NĂM ĐỨC TIN VỚI THÁNH TÔMA (bài 14)
ĐỀ TÀI: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại
=========
Phan Tấn Thành
Trước khi đọc bài chú giải của thánh Tôma
về mục XI của Tín biểu các thánh Tông đồ, xin nêu lên vài nhận xét về bản văn.
1/ Bản dịch tiếng Việt lặp lại “tôi tin”, còn
nguyên bản Latinh chỉ viết một lần “tôi tin” cho toàn thể phần thứ ba của Tín
biểu (Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần). Như đã có dịp lưu ý, chính Thánh Linh
là chủ động của sự thánh hóa và hợp nhất Giáo hội , vì
thế cũng là chủ động của ơn tha thứ; ngoài ra, Thánh Linh là nguyên ủy của đời
sống mới nơi người Kitô hữu cũng sẽ là Đấng hoàn tất công trình này qua việc
cho thân xác sống lại để họ chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu.
2/ Trong việc phát biểu tín điều, chúng ta
thấy có ít là hai công thức: a) carnis resurrectio (sự sống lại của thân
xác), b) resurrectio mortuorum (sự sống lại của người chết). Công thức
thứ nhất được dùng trong Tín biểu các thánh Tông đồ, có lẽ vì muốn chống lại
phái ngộ giáo: họ không chấp nhận rằng thân xác sẽ sống lại bởi vì họ coi thân
xác là xấu xa tội lỗi. Qua lời tuyên xưng sự sống lại, Giáo
hội khẳng định rằng thân xác cũng được cứu độ. Công
thức thứ hai được dùng trong Tín biểu công đồng Constantinopolis, phù hợp với
ngôn ngữ của 1 Cr 15. Lời tuyên xưng này muốn nói lên rằng ơn cứu độ chi
phối toàn thể con người (cả hồn cả xác) và tất cả mọi người (hết mọi sinh linh).
2/ Thánh Tôma coi tín điều phục sinh thân
xác như là một công trình của Thánh Linh trong Hội thánh: ngài làm cho linh hồn
được nên thánh, và làm cho thân xác được sống lại. Có lẽ tác giả nghĩ đến “tứ chung” (bốn sự sau cùng), cho nên bài này được kết cấu theo
số 4: có bốn điểm phải suy nghĩ; và mỗi điểm bao gồm bốn điều.
-------
Mục 11. (Tôi tin) thân xác sống lại
Thánh Linh không chỉ thánh hóa linh hồn
những người thuộc về Hội thánh nhưng do quyền năng của Ngài, thân xác của chúng
ta sẽ được sống lại. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Rôma (4, 24): “Chúng ta
tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết”, vào
cho các tín hữu Corintô: “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì
cũng nhờ một người mà những kẻ chết được sống lại” (1Cr 15, 21). Như vậy
chúng ta tin rằng những người chết sẽ được sống lại. Về điều này cần xét đến
bốn điểm: (1) niềm tin này mang lại những lợi ích gì
cho chúng ta; (2) đặc điểm của thân xác phục sinh, dù là người lành hay người
dữ; (3) trạng thái của những người lành và (4) trạng thái của những người dữ.
A. Những lợi ích của niềm tin
Liên quan đến điểm thứ nhất, niềm tin
và hy vọng vào sự sống lại mang cho chúng ta bốn điều lợi ích sau đây.
1. Trước hết, nó cất đi nỗi buồn phiền gây
ra bởi những người quá cố. Thật vậy không ai mà không đau đớn về cái chết của
người thân hay bạn bè. Nhưng niềm hy vọng người đó sẽ sống
lại sẽ làm giảm đi sự đau đớn ấy. Thánh Tông đồ viết cho các tín hữu
Thesalonica: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu,
chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền
như những người khác, là những người không có niềm hy vọng” (1Tx 4, 13).
