn vinh hoàn hảo"
(ibid.).
c)
Hoạt động của con
người trong vũ trụ
Sự tiến bộ khoa học
hiện nay cho thấy nhờ lao động và tài trí của mình, "nhất là với sự trợ
giúp của khoa học và kỹ thuật, con người đã và đang nới rộng sự thống trị của
mình trên hầu như tất cả thiên nhiên ... Do đó ngày nay con người đã dùng sức
cần lao tự cung ứng nhiều thiện ích mà xưa kia họ mong đợi trước nhất từ các mãnh
lực cao hơn" (MV 33).
Thế nhưng,
"đâu là ý nghĩa và giá trị của hoạt động cần cù ấy ? Phải sử dụng các sự
ấy ra sao ? Những cố gắng của cá nhân cũng như tập thể hướng tới mục đích nào ?"
(ibid.).
Đối với người
kitô-hữu, hoạt động của con người đáp lại ý định của Thiên Chúa (MV 34). Con
người thể hiện được chính mình chỉ nhờ hoạt động. Hơn nữa, nhờ lao động mà con
người trở thành cộng tác viên của Thiên Chúa. Điều này đúng không chỉ đối với
những công việc lớn, mà còn đúng cả đối với những công việc nhỏ thực hiện hằng
ngày. "Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, những người
nam cũng như người nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý
để tin rằng, nhờ lao động của mình, họ tiếp nối công trình của Đấng Tạo Hóa,
phục vụ các anh em, và bằng nỗ lực của mình góp phần hoàn thành ý định của
Thiên Chúa trong lịch sử" (ibid.).
Nơi các môn đệ chân
chính của Đức Kitô, đức tin và đức ái làm biến đổi mọi sự. Không có đời sống
tầm thường cho người kitô-hữu. Mỗi cử chỉ hành động của họ đều góp phần xây
dựng Thành Trì của Thiên Chúa. Mọi hành vi nhân linh đều có một giá trị vĩnh
cửu.
Công Đồng thừa nhận
rằng các thực tại trần thế có một sự tự trị nào đó. "Nếu sự tự trị của các
thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật và các xã hội đều có những định luật
và những giá trị riêng mà con người phải khám phá dần dần, sử dụng và điều hòa,
thì đòi hỏi một sự tự trị như thế là một việc hoàn toàn chính đáng : đó là điều
không những người thời nay đòi hỏi, mà còn phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo
Hóa" (MV 36). Nhưng tự trị không phải là độc lập. Thực tại trần gian phải
đưa tới thực tại vĩnh cửu. Người thời nay không thể sử dụng tạo vật mà không
quy hướng về Thiên Chúa. "Việc quên lãng Thiên Chúa làm cho chính tạo vật
trở nên mờ tối" (ibid.).
Hoạt động của con
người chỉ có ý nghĩa đích thực và hoàn tất trong Mầu nhiệm Vượt Qua. Trong Đức
Kitô, mọi hoạt động, dù bên ngoài xem ra vô ích, vẫn có giá trị cứu độ nếu phục
vụ người khác, và góp phần xây dựng trời mới đất mới. Thời gian chuẩn bị cho
vĩnh cửu. D đó hành vi nào của chúng ta cũng có một giá trị vô biên.
"Những giá trị về nhân phẩm, về sự hiệp thông huynh đệ, về sự tự do, nghĩa
là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người mang lại, mà chúng
ta đã phổ biến trên trái đất theo lệnh của Chúa Kitô và trong Thánh Thần, thì
chúng ta sẽ gặp lại chúng sau này, nhưng là gặp lại sau khi chúng đã được thanh
tẩy khỏi mọi tỳ ố, được chiếu sáng và biến đổi, khi Chúa Kitô giao hoàn lại cho
Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng, ‘Vương quốc của sự thật và sự sống,
Vương quốc thánh thiện và diễm phúc, Vương quốc công bình, yêu thương và bình
an’. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện
toàn khi Chúa đến" (MV 39).
d)
Vai trò của Giáo Hội trong thế giới hôm nay
–
Giáo Hội của Vatican II
hiểu rằng, đối với người thời nay, con người trở thành một vấn đề lớn, là trung
tâm của mọi sự. Thế nên Giáo Hội đối thoại với thế giới về chính con người, về
phẩm giá của ho, ơn gọi và hoạt động của họ. Giáo Hội phải cho con người thời
nay biết ý nghĩa sứ mệnh của mình và quan điểm của mình về những vấn đề của họ.
Chương IV của phần I này là cao điểm của Hiến chế Mục vụ soi sáng cho cả hai
phần của Hiến chế.
Với tư cách là Dân
thiên sai, Dân tiên tri, tư tế và vương giả, đáp lại ơn gọi thừa sai của mình,
Giáo Hội hướng tới mọi người, loan báo cho họ sứ điệp cứu độ. Đây chính là cơ
hội độc nhất giúp cho người ta nhận ra khuôn mặt đích thực của Giáo Hội. Là vì
Giáo Hội cũng ở trong thế giới, "cùng sống và cùng hoạt động với thế giới
ấy" (MV 40), cùng với mọi người đi vào một cộng đồng sinh mệnh.
Trong văn kiện cuối
cùng này của Công Đồng, Giáo Hội dùng một thứ ngôn ngữ dẫ hiểu và đơn sơ để nói
cho thế giới về nguồn gốc thần linh của mình, ơn gọi của mình, cũng như nhiệm
vụ hiện thời của mình giữa con người, sự hiện diện hoạt động của mình giữa các
thực tại trần thế, để nhờ đức tin soi dẫn mà biến đổi chúng, hướng chúng tới
vĩnh cửu.
Dựa vào những văn
kiện đã có trước, Giáo Hội cho thấy mình phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, theo
đuổi một mục đích cứu độ và siêu việt, nhưng mục đích ấy chỉ đạt được ở thế
giới mai sau. Và trong cuộc lữ hành trần thế, Giáo Hội nỗ lực thâu họp mọi
người như là những anh chị em thuộc cùng một gia đình nhân loại và thần linh.
Nói khác đi, Giáo Hội được trình bày cho mọi người dưới ba khía cạnh : Ba Ngôi,
cánh chung và lịch sử. Hiến chế viết : "Phát sinh từ tình yêu của Chúa
hằng hữu, do Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc thiết lập trong thời gian, được quy tụ
trong Chúa Thánh Thần, Giáo Hội có mục đích cứu rỗi và cánh chung. Mục đích này
chỉ có thể thành tựu trọn vẹn trong thời kỳ sẽ đến. Nhưng giờ đây Giáo Hội đã
hiện diện trên trái đất, được quy tụ gồm những con người là phần tử của xã hội
trần gian. Họ được kêu gọi để hợp thành gia đình các con cái Thiên Chúa ngay
trong lịch sử nhân loại, ngõ hầu tăng trưởng luôn mãi cho tời khi Chúa đến.
Hiệp nhất để nhằm đạt những thiện ích thiêng liêng và trở nên giầu có vì những
thiện ích ấy, gia đình này "như một xã hội được thiết lập quy củ trên trần
gian" bởi Chúa Kitô, được trang bị "các phương tiện thích hợp để kết
hợp thành một xã hội hữu hình". Như thế, là "một đoàn thể hữu hình và
cộng đồng thiêng liêng", Giáo Hội đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng
nhau chia sẻ một vận mệnh trần gian với thế giới ; Giáo Hội như men và hồn của
xã hội loài người, một xã hội sẽ được đổi mới trong Chúa Kitô và biến thành gia
đình của Thiên Chúa" (MV 40).
–
Cách trình bày trên đây có
thể cho ta hiểu sứ mệnh của Giáo Hội như thế nào. Đó là sứ mệnh liên hệ đến
từng người, đến xã hội nhân loại, đến các hoạt động của nhân loại. Ba số 41-43
khai triển cách chuyên biệt hơn vai trò của Giáo Hội về những gì đã nói trong
ba chương trước.
Đối với từng người,
Giáo Hội "bày tỏ cho biết ý nghĩa của cuộc đời con người, tức là sự thật
thâm sâu về con người" (MV 41). Con người muốn biết cuộc sống, hoạt động
và cái chết của mình có ý nghĩa gì, thì "chính sự hiện diện của Giáo Hội
nhắc nhở cho con người nhớ đến những vấn đề ấy", và giúp con người hiểu
rằng "chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và
cứu thoát con người khỏi tội lỗi, mới giải đáp đầy đủ về các vấn đề ấy"
(ibid.). Giáo Hội cũng giúp cho người ta thấy rằng "không một luật lệ nào
có thể bảo đảm phẩm giá và sự tự do của con người cách thích đáng bằng Phúc Âm
Chúa Kitô đã được trao phó cho Giáo Hội" (ibid.). Giáo Hội "dựa và
Phúc Âm ... mà công bố những quyền lợi của con người, nhìn nhận và tôn trọng sự
năng động của thời nay đang cổ võ những quyền lợi ất khắp nơi" (ibid.),
với điều kiện nó phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm. Tất cả đều nhằm bảo vệ phẩm
giá cao cả của con người.
Đối với xã hội nhân
loại, Giáo Hội giúp thiết lập và củng cố theo Lề Luật của Thiên Chúa, nhất là
"cổ võ sự hiệp nhất" (MV 42). Sứ mệnh này phù hợp với bản tính của
Giáo Hội, vì Giáo Hội "ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí
cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân
loại" (ibid.). Sự hiệp nhất trong xã hội phải dựa trên đức tin và đức mến,
do Giáo Hội chuyển thông, chứ không phải do thế lực bên ngoài nào. Ngoài ra,
Giáo Hội còn "là một mối dây liên kết hết sức chặt chẽ giữa các cộng đồng
nhân loại và các quốc gia khác nhau", trợ giúp và cổ võ những tổ chức thực
hiện những gì tốt đẹp và chính đáng (ibid.).
Đối với các hoạt
động nhân loại, Giáo Hội nhờ vào sự trợ giúp của các tín hữu con cái mình. Giáo
Hội khuyến khích các tín hữu "nỗ lực chu toàn cách trung thành những bổn
phận trần thế của họ" (MV 43). Chính đức tin đòi buộc họ như vậy, vì
"xao lãng bổn phận trần thế là xao lãng bổn phận đối với người lân cận và,
hơn nữa, đối với chính Thiên Chúa" (ibid.). Đàng khác, khi dấn thân vào
những công việc trần thế thì việc dấn thân này không được gây phương hại cho
đời sống tôn giáo. "Sự phân ly giữa đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc sống
thường nhật của nhiều người phải được kể vào số những sai lầm nghiêm trọng nhất
của thời đại chúng ta" (ibid.).
Hành vi góp phần
vào hoạt động của nhân loại thuộc cả giáo dân lẫn giáo sĩ. Giáo dân được nhấn
mạnh hơn, vì "những phận vụ và sinh hoạt trần thế thuộc lãnh vực riêng của
họ" (ibid.). Khi hoạt động, cá nhân hay đoàn thể, họ phải "đem luật
Chúa thấm nhập cuộc sống của xã hội trần gian" và "làm chứng cho Chúa
Kitô trong mọi hoàn cảnh" (ibid.). Phần các Giám mục và linh mục, các ngài
phải "rao giảng sứ điệp của Chúa Kitô sao cho mọi hoạt động trần thế của
các tín hữu thấm nhuần ánh sáng Phúc Âm", làm sao cho người ta thấy rằng,
"nguyên bằng sự hiện diện và kho tàng ân huệ của mình, Giáo Hội là nguồn
vô tận của những mãnh lực mà thế giới ngày nay rất cần" (ibid.). Các Giám
mục phải "chuyên cần học hỏi sao cho có thể đóng trọn vai trò trách nhiệm
của mình trong việc đối thoại với thế giới và với những người thuộc bất cứ lập
trường nào". Các linh mục được Công Đồng đặc biệt nhắc nhở là "phải
loại trừ mọi mầm mống chia rẽ" (ibid.).
Tiếp theo sau Đức
Phaolô VI, Giáo Hội khiêm tốn thừa nhận những thiếu sót của các con cái mình,
qua dòng lịch sử cũng như trong thời hiện tại. Do đó, Giáo Hội thúc giục các
con cái "ý thức và mạnh mẽ khử trừ những thiếu sót", "thanh tẩy
và canh tân" (ibid.).
Chính nhờ sứ mệnh của
Giáo Hội và dưới ánh sáng đức tin mà phẩm giá con người có những chiều kích vô
biên. "Người nào càng theo Chúa Kitô là Con Người hoàn hảo, thì càng trở
nên người hơn" (MV 44). Xã hội nào càng để cho tinh thần Phúc Âm thấm
nhập, thì xã hội đó càng có khả năng đào tạo những con người có ích cho mọi
người. Người tín hữu nào càng biết chu toàn nhiệm vụ của mình với lòng yêu mến,
người đó càng thực hiện ơn gọi làm người của mình là phục vụ các anh chị em.
–
Khi thực hiện sứ mệnh của
mình là phục vụ con người và thế giới, Giáo Hội cũng không quên ghi nhận rằng
mình đã nhận lại được rất nhiều từ lịch sử và sự tiến hóa của cuộc sống nhân
loại. "Kinh nghiệm của những thế kỷ đã qua, tiến bộ của khoa học, các kho
tàng ẩn giấu trong những hình thức văn hóa nhân loại khác nhau..., tất cả đều
hữu ích cho Giáo Hội" (MV 44). "Nhất là trong thời đại chúng ta, thời
mà sự việc biến đổi rất nhanh và lối suy tư rất nhiều khác biệt, Giáo Hội đặc
biệt cần đến sự đóng góp của những người sống trong thế giới và biết rõ các tổ
chức và bộ môn khác nhau" (ibid.). Cơ cấu xã hội hữu hình của Giáo Hội
được phong phú thêm nhờ cơ cấu xã hội nhân loại. Cả cộng đoàn cũng như từng
người trong Giáo Hội được nhiều người thuộc mọi giai cấp giúp đỡ. Thậm chí
những kẻ chống đối Giáo Hội cũng có thể giúp ích cho Giáo Hội.
Qua sự giúp đỡ hỗ
tương giữa hai bên, tức giữa Giáo Hội và thế giới, Giáo Hội chỉ nhằm một mục
đích là "làm cho Nước Chúa trị đến và toàn thể nhân loại được cứu rỗi...,
bày tỏ và thực hiện mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với con ng" (MV
45), hướng mọi sự về Chúa Kitô là Alpha và Omega, là "cùng đích của lịch
sử nhân loại, điểm quy tụ mọi ước vọng của lịch sử và văn minh, trung tâm của
nhân loại, niềm vui của tâm hồn, sự đáp ứng mọi khát vọng" (ibid.).
3.
Một số vấn đề cấp
bách
Sau phần trình bày
về thiên chức con người, cả trên bình diện cá nhân lẫn trên bình diện xã hội,
cũng như cho thấy ý nghĩa của hoạt động nhân loại, Công Đồng đi vào một số vấn
đề lớn và cấp bách, có liên hệ đến phẩm giá con người và vận mệnh nhân loại.
Những vấn đề này được bàn "dựa vào ánh sáng Phúc Âm và kinh nghiệm nhân
loại" (MV 46). Có năm vấn đề được trình bày, mà chúng ta chỉ ghi nhận
những nét chính.
a)
Phẩm giá của hôn nhân và gia đình
Phải nhìn nhận rằng
ở nhiều nơi trên thế giới, nhiều yếu tố và hoàn cảnh đã làm cho phẩm giá của
hôn nhân và gia đình bị lu mờ, tình yêu hôn nhân bị hoen ố, gia đình bị xáo
trộn trầm trọng. Chính vì vậy mà Công Đồng, "bằng cách làm sáng tỏ một vài
điểm trong giáo lý của Giáo Hội, muốn soi sáng và khích lệ người kitô-hữu cũng
như mọi người tđang cố gắng bảo toàn và cổ võ phẩm giá tự nhiên cũng như giá
trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân" (MV 47).
Trước hết, hôn nhân
và gia đình có sự thánh thiện vì do chính Thiên Chúa thiết lập và ban cho những
định luật riêng. Giữa vợ chồng có sợi dây liên kết thiêng thánh không lệ thuộc
sở thích riêng của con người. Đối với vợ chồng kitô-hữu, họ còn "được củng
cố và như được thánh hiến bằng một bí tích đặc biệt – bí tích Hôn Phối – để đảm
đương các bổn phận và phẩm giá của bậc mình" (MV 48).
Hôn nhân và gia
đình được xây dựng trên tình yêu. Tình yêu vợ chồng "có đặc tính cao
cả", hơn nữa "còn được Chúa chữa trị, cải thiện và nâng cao".
Như vậy, nó kết hợp yếu tố nhân loại và yếu tố thần linh. Tình yêu này
"phải thấm nhuần cả đời sống và hướng dẫn vợ chồng biết tự do trao hiến
cho nhau". Nó vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy, đòi hỏi sự trung thành
bất khả phân ly, không chấp nhận sự chia sẻ (MV 49).
"Hôn nhân và
tình yêu vợ chồng, tự bản tính, quy hướng về sự sinh sản và giáo dục con
cái" (MV 50). Sinh sản và giáo dục con cái là những hành vi đặc biệt cộng
tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, cộng tác với tình yêu của Ngài.
Phải coi những việc trên đây là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Họ phải
"chu toàn những bổn phận này với trách nhiệm của con người và của người
kitô-hữu" (ibid.).
Một vấn đề nóng
bỏng được Công Đồng đề cập : Làm thế nào để hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc
tôn trọng sự sống con người ? Vấn đề chính ở đây là việc hạn chế sinh sản và
các phương pháp được sử dụng. Công Đồng chỉ nói một cách đại cương : phải loại
trừ phương pháp xấu xa như phá thai, sát nhi, những phương pháp mà Huấn Quyền
bác bỏ khi giải thích luật Chúa. Công Đồng cũng nêu lên một nguyên tắc tổng
quát : "Khi cần hòa hợp tình vợ chồng với việc truyền sinh trong một tinh
thần trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ
thuộc vào ý muốn thành thực và cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định
theo những tiêu chuẩn khách quan, suy diễn từ bản tính của nhân vị và của hành
động nơi nhân vị" (MV 51). Công Đồng không quên khuyến khích vun trồng đức
khiết tịnh trong bậc vợ chồng.
Cuối cùng là lời
kêu gọi mọi người, chính quyền và các tập thể xã hội, các nhà khoa học, các
linh mục, cách riêng là chính đôi vợ chồng cộng tác vào việc thăng tiến hôn
nhân và gia đình (MV 52).
c)
Phát triển văn hóa
Nhân vị chỉ được
phát triển đích thực và trọn vẹn nhờ văn hóa, tức là “nhờ việc trau dồi những
ưu phẩm và giá trị của bản tính” (MV 53). Những ưu phẩm và giá trị này thuộc
mọi bình diện : thể lý và thân xác, trí khôn, nghề nghiệp, mỹ thuật, cá nhân và
xã hội, luân lý và tôn giáo. Nhân vị là một toàn bộ không thể phân chia, được
thể hiện theo một bậc thang hài hòa các giá trị.
Nhưng văn hóa là gì
? Công Đồng đưa ra một khái niệm khá chi tiết : “Theo định nghĩa tổng quát, chữ
‘văn hóa’ chỉ tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát triển các năng
khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác ; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng trí
thức và vao động ; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống
chính trị trở thành nhân đạo hơn, nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế
; sau hết, diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình những
kinh nghiệm tinh thần và khát vọng lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều
người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn” (ibid.).
Công Đồng rất ý
thức về sự đa nguyên văn hóa, dựa theo lịch sử và xã hội, cũng như dựa theo
xã-hội-học và dân-tộc-học. Tuy chấp nhận mọi kiểu mẫu văn hóa, nhưng Công Đồng
nhấn mạnh đến một kiểu mẫu văn hóa mới như mở ra “một kỷ nguyên mới của lịch sử”
(MV 54), một kiểu mẫu văn hóa có chiều kích toàn cầu, đặc biệt do sự mau lẹ của
các phương tiện truyền thông xã hội. Do đó mà Công Đồng nói : “Chúng ta là
chứng nhân của sự khai sinh một nền nhân bản mới trong đó con người được định
nghĩa trước hết tùy theo trách nhiệm của mình đối với anh em và đối với lịch sử”
(MV 55).