2. Thứ hai, nó cất đi nỗi sợ hãi cái chết. Nếu
ai không hy vọng vào một cuộc sống khác và tốt hơn sau cái chết, thì chắc chắn
người đó rất lo sợ về cái chết, và có thể sẵn sàng phạm bất kỳ một tội ác nào
miễn là tránh cái chết. Nhưng vì chúng ta tin vào một đời sống khác sẽ đến với
chúng ta sau khi chết, cho nên chúng ta không sợ cái chết, cũng chẳng làm hành
vi sai trái để tránh nỗi sợ này. Tác giả thư gửi Hip-ri viết: Như vậy, nhờ
cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma
quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô
lệ” (Hr 2, 14-15).
3. Thứ ba, nó nhắc nhở ta hãy tỉnh thức và
nhiệt thành làm việc thiện. Giả như cuộc sống chỉ giới hạn vào đời này mà thôi
thì chúng ta sẽ chẳng có một động lực lớn để hành động cao cả bởi vì cho dù làm
bất cứ việc gì đi nữa thì nó cũng chẳng có ra gì so với niềm khao khát sự vĩnh
cửu chứ không chỉ là cái gì hữu hạn hoặc chỉ trong một thời gian hữu hạn. Trái
lại, chúng ta tin rằng nhờ những việc làm ở đời này chúng ta sẽ nhận được phần
thưởng đời đời trong sự phục sinh; vì thế chúng ta hăng say muốn làm điều tốt, như
thánh Phaolô quả quyết: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì
đời này mà thôi, thì chúng ta quả là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”
(1Cr 15, 19).
4. Cuối cùng, nó giúp chúng ta tránh xa
điều dữ. Cũng như niềm hy vọng đạt được phần thưởng sẽ thúc
giục chúng ta làm điều tốt, thì nỗi sợ về sự trừng phạt dành cho những hành
động gian ác sẽ giúp chúng ta tránh xa điều dữ. Chúa đã dạy: Ai đã
làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống ; ai đã
làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5, 29).
B. Các đặc điểm của những người sống lại
Thân xác của những người sống lại, dù là kẻ
lành hay kẻ dữ, sẽ có bốn đặc điểm như sau:
1. Sự đồng nhất của thân xác phục
sinh. Thân xác ấy cũng là một với thân xác hiện nay về xương
và thịt. Vài người chủ trương rằng thân xác hiện tại
bị hủy hoại và sẽ không sống lại, nhưng họ nó đi ngược với thánh Tông đồ:
Cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt” (1Cr 15, 53). Kinh thánh khẳng định rằng nhờ quyền năng Thiên Chúa, chính thân
xác này sẽ chỗi dậy để sống. Ong Gióp đã tuyên bố với bạn hữu rằng: “Tôi
biết rằng vào ngày chót, tôi sẽ chỗi dậy từ đất, và tôi sẽ mặc lấy da, và thân
xác, tôi sẽ nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19, 26).
2. Điều kiện thứ hai liên quan đến phẩm
tính của thân xác phục sinh. Thân xác phục sinh khác với thân xác hiện tại ở
chỗ bất khả diệt: những người lành và những người dữ đều có thể xác bất
khả diệt, tuy rằng người lành sẽ hưởng vinh quang vĩnh viễn còn người dữ bị
luận phạt mãi mãi. Cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt ; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử”
(1Cr 15, 53). Vì thân xác sẽ bất diệt và bất tử nên sẽ không cần thức ăn hay tương quan vợ chồng. Chúa Giêsu đã trả lời cho người
Sa-đốc rằng: “Trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ
giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22, 30). Điều này
trái ngược với niềm tin Do thái giáo và Hồi giáo. Ong Gióp nói: “Kẻ
xuống âm phủ . . . sẽ chẳng trở về mái nhà xưa” (G 7, 10).