Ý thức về trách
nhiệm mục vụ của mình, Công Đồng đã quả quyết bằng một thứ tuyên ngôn rất quan
trọng, là mọi người đều có quyền được hưởng một văn hóa căn bản không thể
thiếu, để có thể đáp ứng với mọi khó khăn của cuộc sống, tùy hoàn cảnh và khả
năng, họ còn có quyền được hưởng một văn hóa cao hơn. Cần đọc đi đọc lại số 60
của Hiến chế : “Bổn phận thích đáng nhất của thời đại này, nhất là đối với các
kitô-hữu … là đem hết nỗ lực để khẳng định những nguyên tắc căn bản bắt buộc
mọi người phải thừa nhận và thực thi quyền của mọi người trên toàn thế giới
được hưởng văn hóa, vì đó là quyền phù hợp với phẩm giá con người… Do đó, phải
làm sao cho mỗi người có được một số vốn liếng đủ về văn hóa, nhất là văn hóa
căn bản, để một số lớn nhân loại không còn vì mù chữ hay thiếu sáng kiến mà
không thể cộng tác vào lợi ích chung đúng với danh nghĩa con người” (MV 60). “Bởi
thế, phải gắng sức làm cho những người có khả năng có thể theo học các bậc cao
đẳng ; và nếu có thể được, liệu cho họ đạt được những chức vụ và giữ những vai
trò mà họ có thể phục vụ trong xã hội tùy theo sở trường và năng khiếu họ đã
thâu thập được. Như thế mọi người và mọi tầng lớp xã hội thuộc mọi dân tộc đều
có thể phát triển trọn vẹn đời sống văn hóa phù hợp với tài năng và truyền
thống của họ” (ibid.).
Để kết thúc mục
này, trong số 62 của Hiến chế, Công Đồng nói đến thái độ mà Giáo Hội muốn có
đối với tất cả những biểu hiện của văn hóa, chẳng hạn trong lãnh vực thần học,
văn chương và nghệ thuật. Đó là thái độ thiện cảm biết khám phá những giá trị
tích cực trong văn hóa ; thái độ muốn dự phần và hiểu biết để nhận ra những
khía cạnh văn hóa thích hợp với giáo lý ; thái độ đối thoại trong bầu khí tự do
đối với những ai chuyên môn về nghiên cứu, đặc biệt trong lãnh vực thần học.
d)
Đời sống kinh tế xã
hội
Những nhu cầu về
thân xác và tinh thần của con người, sự phát triển nhân vị : đó là điều mà mọi
sinh hoạt, trong đó có sinh hoạt kinh tế xã hội phải nhắm tới. “Con người là
tác giả, là tâm điểm, là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế xã hội” (MV 63).
Đời sống hay sinh hoạt này ngày càng phát triển, nhưng không thiếu lý do để lo
lắng, nhất là vì có những bất bình đẳng, chênh lệch giữa các nghề nghiệp, trong
các địa phương, các quốc gia. Thế nên nó đòi phải được canh tân.
Dựa vào giáo huấn
mà Đức Gioan XXIII đã vạch ra trong thông điệp Mẹ và Thầy (Mater et
Magistra, 1961), nhưng nhằm cho những áp dụng mới, Vatican II đã nêu lên
những đường nét chủ lực về sự phát triển kinh tế cùng với cứu cánh của nó, vai
trò và trách nhiệm của con người, yêu cầu tiến bộ phù hợp sự phát triển kinh
tế, sao cho mọi thành phần trong xã hội đều góp phần vào sinh hoạt này và đều
được hưởng những thành quả của nó (x. MV 64-66).
Tiếp theo, Công
Đồng nhắc lại những nguyên tắc hướng dẫn toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, với
hai vấn đề chính được nêu ra : vấn đề lao động và vấn đề tư hữu.
Lao động là cách
diễn tả chính con người, “có giá trị hơn các yếu tố khác của đời sống kinh tế,
vì những yếu tố này chỉ có giá trị như dụng cụ” (MV 67). Người ta không những
có bổn phận lao động, mà còn có quyền lao động.
Có ba khía cạnh
được Công Đồng lưu ý hơn trong việc tổ chức lao động : tham gia vào việc quản
trị xí nghiệp, tùy theo nhiệm vụ của mỗi người ; công nhân được quyền tự do lập
nghiệp đoàn, vì nghiệp đoàn có thể thực sự đại diện cho họ và góp phần vào việc
tổ chức đời sống kinh tế một cách tốt đẹp” (MV 68) ; quyền đình công khi có
những tranh chấp về kinh tế xã hội và giải pháp đối thoại, điều đình không đạt
được kết quả. “Đình công, tuy là phương tiện cuối cùng, nhưng là phương tiện
cần thiết để bênh vực những quyền lợi riêng và thỏa mãn những đòi hỏi chính
đáng của công nhân” (ibid.).
Vấn đề tư hữu chắc
hẳn là vấn đề mới mẻ nhất của chương này. Trong nhiều điểm, người ta có thể
thấy một sự tiến bộ quan trọng về học thuyết. “Thiên Chúa đã đặt định trái đất
và mọi vật trên trái đất thuộc quyền sử dụng của mọi người và mọi dân tộc.
Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho mọi người cách hợp
lý theo luật công bằng, là luật đi liền với bác ái … Khi sử dụng của cải, con
người phải coi của cải vật chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không chỉ
như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa” (MV 69). Trong số 71 của Hiến
chế, Công Đồng nhắc lại những lý do làm cho quyền tư hữu trở thành chính đáng.
Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế khi cản trở những hình thức khác nhau của
quyền sở hữu cộng cộng.
Với tinh thần nghèo
khó của Phúc Âm, nhưng đồng thời mạnh mẽ dấn thân vào đời sống kinh tế xã hội,
người kitô-hữu góp phần vào sự thịnh vượng của nhân loại.
d)
Đời sống cộng đồng chính trị
Ngày nay, cộng đồng
chính trị đóng một vai trò quyết định trong đời sống các dân tộc. Do đó nó cũng
quan trọng trên bình diện tôn giáo.
Kiểu nói "cộng
đồng chính trị" không được hiểu theo nghĩa hẹp là đảng phái chính trị,
nhưng thiểu theo nghĩa rộng, bao gồm hoạt động của mọi guồng máy xã hội nhằm
phục vụ công ích. Ở đây, chữ "chính trị" đưa về ngữ nguyên của nó là "polis"
: nhằm thiện ích của đô thị. "Cá nhân, gia đình và tập thể, tức là mọi
thành phần của cộng đồng công dân, đều ý thức rằng, tự sức mình, không một
thành phần nào có thể xây dựng được một đời sống thực sự nhân bản, và đều nhận
thấy cần phải có một cộng đồng rộng lớn hơn, trong đó tất cả mọi người hằng
ngày hợp lực để mưu cầu công ích mỗi lúc một tốt đẹp hơn ... Chính công ích là
lý do tồn tại, là ý nghĩa và là căn bản pháp lý của cộng đồng chính trị"
(MV 74).
Như vậy, mọi công
dân đều có trách nhiệm về công ích này. Tùy theo khả năng, họ phải tham gia vào
đời sống chính trị, "tham gia cách tự do và tích cực vào việc thiết lập
nền tảng pháp lý của cộng đồng chính trị, tham gia vào việc điều hành quốc gia
và xác định mục tiêu cũng như phạm vi của những cơ quan khác nhau, tham gia vào
việc lựa chọn người cầm quyền" (MV 75). Họ có những bổn phận công dân phải
thi hành, trong đó có việc tuân thủ lề luật "theo lương tâm" (MV 74)
và phải có tinh thần ái quốc. Bù lại, họ phải được bảo đảm về quyền cá nhân
trong đời sống cộng đồng, như quyền tự do hội họp và lập hội, tự do ngôn luận,
tự do tôn giáo... Việc bảo đảm này còn là "điều kiện thiết yếu để người
công dân, với tư cách cá nhân hay đoàn thể, có thể tham gia cách tích cực vào
đời sống và guồng máy quốc gia" (MV 73). Cũng để mọi người có thể tham gia
hữu hiệu vào cộng đồng chính trị, "cần hết sức quan tâm đến việc giáo dục
cả về công dân lẫn về chính trị" (MV 75).
Những điều nói
chung cho mọi công dân còn được áp dụng cách đặc biệt hơn cho người kitô-hữu.
"Mọi kitô-hữu phải ý thức về vai trò đặc biệt và riêng trong cộng đồng
chính trị. Họ phải nêu gương bằng cách phát triển ý thức trách nhiệm nơi chính
mình và tận tâm phục vụ công ích ... làm sao dung hòa được quyền bính với tự
do, sáng kiến cá nhân với sự liên đới và với những đòi hỏi của toàn thể xã hội,
sự hiệp nhất sinh ích với những dị biệt phong phú..., nhìn nhận những quan điểm
chính đáng dầu đối chọi nhau, tôn trọng các công dân khác ... Không được đặt
quyền lợi riêng trên công ích" (ibid.). Người kitô-hữu vừa là công dân của
đô thị trần gian vừa thuộc về thành đô thiên quốc. Qua đô thị trần gian, họ
phải giúp mọi người là anh em đạt tới thành đô thiên quốc.
Công Đồng cũng
khẳng định rằng : "Cộng đoàn chính trị và Giáo Hội, mỗi bên với lãnh vực
riêng của mình, đều độc lập và tự trị". Nếu có được sự cộng tác lành mạnh
giữa hai bên thì lợi ích của con người càng được phục vụ hữu hiệu hơn (x. MV
76).
e)
Cổ võ hòa bình và
thăng tiến cộng đồng các dân tộc
Với đề tài cuối
cùng này, liên hệ đến chiến tranh hay hòa bình và cộng đồng các dân tộc,
Vatican II đụng chạm một vấn đề lớn chi phối vận mệnh của con người ngày mai.
Bản văn về vấn đề này đã được điều chỉnh và sửa chữa nhiều lần, gồm một nhập đề
nhắc lại ý niệm truyền thống về hòa bình (MV 77-78) và phần trình bày về việc
tránh chiến tranh (MV 79-82) và xây dựng cộng đồng quốc tế (MV 83-90).
"Toàn thể gia
đình nhân loại trong tiến trình trưởng thành đã bước vào một giai đoạn hết sức
quyết định" (MV 77). Nếu xảy ra một cuộc chiến tranh nguyên tử thì quả là
một thảm họa đe dọa phá hủy hầu như toàn thể nhân loại. Vậy phải cổ võ hòa bình
bằng mọi giá, chuẩn bị các phương tiện xây dựng hòa bình và củng cố nền hòa
bình đích thực.
Nhưng hòa bình đích
thực là gì ? – "Hòa bình không phải là thuần túy vắng bóng chiến tranh,
cũng không chỉ giản lược vào sự cân bằng giữa các lực lượng đối kháng, cũng
không phát xuất do một sự thống trị chuyên chế" (MV 78). Hòa bình đích
thực không chỉ có khía cạnh tiêu cực, nhưng tiên vàn là một sự xây dựng tích
cực đòi hỏi thiện chí của mọi người. Hòa bình là "công trình của công
bằng" (Is 32,7), hội tụ mọi yếu tố cấu tạo của một trật tự xã hội ổn định
theo một bậc thang hợp lý các giá trị. Augustinô định nghĩa hòa bình là
"sự yên hàn của trật tự". Điều này đúng cả trên bình diện cá nhân
(bình an trong tâm hồn) lẫn trong lãnh vực xã hội và quốc tế. Một cách sâu xa
hơn, Công Đồng nêu ra những điều kiện của hòa bình : "Hòa bình chỉ có được
trên trần gian, nếu giá trị của từng cá nhân được bảo đảm và mọi người tin
tưởng cũng như tự nguyện san sẻ cho nhau những của cải tinh thần và tài năng
của họ. Ý chí cương quyết muốn tôn trọng người khác, những dân tộc khác cũng
như phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi tình huynh đệ là những điều kiện
thiết yếu để xây dựng hòa bình. Như thế hòa bình cũng là kết quả của tình yêu,
một tình yêu vượt xa những gì công bằng có thể mang lại" (ibid.).
Mối bận tâm ưu tiên
và cụ thể của Giáo Hội là tránh chiến tranh. Công Đồng gợi ra những điều rất cụ
thể : giảm thiểu sự vô nhân đạo của chiến tranh, đặc biệt tội ác của chiến
tranh diệt chủng (MV 79) ; tránh chiến tranh toàn diện, tiêu diệt bừa bãi
nguyên cả một thành phố hay những vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó (MV 80) ;
ngừng thi đua võ trang, vì cuộc thi đua này "không phải là một con đường
an toàn để duy trì hòa bình cách vững chắc", cũng như "là một tai họa
hết sức nghiêm trọng cho nhân loại và xúc phạm đến người nghèo một cách không
thể tha thứ" (MV 81) ; phối hợp hoạt động với tầm mức quốc tế nhằm ngăn
chặn và chấm dứt chiến tranh, cổ võ những nỗ lực nhằm ngăn chặn những nguy cơ
xung đột, những hiệp ước vững chắc bảo đảm cho một nền hòa bình đại đồng (MV
82). Công Đồng cũng không quên nhắc rằng xây dựng hòa bình là công việc của mọi
người, và "phải nhớ rằng việc gieo rắc trong đầu óc mọi người những tư
tưởng mới về hòa bình là một bổn phận nặng nề nhất" (ibid.).
"Để xây dựng
hòa bình, trước hết cần phải tận diệt những nguyên nhân bất hòa giữa con người
với nhau" (MV 83). Đó là những bất công, những chênh lệc thái quá trong
địa hạt kinh tế, não trạng muốn thống trị, lòng tham lam, nghi kỵ, kiêu căng và
những đam mê ích kỷ. Cần có những tổ chức hợp tác quốc tế để hủy bỏ những
nguyên nhân này, đặc biệt trong lãnh vực kinh tế. Là vì, "mặc dù hầu hết
các dân tộc đã được độc lập về chính trị, nhưng còn lâu họ mới thoát khỏi những
chênh lệch thái quá và mọi hình thức lệ thuộc quá đáng cũng như tránh được mọi
nguy cơ trầm trọng từ những khó khăn bên trong" (MV 85).
Sự hợp tác quốc tế
không những để xây dựng hòa bình mà còn giúp xây dựng cộng đồng nhân loại nói
chung. Trong MV 86, Công Đồng đưa ra một số quy tắc hướng dẫn cho sự hợp tác
này. Ngoài lãnh vực kinh tế, có một vấn đề rất quan trọng trong thời đại này
cần sự hợp tác của cả thế giới, đó là vấn đề gia tăng dân số. Dân số gia tăng
quá nhanh khiến cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con người và phát triển nhân vị
trở nên khó khăn. Công Đồng không chấp nhận biện pháp làm giảm dân số của một
số quốc gia bằng những cách thức đi ngược lại luật luân lý (MV 87).
Trong sự hợp tác để
xây dựng cộng đồng nhân loại, Giáo Hội và từng người kitô-hữu có phần đóng góp
của mình, bằng sự hiện diện, lên tiếng, lạc quyên, viện trợ, phục vụ, tham gia
vào những tổ chức quốc tế (MV 88-89).
*
Trong Hiến chế cuối
cùng này của Công Đồng Vatican II, ta có thể thấy nỗ lực mục vụ của toàn thể
Giáo Hội hôm nay và ngày mai. Chưa bao giờ Giáo Hội có dịp đối diện với những
vấn đề lớn của cả nhân loại như lần này. Do ơn gọi thần linh của mình, Giáo Hội
có nhiệm vụ dựa vào Phúc Âm để soi sáng những vấn đề có liên hệ đến vận mệnh
trần gian và vĩnh cửu của con người hôm nay. Giáo Hội biết rằng thực hiện một
chương trình như thế là vượt quá sức nhân loại của mình, nhưng Giáo Hội dựa vào
sự trợ giúp của Thần Khí Thiên Chúa, vì Người vẫn ở giữa Giáo Hội cho đến tận
thế.
V.
Giáo HỘi và các kỸ thuẬt
truyỀn thông hiỆn đẠi
Ngay từ đầu và qua
những tuyên bố minh nhiên cũng như qua hoạt động hằng ngày, Công Đồng thừa nhận
giá trị của những tiến bộ dưới mọi hình thức trong nhân loại, trong đó có sự
tiến bộ của các kỹ thuật truyền thông hiện đại. Đó là ý nghĩa của Sắc lệnh về Các
phương tiện Truyền Thông xã hội, một văn kiện mới mẻ và bao quát đầu tiên
thuộc loại này, được ban hành đồng thời với Hiến chế về Phụng Vụ (08.12.1963).
Không những ca ngợi
những kỹ thuật kỳ diệu này, Giáo Hội còn muốn sử dụng chúng để loan truyền Tin
Mừng đến khắp nơi, giúp mọi người bắt gặp được tiếng nói của Thiên Chúa.
Thay lỜi kẾt
Ngay thời Giáo Hội
khai sinh, Công Đồng Giêrusalem đã giúp cho Giáo Hội tránh được những gánh nặng
của truyền thống và tục lệ Môsê. Đó là không đặt lên vai những người tân tòng
một gánh nặng nào khác (ám chỉ việc cắt bì) ngoài những điều cần thiết. Quyết
định này có sự hợp tác của Chúa Thánh Thần (x. Cv 15,28).
Công Đồng Vatican
II cũng ở trong một tình huống tương tự. Giáo Hội phải loan truyền sứ điệp Phúc
Âm cho mọi người, trong đó đa phần là những người chưa được biết Chúa. Hơn nữa,
trong thời đại mới này, Giáo Hội còn phải đương đầu với những thách đố của một
thế giới tiến bộ không ngừng và mau lẹ nhưng ngày càng xa rời hoặc không muốn
biết Thiên Chúa. Trước nguy cơ này, Đức Gioan XXIII đã triệu tập Công Đồng gồm
các Nghị Phụ đến từ khắp thế giới, họp tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô
như trong "Nhà Tiệc Ly mới", để nói lên rằng Giáo Hội được Chúa Thánh
Thần thúc đẩy, muốn lại ra đi với một tinh thần mới để hoán cải thế giới. Đây thực
sự là một "lễ Hiện Xuống mới", theo cách nói của Đức Gioan XXIII và
Phaolô VI, hai vị Giáo Hoàng của Công Đồng.
Thời kỳ sau Công
Đồng, cả Giáo Hội đã đi vào học hỏi, áp dụng và sống những văn kiện mà Công
Đồng đã công bố, theo ba mục tiêu chính : canh tân nội bộ Giáo Hội, hiệp nhất
với các anh em kitô-hữu ly khai, đối thoại với thế giới. Công việc này vẫn còn
đang được thực hiện. Thần Khí đã hỗ trợ Công Đồng, cũng hỗ trợ chúng ta bằng
ánh sáng và sức mạnh của Người. Mỗi người chúng ta, tùy vai trò của mình trong
Giáo Hội, hãy để cho Thần Khí và Giáo Hội hướng dẫn cộng tác vào việc thực hiện
giáo huấn mà Công Đồng đã vạch ra, cũng như giáo huấn tiếp tục đường lối của
Công Đồng mà Huấn Quyền đã, đang và sẽ ban hành.
SỨ
ÐiỆp CỦa Công ÐỒng
GỬi
ÐẾn TẤt CẢ MỌi NgưỜi
(20-10-1962)
Chúng tôi muốn gửi sứ điệp cứu độ, tình yêu và
hòa bình đến tất cả mọi người, đến mọi dân tộc, sứ điệp đã được Ðức Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống đem đến cho thế giới và giao phó cho Giáo Hội Người.
Chính vì mục đích đó, theo lời mời gọi của Ðức
Giáo Hoàng khả kính Gioan XXIII và "đồng tâm nhất trí trong kinh nguyện
cùng với Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu", chúng tôi, những người kế vị các Sứ
Ðồ, đã qui tụ nơi đây trong sự hiệp nhất của một Ðoàn Thể Sứ Ðồ mà người đứng
đầu là Ðấng kế vị Thánh Phêrô.
Ước gì khuôn mặt của
Ðức Giêsu Kitô tỏa chiếu!