3. Thứ ba, tình trạng nguyên vẹn của
thân xác phục sinh: cả người tốt lẫn kẻ xấu sẽ chỗi dậy với thân xác nguyên
tuyền, là điều thuộc về bản tính tòan vẹn của con người. Sẽ
không còn người mù, người què hay bất kỳ tàn tật nào, như thánh Tông đồ đã
viết: Những kẻ chết sẽ chỗi dậy mà không còn hư nát” (1Cr 15, 52), nghĩa
là không còn phải chịu những hư nát như hiện nay nữa.
4. Tuổi của thân xác phục sinh. Tất cả đều sống lại trong độ tuổi hoàn hảo nhất, đó là độ tuổi 32
hoặc 33. Điều này là bởi vì những ai chưa đến tuổi này
thì chưa đạt được sự hoàn hảo, còn ai qua tuổi này rồi thì đã mất đi sự hoàn
hảo. Do đó, trẻ em và thanh niên sẽ được thêm những gì họ thiếu còn
người già thì sẽ được hồi phục lại những gì đã mất. Thật vậy thánh Phaolô đã
viết rằng tất cả chúng ta cần đạt tới tình trạng của con người toàn thiện
tới, tới tầm tuổi viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4, 13).
C. Trạng thái của các phúc nhân
Thân xác những người lành sẽ nhận
được một vinh quang đặc biệt, bởi vì thân xác vinh quang của các phúc nhân sẽ
được bốn đặc điểm.
1. Sự sáng chói. Chúa Giêsu nói với
các môn đệ:”Vào thời tận thế, người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong
Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe” (Mt 13, 43).
2. Bất khả thụ nạn (không thể đau
khổ). Theo lời thánh Tông đồ: “Gieo xuống (thân xác) thì hèn hạ, mà chỗi dậy
thì vinh quang” (1Cr 15, 43). Còn sách Khải huyền thì Chúa nói rằng: “Thiên
Chúa sẽ lau sạch nước mắt những kẻ được tuyển chọn. Sẽ không
còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ
đã biến mất” (Kh 21, 4).
3. Sự nhanh nhẹn. Sách Khôn ngoan
viết: “Họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp
rừng sậy” (Kn 3, 7).
4. Tính tinh diệu. Thánh Phaolô khẳng
định với tín hữu Côrintô : “Gieo xuống là thân thể
động vật, mà chỗi dậy là thân thể thiêng liêng” (1Cr 15, 44). Điều này
không muốn rằng thân thể trở thành thiêng liêng hoàn toàn, nhưng có nghĩa là
một thân thể hoàn toàn dưới ảnh hưởng của thần khí
D. Trạng thái của những người bị luận
phạt
Trạng thái của người bị luận phạt thì
tương phản hoàn toàn với các phúc nhân. Họ phải chịu một hình phạt đời đời, và
cũng mang theo bốn đặc tính gây ra khổ sở cho họ.
- Thật vậy thân xác của họ sẽ đen đủi
chứ không chói sáng: “Mặt của chúng sẽ bị thiêu hủy hoàn toàn” (Is 13, 8).
- Thứ đến, thân xác họ sẽ chịu khổ cực
tuy không thể bị hủy hoại. Thân xác họ bị thiêu đốt trong lửa
nhưng sẽ không bị hủy diệt. Ong Isaia viết: “Giòi bọ rúc rỉa chúng sẽ
không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tàn lụi” (Is 66, 24).
- Thứ ba, thân xác họ sẽ nên nặng nề
bởi vì ra như linh hồn sẽ bị trói buộc vào thân xác ấy, như thánh vịnh nói: “Các
vua chúa bị xiềng xích” (Tv 149, 8).
- Cuối cùng, cả linh hồn và thân xác họ sẽ
ở trong một tình trạng xác thịt nào đó, và có thể áp dụng lời của ông Gioel : “Thú vật sẽ mục nát trong những điều nhơ bẩn của
chúng” (Ge 1, 17).
(daminhvn.
net) Friday, 04 January 2013 08:49