Trong Nghị Hội Công Ðồng này, dưới sự hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng tôi quyết tìm cách canh tân chính mình chúng tôi
để "càng ngày chúng tôi càng nên trung thành hơn với Phúc Âm của Ðức
Kitô". Chúng tôi sẽ chuyên tâm trình bày chân lý của Thiên Chúa cho con
người thời đại, một chân lý toàn vẹn và thuần khiết để họ có thể hiểu được dễ
dàng và nhiệt tâm gắn bó với chân lý đó.
Ý thức trách nhiệm chủ chăn, chúng tôi muốn
đáp ứng những nhu cầu của mọi người tìm kiếm Chúa, "đang mò mẫm cố tìm với
hy vọng khám phá ra được Ngài và quả thực Ngài không xa cách mỗi người chúng
ta" (Cv 17,27).
Chính vì thế, vâng theo ý định của Ðức Kitô
Ðấng đã nộp mình chịu chết "hầu tự hiến cho mình một Giáo Hội không vết nhơ
hay nét nhăn... nhưng thánh thiện và tinh tuyền" (Ep 5,27), chúng tôi sẵn sàng hiến trọn con người chúng tôi cho công
cuộc canh tân tinh thần này để Giáo Hội, từ các thủ lãnh cho đến các phần tử,
chứng tỏ cho thế giới thấy khuôn mặt đáng yêu của Ðức Kitô tỏa chiếu trong tâm
hồn chúng ta "để làm rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa" (2 Cr 4,6).
Thiên Chúa đã quá
yêu thương thế gian.
Chúng tôi tin rằng Chúa Cha đã yêu thương thế
gian đến nỗi đã ban Con mình hầu cứu rỗi thế gian, giải thoát chúng ta khỏi ách
nô lệ tội lỗi, "giao hòa cả vạn vật với Cha Người, thiết lập hòa bình nhờ
bửu huyết đổ ra nơi thập giá Người", nhờ đó chúng ta trở thành "con
của Thiên Chúa, theo danh hiệu cũng như thực sự là thế". Người đã sai đến
cho chúng ta Thánh Thần Người từ nơi Cha, để cho chúng ta sống bằng chính cuộc
sống thần linh của Người trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với những
người anh em chúng ta khiến tất cả nên một trong Ðức Kitô.
Nhưng thay vì làm chúng ta quay lưng lại với
những nghĩa vụ trần thế, việc chúng ta gắn bó với Ðức Kitô trong Ðức Tin, Ðức
Cậy và Ðức Ái lại khiến chúng ta dấn toàn thân vào việc phục vụ những người anh
em chúng ta, theo gương Thầy đáng kính "Ðấng không đến để được phục vụ
nhưng để phục vụ" (Mt 20,28).
Chính vì thế, Giáo Hội được thiết lập không để cai trị nhưng để phục vụ.
"Người đã trao ban mạng sống mình vì chúng ta và chúng ta cũng phải giao
phó mạng sống chúng ta vì anh em" (1
Ga 3,16).
Ngoài ra, khi hy vọng những công việc của Công
Ðồng làm cho ánh sáng đức tin trở nên rực rỡ hơn sống động hơn, chúng tôi ước
mong tạo được một sự canh tân tinh thần và từ đó đem lại một niềm hứng khởi lý
thú làm phong phú gia tài nhân loại trong những phát minh khoa học, tiến bộ kỹ
thuật và phổ biến văn hóa.
Tình yêu Ðức Kitô
thúc đẩy chúng tôi.
Từ khắp mọi dân tộc trên mặt đất chúng tôi đến
đây mang theo với mình những nỗi khốn quẫn về vật chất cũng như tinh thần,
những khổ đau và khát vọng của các dân tộc đã được giao phó cho chúng tôi.
Chúng tôi hằng chú ý đến những vấn đề đang bao vây họ. Trước tiên chúng tôi
muốn đem sự săn sóc ân cần đến tận những người hèn mọn nhất, bần cùng nhất và
yếu kém nhất. Theo gương Ðức Kitô, chúng tôi thương xót đám đông dân chúng đang
phải khổ đau vì đói kém, vì khốn cùng, vì dốt nát. Chúng tôi hằng nhìn đến tất
cả những người, vì thiếu sự trợ giúp đầy đủ, hiện chưa thể đạt tới mức sống
xứng hợp với con người.
Vì thế, khi bắt tay vào việc, chúng tôi sẽ rất
chú trọng đến tất cả những gì có liên quan đến phẩm giá con người, những gì góp
phần vào sự hiệp thông thực sự giữa các dân tộc. "Tình yêu Chúa Kitô thúc
đẩy chúng tôi" (2 Cr 5,14)
"Nếu ai thấy người anh em mình lâm cơn túng thiếu mà lại khép kín cửa lòng
với người anh em, thì làm gì còn tình yêu của Thiên Chúa nơi mình ?" (1 Ga 3,17).
Hai vấn đề chính
yếu.
Trong sứ điệp truyền thanh ngày 21-09-1962,
Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã đặc biệt nhấn mạnh đến hai điểm :
Ðiểm thứ nhất là vấn đề hòa bình giữa các dân
tộc. Ai lại không gớm ghét chiến tranh ? Ai lại không hết sức khao khát hòa
bình ? Giáo Hội cũng vậy và còn hơn hết mọi người vì Giáo Hội là mẹ tất cả mọi
người. Qua tiếng nói của các Giáo Hoàng, Giáo Hội không ngừng tuyên bố lòng yêu
mến hòa bình, thiện chí xây dựng hòa bình và hết lòng cộng tác vào mọi nỗ lực
chân thành nhằm kiến tạo hòa bình. Giáo Hội hết sức làm việc để các dân tộc
xích lại gần nhau, hiểu biết nhau và kính trọng lẫn nhau. Chính Công Ðồng này,
với những dị biệt kỳ lạ về chủng tộc, về quốc gia và về ngôn ngữ lại không phải
là chứng từ sống động, là dấu chỉ hữu hình cho một cộng đoàn yêu thương huynh
đệ hay sao ? Chúng tôi khẳng quyết rằng tất cả mọi người đều là anh em dù thuộc
bất cứ chủng tộc hay quốc gia nào.
Ðiểm thứ hai, Ðức Giáo Hoàng chú trọng đến
công bằng xã hội. Giáo thuyết được trình bày trong thông điệp Mẹ và Thầy chứng
tỏ rõ ràng hơn bao giờ hết Giáo Hội trở thành cần thiết cho thế giới hiện đại
để tố giác những bất công và những bất bình đẳng trắng trợn, để tái tạo một bậc
thang đúng đắn cho các giá trị, làm cho đời sống trở thành nhân bản hơn theo
những nguyên tắc của Phúc Âm.
Sức mạnh của Thánh
Thần.
Chắc hẳn chúng tôi không có những phương tiện
kinh tế cũng như không có thế lực trần gian, nhưng chúng tôi đặt niềm tin tưởng
nơi sức mạnh của Thánh Thần mà Chúa Giêsu Kitô đã hứa ban cho Giáo Hội. Vì thế,
với lòng khiêm cung và nhiệt thành, chúng tôi kêu mời không phải chỉ những anh
em mà chúng tôi đang phục vụ với tư cách chủ chăn nhưng cũng kêu mời tất cả
những anh em tin vào Ðức Kitô và tất cả mọi người thiện chí "mà Thiên Chúa
muốn cứu thoát và đưa dẫn tới chỗ nhận biết chân lý" (1Tim 2,4). Ước gì
tất cả đều kết hiệp với chúng tôi trong công cuộc xây dựng ngay tại trần gian
này một xã hội công bằng hơn và huynh đệ hơn. Bởi vì ý định của Thiên Chúa là
muốn nước của mình chiếu tỏa phần nào trên mặt đất nhờ đức ái như một hình bóng
của vương quốc vĩnh cửu.
Giữa một thế giới còn đang quá xa cách hòa
bình mình mong đợi, còn đang lo âu trước những đe dọa đè nặng bởi những tiến bộ
kỹ thuật tự chúng rất đáng khâm phục nhưng cũng nguy hại bao lâu chúng không
qui chiếu vào một lề luật luân lý cao hơn, ước gì bừng lên ánh sáng của niềm hy
vọng lớn lao vào Ðức Giêsu Kitô, Vị Cứu Tinh duy nhất của con người chúng ta.
SỨ ÐiỆp CỦa
Công ÐỒng Nhân DỊp BẾ MẠc
(8-12-1965)
NhẬp ÐỀ
Ð.G.H. Phaolô VI tuyên đọc
Giờ lên đường, giờ giải tán đã điểm. Lát nữa,
Chư huynh sẽ từ giã nghị hội Công Ðồng để trở về gặp gỡ nhân loại, mang về cho
nhân loại tin vui của Phúc Âm Ðức Kitô và của việc canh tân Giáo Hội mà chúng
ta đã làm từ bốn năm nay.
Ðây là giờ phút độc nhất, giờ phút đầy ý nghĩa
và phong phú vô cùng! Trong cuộc đại hội hoàn cầu, ở một thời gian và một địa
điểm đặc biệt này, chúng ta thấy qui tụ lại tất cả quá khứ, hiện tại và tương
lai. Quá khứ vì ở đây tụ họp lại toàn thể Giáo Hội Ðức Kitô, với truyền thống
lịch sử của mình với các Công Ðồng, các Tiến Sĩ, và các Thánh của mình. Hiện
tại : vì chúng ta đang từ giã nhau để đi về gặp gỡ thế giới ngày nay, một thế
giới với các khốn cùng, đau thương và tội lỗi của nó nhưng cũng có giá trị và
nhân đức của mình. Sau cùng, tương lai : với tiếng gọi khẩn cấp của các dân tộc
đang mong mỏi công bình, với ý chí muốn xây dựng hòa bình và với khát vọng ý
thức hay vô ý thức về một đời sống cao đẹp hơn, đời sống mà chính Giáo Hội Chúa
Kitô hiện có thể và đang muốn mang lại cho họ.
Chúng tôi thấy như từ khắp nơi trên thế giới
đang vọng về tiếng xôn xao tuy mơ hồ nhưng lớn lao của tất cả những người hướng
nhìn về Công Ðồng và lo lắng hỏi chúng ta : các ngài lại không nói lời nào với
chúng tôi sao... ? Vâng chúng tôi đây là những nhà cầm quyền, những nhà trí
thức, những người lao động, những nhà nghệ sĩ... ? Chúng tôi, những phụ nữ,
những thanh niên, những người đau ốm và nghèo khổ, các ngài không có lời nào
cho chúng tôi sao ?
Những tiếng gọi thiết tha ấy phải được đáp
lại. Chính vì tất cả mọi tầng lớp nhân loại mà Công Ðồng làm việc từ bốn năm
nay ; chính vì muốn dành cho họ nên "Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới
ngày nay" đã được soạn thảo và hôm qua chúng tôi đã ban hành giữa những
tiếng hoan hô nhiệt liệt của Chư Huynh.
Từ cuộc suy niệm lâu dài của chúng ta về Chúa
Kitô và về Giáo Hội Người, giờ đây phải thốt lên tiếng nói đầu tiên, loan báo
nền hòa bình và sự cứu độ cho bao đám đông đang mong đợi. Trước khi từ biệt,
Công Ðồng muốn hoàn thành chức vụ tiên tri này. Công Ðồng muốn diễn tả
"Tin Mừng" mà Công Ðồng mang đến cho toàn thế giới bằng những sứ điệp
vắn và trong một ngôn ngữ mọi người có thể hiểu dễ dàng. Tin mừng này sẽ được
một vài Vị trong những phát ngôn viên có thẩm quyền của Công Ðồng nhân danh Chư
Huynh nói chuyện với toàn thể nhân loại.
GỬi Các Nhà CẦm QuyỀn
Hồng Y A. Liénart tuyên đọc :
Trong giờ phút long trọng này, chúng tôi,
những Nghị Phụ trong Công Ðồng thứ 21 của Giáo Hội Công Giáo sắp sửa từ giã
nhau sau bốn năm cầu nguyện và làm việc, ý thức trọn vẹn về sứ mạng của mình
đối với nhân loại, chúng tôi trân trọng và tín cẩn ngỏ lời với những vị hiện
đang cầm trong tay vận mệnh của mọi người trên địa cầu, cùng hết mọi người đang
cầm quyền bính trên trần gian.
Chúng tôi lớn tiếng tuyên bố : chúng tôi kính
trọng quyền hành và chủ quyền của quí vị, chúng tôi tôn trọng chức vụ của quý
vị. Chúng tôi nhìn nhận những pháp luật chính đáng của quí vị, chúng tôi quí
chuộng người làm ra cũng như người áp dụng những luật ấy. Nhưng chúng tôi có
một lời chí thánh để nói với quí vị, đó là : chỉ một mình Thiên Chúa là cao cả.
Chỉ một mình Thiên Chúa là nguyên thủy và là cứu cánh. Chỉ một mình Thiên Chúa
là nguồn gốc của quyền bính và là nền tảng các luật lệ của quí vị.
Chính quí vị có nhiệm vụ phải cổ võ cho nền
trật tự và hòa bình giữa mọi người trên trái đất. Nhưng xin đừng quên : Thiên
Chúa chân thực và hằng sống là Cha mọi người. Và chính Chúa Kitô, người Con
vĩnh cửu của Thiên Chúa đã đến nói cho chúng ta biết điều ấy và dạy cho chúng
ta biết tất cả đều là anh em với nhau. Chính Người là thợ cao cả của trật tự và
hòa bình thế giới vì chính Người hướng dẫn lịch sử nhân loại và chỉ một mình
Người mới có thể khiến các tâm hồn từ khước những dục vọng xấu xa, mầm mống
phát sinh ra chiến tranh và đau khổ. Chính Người là Ðấng chúc lành cho cơm bánh
của nhân loại, thánh hóa việc làm và những vất vả của nhân loại, mang lại cho
nhân loại những niềm vui mà quí vị không thể mang lại cũng như làm cho họ vũng
mạnh lại trong những đau thương mà quí vị không thể an ủi được.
Trong xã hội thế trần và hữu hạn của quí vị,
Chúa Kitô xây dựng cách nhiệm mầu xã hội tinh thần và vĩnh cửu của Người tức là
Giáo Hội của Người, vậy Giáo Hội mong muốn gì ở quí vị, sau hai ngàn năm biến
chuyển thăng trầm về mọi phương diện trong mối bang giao với quí vị, những
người nắm quyền lực trần gian ? Ngày nay Giáo Hội cầu mong gì ở quí vị ? Giáo
Hội đã nói nguyện vọng ấy cho quí vị trong một bản văn quan trọng của Công Ðồng
: Giáo Hội chỉ yêu cầu quí vị để tự do : tự do tin và rao giảng niềm tin của
mình, tự do yêu mến Thiên Chúa và phụng sự Ngài, tự do sống và mang đến cho mọi
người sứ điệp về sự sống. Xin đừng kiêng sợ Giáo Hội : Giáo Hội theo gương chủ
mình nên hoạt động mầu nhiệm của Giáo Hội không dẫm chân lên những đặc quyền
của quí vị nhưng để cứu nhân loại khỏi sự tàn tạ oan nghiệt, biến đổi nó, đổ
đầy niềm hy vọng, chân lý và vẻ đẹp.
Xin hãy để Chúa Kitô thi hành công việc tinh
luyện xã hội này! Xin đừng đóng đinh Người lại một lần nữa : việc đó là phạm
thánh vì Người là Con Thiên Chúa ; đó cũng là tự sát vì Ngài là Con Người. Xin
để yên chúng tôi, những thừa tác viên khiêm tốn của Người, đừng cản trở chúng
tôi trong việc gieo rắc khắp nơi "tin mừng" của Phúc Âm hòa bình, tin
mừng đã được chúng tôi nghiền ngẫm trong suốt thời kỳ Công Ðồng. Dân chúng của
quí vị sẽ là những người đầu tiên được hưởng ơn ích tin mừng hòa bình này vì
Giáo Hội nhằm đào tạo cho quí vị những người công dân liêm chính biết yêu
chuộng hòa bình và tiến bộ.
Trong ngày long trọng bế mạc các phiên hội của
Công Ðồng Chung lần thứ 21 này, Giáo Hội, qua tiếng nói của chúng tôi, xin gửi
tới quí vị tình thân hữu, ý chí phục vụ và những năng lực tinh thần cũng như
đạo đức của mình. Giáo Hội xin gửi đến tất cả quí vị sứ điệp cứu độ và chúc
lành. Xin hãy tiếp nhận sứ điệp ấy trong cùng một tinh thần như đã được gửi đi,
nghĩa là với một tấm lòng hoan hỉ, chân thành và xin quí vị cũng chuyển tới tất
cả dân chúng của quí vị.
GỬi GiỚi Trí ThỨc
Hồng Y P. Léger tuyên đọc :
Công Ðồng đặc biệt gửi lời chào kính tới những
người kiếm tìm chân lý, những nhà tư tưởng và khoa học, những nhà thám hiểm vũ
trụ, lịch sử và con người. Xin chào thăm tất cả quí vị, những người lữ hành
đang tiến về ánh sáng, cả những người đã đứng lại dọc đường vì mệt mỏi hoặc
thất vọng vì tìm không thấy.
Tại sao chúng tôi lại chào kính đặc biệt quí
vị ? Bởi vì tất cả chúng tôi đây, những giám mục, Nghị Phụ Công Ðồng, chúng tôi
cũng đang ngóng tìm chân lý. Nỗ lực của chúng tôi trong bốn năm qua là gì, nếu
không phải là một cuộc tìm kiếm chú ý hơn và đào sâu sứ điệp chân lý đã được
giao phó cho Giáo Hội, một nỗ lực lắng nghe thuần thục và chăm chú hơn trước
tiếng nói của Thần Chân Lý ?
Vì thế chúng tôi không thể không gặp gỡ quí
vị. Con đường quí vị cũng là con đường của chúng tôi. Ðường lối quí vị cũng
không bao giờ xa lạ với những đường lối chúng tôi. Chúng tôi là những người bạn
đồng hành cùng được kêu gọi để tìm kiếm như quí vị, cùng chia sẻ mệt nhọc với
quí vị, cùng chung tiếng thán phục những thành quả của quí vị, và nếu cần, có
thể khích lệ khi quí vị nản chí và thất bại.
Vì thế chúng tôi có một sứ điệp gửi tới quí
vị. Sứ điệp ấy như sau : xin hãy tiếp tục tìm kiếm và đừng bao giờ nản chí,
thất vọng vì không tìm được chân lý! Xin hãy nhớ tới lời người bạn thân thiết
của quí vị là Thánh Augustinô : "Hãy tìm kiếm với ước muốn gặp thấy, và
gặp thấy với ước muốn kiếm thêm mãi"! hạnh phúc cho những ai đã gặp thấy
chân lý nhưng vẫn còn kiếm tìm thêm mãi để đổi mới, để đào sâu chân lý và mang
chân lý tới cho người khác. Hạnh phúc cho những ai dù chưa gặp gỡ chân lý,
nhưng vẫn thành tâm tiến tới chân lý : mong họ tìm ánh sáng ngày mai nhờ ánh
sáng hôm nay, cho đến lúc chan hòa ánh sáng.
Xin cũng đừng quên : suy nghĩ là một việc cao
cả, nhưng trước hết là một nhiệm vụ. Bất hạnh thay cho những người cố tình nhắm
mắt trước ánh sáng! Suy nghĩ còn là một trách nhiệm : bất hạnh thay cho những
người làm tinh thần mờ tối bằng trăm ngàn thủ đoạn khiến họ chán nản, kiêu
căng, lầm lẫn và sai lệch! Nguyên tắc căn bản của những nhà khoa học là gì nếu
không phải là : cố gắng suy nghĩ đúng ?
Ðể giúp suy nghĩ đúng, chúng tôi đến cống hiến
quí vị ánh sáng của cây đèn mầu nhiệm là đức tin, không phải để làm quẩn chân
hay làm chói mắt quí vị. Ðấng trao gởi ánh sáng đức tin cho chúng tôi là vị tôn
sư của tư tưởng và chúng tôi là những đệ tử khiêm tốn của Người, chỉ một mình
Người đã nói và có quyền nói : "Ta là ánh sáng thế gian. Ta là đường, là
sự thật và là sự sống".
Lời nói trên đây có liên hệ đến quí vị. Nhờ ơn
Thiên Chúa, cái khả năng hòa đồng sâu xa giữa khoa học chân chính và đức tin
chân chính có lẽ không bao giờ lại hiện rõ hơn ngày hôm nay vì cả hai điều phục
vụ cho chân lý duy nhất. Xin đừng ngăn cản cuộc gặp gỡ quí báu này! Xin hãy tín
nhiệm đức tin, vốn là người bạn thân của trí tuệ! Xin hãy để ánh sáng đức tin
soi sáng quý vị ngõ hầu nắm được chân lý, toàn thể chân lý. Ðó là lời cầu chúc,
sự khích lệ và hy vọng mà các Nghị Phụ trên khắp thế giới họp Công Ðồng tại
Roma gửi tới quí vị trước giờ phút chia tay.
GỬi GiỚi Văn NghỆ Sĩ
Hồng Y L. Suénens tuyên đọc :
Giờ đây, chúng tôi xin ngỏ lời với quí vị văn
nghệ sĩ, những người say mê và phục vụ cái đẹp : quí vị là những thi sĩ, văn
sĩ, họa sĩ, điều khắc gia, kiến trúc sư, nhạc sĩ, diễn viên cũng như chuyên
viên kịch nghệ và điện ảnh... Qua tiếng nói của chúng tôi, Công Ðồng Giáo Hội
xin ngỏ lời với toàn thể quí vị : nếu yêu chuộng nghệ thuật chân chính thì quí
vị là bạn hữu của chúng tôi.
Ðã từ lâu, Giáo Hội liên kết với quí vị. Quí
vị đã xây dựng và trang hoàng những đền thờ, suy tôn các tín điều, làm giàu cho
phụng vụ của Giáo Hội. Quí vị đã giúp đỡ Giáo Hội diễn tả sứ điệp thánh của
mình ra ngôn ngữ hình thể và sắc thái, khiến cho thế giới vô hình có thể được
cảm nhận.
Ngày nay cũng như trong quá khứ, Giáo Hội vẫn
cần đến quí vị và hướng về quí vị. Qua tiếng nói của chúng tôi, Giáo Hội ngỏ
lời cùng quí vị : xin đừng để tan vỡ mối liên kết phong phú tột bực. Xin đừng
chối từ đem tài năng ra phụng sự chân lý Thiên Chúa. Xin đừng đóng cửa tinh
thần quí vị trước hơi thở của Thánh Thần Chúa!
Thế giới chúng ta sống ngày nay đang cần đến
cái đẹp để khỏi chìm đắm vào thất vọng. Cái đẹp, cũng như sự thật mang lại niềm
vui cho tâm hồn con người, đó chính là những hoa trái quí giá không tàn úa vì
thời gian nhưng nối kết các thế hệ lại và làm cho họ thông cảm nhau khi thán
phục nhau. Công trình ấy là do bàn tay của quí vị...
Ước mong những bàn tay ấy được thanh sạch, vô
vị lợi! Xin hãy nhớ rằng quí vị là những người bảo vệ cái đẹp trong thế giới :
mong rằng chỉ điều đó cũng đủ khiến quí vị vượt qua những thị hiếu phù du không
có giá trị đích thức, đủ khiến quí vị tránh tìm những lối diễn tả dị kỳ và bất
nhã.
Ước chi lúc nào và chỗ nào quí vị cũng vẫn
xứng đáng với lý tưởng mình để rồi sẽ xứng đáng với Giáo Hội, mà ngày hôm nay
qua tiếng nói của chúng tôi, xin gửi đến quí vị sứ điệp thân hữu, cứu độ, ân
phúc và chúc lành.
GỬi CÁC PhỤ NỮ
Hồng Y L. Duval tuyên đọc :
Giờ đây chúng tôi xin ngỏ lời với nữ giới
thuộc hết mọi thành phần : các thiếu nữ, các người vợ, người mẹ, các quả phụ,
cả những người đồng trinh đã dâng mình cho Chúa và các người ở độc thân : tất
cả quí vị chiếm một nửa đại gia đình nhân loại.
Như quý bà và chị em đã biết, qua các thời
đại, Giáo Hội hãnh diện vì đã làm vẻ vang và giải phóng người phụ nữ, đã làm
nổi bật trong sự khác biệt phái tính sự bình đẳng căn bản của Nữ giới với
Nhưng bây giờ đã đến lúc sứ mệnh người nữ được
thể hiện hoàn toàn. Ðây là lúc người phụ nữ có một ảnh hưởng, một sự phát huy
và một quyền lực từ trước đến nay chưa từng có trong xã hội.
Vì thế, trong khi nhân loại đang trải qua một
biến động sâu xa như lúc này, những phụ nữ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm có thể
giúp đỡ rất nhiều cho nhân loại thoát khỏi sự suy đồi.
Quý bà và chị em bao giờ cũng góp phần bảo vệ
gia đình, tuôn chảy nguồn yêu thương và dưỡng dục trẻ thơ. Quý bà và chị em
hiện diện lúc mầu nhiệm sự sống bắt đầu và ủi an trong giờ cuộc đời chấm dứt.
Nền kỹ thuật của chúng ta có thể trở nên vô nhân đạo nên xin quý bà và chị em
hãy hòa giải con người với sự sống. Nhất là chúng tôi tha thiết thỉnh cầu quý
bà và chị em hãy săn sóc đến tương lai của giống nòi chúng ta. Hãy giữ tay
người đàn ông lại nếu trong một phút điên cuồng họ muốn tiêu hủy nền văn minh
nhân loại.
Hỡi các người vợ, người mẹ gia đình, là những
nhà giáo dục đầu tiên của nhân loại trong lòng tổ ấm gia đình, xin truyền thụ
cho con trai con gái quý bà những truyền thống của cha ông chúng ta, đồng thời
chuẩn bị cho chúng một tương lai xa vời. Các bà hãy luôn nhớ là nhờ con cái nên
người mẹ góp phần vào tương lai, một tương lai có lẽ mắt quý bà sẽ không được
nhìn thấy.
Cả những chị em ở độc thân nữa, xin ý thức
rằng chị em có thể chu toàn trọn vẹn sứ mệnh phục vụ của mình. Xã hội khắp nơi
đang kêu gọi chị em, ngay các gia đình cũng không thể sinh hoạt nếu gạt bỏ sự
trợ giúp của những người không lập gia đình.
Nhất là những người đồng trinh đã dâng mình
cho Chúa trong một thế giới mà chủ nghĩa ích kỷ và sự ham tìm khoái lạc muốn
trở nên qui luật sống, chị em hãy duy trì đức trong sạch, lòng vô vị lợi và
tinh thần đạo đức. Chúa Giêsu, Ðấng đã ban cho tình yêu vợ chồng trọn vẹn ý
nghĩa của nó cũng đã đề cao sự từ khước tình yêu nhân loại này khi nó hướng về
tình yêu vô biên và nhằm phục vụ mọi người.
Sau cùng, hỡi những người đang bị thử thách,
quý bà và chị em đang đứng thẳng dưới chân thánh giá như Ðức Maria, biết bao
lần trong lịch sử, quý bà và anh chị em đã mang lại cho người đàn ông sức mạnh để
chiến đấu tới cùng, đã giúp họ làm chứng nhân ngay cả tử vì đạo, một lần nữa
xin hãy giúp họ can đảm làm những công cuộc lớn, đồng thời biết kiên nhẫn và
biết bắt đầu bằng những công việc nhỏ.
Hỡi tất cả phụ nữ, quý bà và chị em biết cách
làm cho chân lý trở nên êm ái, dịu dàng, dễ hiểu, xin hãy chuyên chú làm cho
tinh thần Công Ðồng được thấm nhập vào cơ cấu, trường học, gia đình và đời sống
hằng ngày.
Hỡi các phụ nữ trên toàn thế giới thuộc Kitô
giáo hay vô tín ngưỡng, sự sống đã được giao phó cho quý vị trong phút giây
lịch sử nghiêm trọng này, quý bà và chị em có nhiệm vụ cứu vãn nền hòa bình thế
giới.
GỬi GiỚi Lao ÐỘng
Hồng Y P. Zoungrana tuyên đọc :
Trong suốt Công Ðồng này, chúng tôi, các Giám
Mục Công Giáo khắp năm châu, đã cùng nhau suy nghĩ những vấn đề nghiêm trọng
trong số bao nhiêu đề tài khác đặt ra trước lương tâm nhân loại do những điều
kiện kinh tế xã hội của thế giới ngày nay, vấn đề sống chung giữa các quốc gia,
vấn đề võ trang, chiến tranh và hòa bình. Chúng tôi hoàn toàn ý thức rằng cách
thức giải quyết những vấn đề này có thể ảnh hưởng đến đời sống cụ thể của nam
nữ công nhân trên khắp thế giới. Vì thế, sau những phiên thảo luận, chúng tôi
mong ước gửi đến tất cả anh em lao động một sứ điệp tín cẩn, hòa bình và thân
hữu.
Hỡi những người con rất thân mến, thoạt tiên
xin hãy yên trí rằng Giáo Hội hiểu biết những nỗi thống khổ, cuộc tranh đấu,
niềm hy vọng của anh em. Giáo Hội rất khâm phục những đức tính làm cho tâm hồn
anh em nên cao đẹp, đó là lòng can đảm, sự tận tụy, lương tâm nghề nghiệp, lòng
yêu chuộng công bình. Giáo Hội nhìn nhận đầy đủ những sự phục vụ lớn lao anh em
đã mang lại cho xã hội khi mỗi người ở địa vị mình, và đôi khi trong những địa
vị khiêm tốn nhất, bị khinh rẽ nhất, Giáo Hội rất hài lòng và xin cảm tạ anh em
qua tiếng nói của chúng tôi.
Trong những năm vừa qua, Giáo Hội không ngừng
lưu tâm đến những vấn đề càng ngày càng phức tạp của thế giới lao động. Tiếng
vọng từ trong hàng ngũ lao động đối với những thông điệp vừa qua của các Ðức
Giáo Hoàng đã chứng tỏ tâm hồn người lao động ngày nay hòa hợp mật thiết với
các vị lãnh đạo tinh thần cao cả nhất của mình.
Ðức Gioan XXIII, Ðấng làm giàu cho gia tài
Giáo Hội bằng những sứ điệp trứ danh, đã tìm ra được ngôn ngữ thấu đến tâm hồn
anh em. Nơi con người của ngài, ngài đã làm sáng tỏ tất cả tình yêu của Giáo
Hội đối với người lao động cũng như đối với chân lý, công bình, tự do, bác ái,
là những nền tảng xây dựng hòa bình thế giới.
Cũng trong tinh thần ấy, chúng tôi cũng muốn
được tỏ bày lòng yêu mến của Giáo Hội đối với anh em, những người lao động, và
với tất cả lòng xác tín chân thành, chúng tôi xin nói với anh em rằng : Giáo
Hội là bạn của anh em. Xin hãy tín cẩn vào Giáo Hội! Trong quá khứ, những hiểu
lầm đáng tiếc đã kéo dài quá lâu sự nghi kỵ và sự bất đồng giữa chúng ta ; Giáo
Hội và giới thợ thuyền đều phải đau khổ vì việc đó. Ngày nay, giờ hòa giải đã
điểm, và nhờ tinh thần của Công Ðồng Giáo Hội mời gọi anh em hoan hỉ cử hành
giờ đó với tất cả sự tin tưởng thành thực.
Giáo Hội luôn luôn cố tìm để hiểu rõ anh em
hơn. Nhưng anh em cũng phải tìm hiểu Giáo Hội là gì đối với anh em, những người
lao động, những tay thợ chính yếu đang thực hiện các biến đổi lạ lùng cho thế
giới ngày nay. Anh em quá biết rằng : nếu một luồng linh khí mãnh liệt không
phổ vào những biến đổi này, chúng ta sẽ trở thành tai họa cho nhân loại thay vì
mang lại hạnh phúc cho họ. Không phải hận thù sẽ cứu vớt thế giới! Không phải
chỉ có cơm bánh trần gian có thể làm no thỏa cơn đói của con người!
Vì thế, hãy đón nhận sứ điệp của Giáo Hội. Hãy
đón nhận đức tin được Giáo Hội hiến dâng cho anh em để soi đường dẫn lối. Ðó là
đức tin của vị kế nghiệp Thánh Phêrô và của hai ngàn Giám Mục họp lại nơi Công
Ðồng, đó là đức tin của toàn dân Chúa. Mong Ðức Tin ấy soi sáng cho anh em, dẫn
lối cho anh em, làm cho anh em hiểu biết Chúa Giêsu, bạn đồng lao với anh em,
là Thầy và là Ðấng Cứu Ðộ của toàn thể nhân loại.
GỬi NgưỜi Nghèo, BỆnh TẬt Và Ðau KhỔ
Hồng Y P. Méouchi tuyên đọc :
Ðối với tất cả các bạn, những anh em đang bị
thử thách, đang bị đau khổ dày vò dưới muôn hình vạn trạng. Công Ðồng xin gửi
đến một sứ điệp đặc biệt.
Công Ðồng cảm thấy anh em đang ngóng nhìn về
mình với những con mắt cầu khẩn, sáng rực vì cơn sốt hoặc đờ đẫn vì mệt nhọc,
những cái nhìn dò hỏi đang vô vọng tìm hiểu tại sao con người lại đau khổ hay
đang lo âu tự hỏi xem bao giờ và tự đâu sẽ có nâng đỡ.
Anh em rất thân mến, chúng tôi cảm thấy rất
sâu đậm những lời rên siết và than thở của anh em đang vang lên trong lòng
những người cha và chủ chăn của chúng tôi, chúng tôi càng buồn sầu khi nghĩ
rằng mình không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn
bên ngoài cho anh em như các bác sĩ, y tá và tất cả những người săn sóc bệnh
nhân đang cố gắng tận tình cứu chữa.
Nhưng chúng tôi có một cái gì sâu xa hơn, quí
giá hơn để mến tặng anh em, một chân lý duy nhất có thể trả lời cho mầu nhiệm
đau khổ và mang lại cho anh em sự an ủi chân thật : đó là đức tin và sự kết
hiệp với con người đau khổ là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng bị đóng đinh vì
tội lỗi cũng như để cứu rỗi chúng ta.
Chúa Kitô đã không diệt trừ đau khổ. Người
cũng không muốn vén lên hoàn toàn chiếc màn mầu nhiệm của đau
khổ cho chúng ta : Người lại nhận đau khổ cho mình và vì thế đã
quá đủ cho chúng ta hiểu rõ giá trị của đau khổ.
Hỡi tất cả anh em, những người đang cảm thấy
thập giá đè nặng, những người nghèo túng, bị bỏ rơi, những người đang khóc lóc,
đang bị bách hại vì sự công chính, những người không được ai nói đến, những
người đau khổ vô danh, xin hãy lấy lại can đảm. Anh em là những người được ưu
đãi trong nước Chúa, nước có hy vọng, hạnh phúc và sự sống. Anh em là những
người em của Chúa Kitô đau khổ và nếu anh em muốn, anh em cùng cứu vớt thế gian
với Người.
Ðó là học thuyết Kitô giáo về đau khổ, học
thuyết duy nhất mang lại bình an. Xin biết chắc chắn rằng anh em không cô độc,
không bị loại trừ, bị bỏ rơi hoặc bị coi là vô dụng. Trái lại anh em là những
người được Chúa Kitô kêu gọi, là hình ảnh sống động và trong suốt của Chúa.
Nhân danh Chúa, Công Ðồng âu yếm chào thăm anh em, cảm ơn và đoan chắc với anh
em về tình thân hữu, về sự giúp đỡ của Giáo Hội và chúc phúc lành cho anh em.
GỬi GiỚi TrẺ
Hồng Y G. Agagianian tuyên đọc :
Sau hết Công Ðồng muốn gửi cho các bạn thanh
niên và thiếu nữ toàn thế giới bức sứ điệp sau cùng vì chính các bạn sắp được
nhận lấy ngọn đuốc từ tay phụ huynh và sẽ sống trong thế giới vào lúc diễn ra
những biến đổi vĩ đại nhất của lịch sử. Chính các bạn, trong khi thừa hưởng
phần tốt nhất của gương sáng và giáo huấn nơi cha mẹ cũng như thầy dạy, các bạn
đang tiến tới việc kiến tạo xã hội ngày mai : các bạn sẽ tự cứu được mình hay
sẽ bị tiêu diệt cùng với xã hội ấy.
Ròng rã bốn năm qua, Giáo Hội đã làm việc để
làm trẻ lại khuôn mặt mình, sao cho mỗi ngày một phù hợp với ý định của Ðấng
sáng lập, Ðấng Hằng Sống Cao Cả là Chúa Kitô muôn đời trẻ trung. Vào phút chót
cuộc "duyệt lại đời sống" quan trọng này, Giáo Hội hướng về các bạn.
Chính cho những người trẻ các bạn, phải, đặc biệt cho các bạn mà Giáo Hội qua
Công Ðồng vừa thắp lên một ánh sáng : ánh sáng soi cho tương lai, tương lai đời
các bạn.
Giáo Hội lưu tâm muốn cho xã hội các bạn sắp
thiết lập biết tôn trọng phẩm giá, tự do, quyền lợi của con người, cũng là
chính con người các bạn.
Giáo Hội đặc biệt lưu tâm làm sao cho xã hội
này sẽ để cho cái kho tàng luôn luôn cổ kính và luôn luôn mới mẻ là đức tin
được nảy nở, và sao cho tâm hồn các bạn có thể tự do tắm gội trong ánh sáng tốt
lành của nó. Giáo Hội tin tưởng rằng : các bạn sẽ gặp được một sức mạnh và một
niềm vui lớn lao đến độ các bạn sẽ không bị quyến rũ như một số đàn anh, buông
mình theo những triết thuyết ích kỷ và khoái lạc, thất vọng và hư vô, đồng thời
đứng trước chủ nghĩa vô thần, hiện tượng của suy nhực và già cỗi, các bạn có
thể củng cố lòng mình tin tưởng ở đời và tin chân lý làm cho đời sống có một ý
hướng : đó là xác tín có một Thiên Chúa công bình và tốt lành.
Chính nhân danh Thiên Chúa và Con Ngài là Chúa
Giêsu, chúng tôi khuyên các bạn hãy mở rộng tâm hồn ra tới mọi chiều hướng của
thế giới, lắng nghe tiếng gọi của các anh em và đem những nghị lực trẻ trung ra
phục vụ cho họ.
Hãy chiến đấu chống mọi ích kỷ. Hãy chống lại,
đừng tự buông thả theo các bản năng hung bạo và hận thù, là mầm mống gây nên
chiến tranh và biết bao điều khốc hại khác. Xin hãy đại độ, trong sạch, kính
cẩn và chân thành. Xin hãy đem nhiệt huyết ra xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn
cái thế giới của đàn anh các bạn!
Giáo Hội nhìn đến các bạn
với lòng đầy tín cẩn và yêu thương. Vốn mang một dĩ vãng lâu dài và hằng sống
động trong mình đồng thời luôn luôn đi tới sự hoàn thiện nhân loại qua thời
gian cũng như vừa tiến tới những chân trời sau cùng của lịch sử và sự sống.
Giáo Hôi là sự trẻ trung đích thực của thế giới. Giáo Hội mang vốn liếng làm
nên sức mạnh và vẻ đẹp của tuổi trẻ : đó là khả năng biết hoan hỉ trước những
gì mới bắt đầu, biết cho đi mà không mong trả lại, biết tự đổi mới và ra đi tìm
những chinh phục mới. Xin hãy nhìn Giáo Hội và các bạn sẽ khám phá ra khuôn mặt
Chúa Kitô, vị anh hùng chân chính, khiêm tốn và khôn ngoan, vị ngôn sứ của chân
lý và tình yêu, là bạn đường và bạn thân của người trẻ. Nhân danh chính Chúa
Kitô chúng tôi chào thăm, khuyên nhủ và chúc lành cho các bạn.
13/11/1964 tặng mũ ba tầng cho người
nghèo hiện ở vương cung thánh đường