(daminhvn.net) Saturday, 19
January 2013)
Năm Đức tin với thánh Tôma (bài 16):
Kinh Lạy Cha
Trong Năm Đức tin, đức thánh cha mời gọi chúng ta học hỏi Sách Giáo lý
Hội thánh Công giáo, với bốn phần: Tuyên xưng đức tin (Kinh Tin kính), Cử hành
đức tin (Phụng vụ và các bí tích), Sống đức tin (Mười điều răn), Cầu nguyện
(Kinh Lạy Cha). Một cách tương tự, chúng ta cũng học hỏi các bài giáo lý của
thánh Tôma Aquinô qua các bài chú giải Kinh Tin kính, Kinh Lạy Cha, Mười
điều răn. Thử hỏi: thánh Tôma dựa theo thứ tự nào?
Trong bài đầu tiên, chúng tôi đã
trưng dẫn lời giải thích của thánh Tôma: để được cứu rỗi, cần phải thực hành ba
nhân đức “Tin – Cậy – Mến”. Đối tượng của đức Tin là kinh Tin kính; đối
tượng của đức Cậy là kinh Lạy Cha (những điều trông mong hy vọng); đối tượng
của đức Mến là Mười điều răn (mến Chúa yêu người).
Chúng ta cũng có thể hình dung
một cấu trúc khác nữa, đó là thứ tự đối đáp: sáng khởi từ Thiên Chúa và
đáp trả từ con người.
- Kinh Tin kính diễn tả sáng khởi của Thiên Chúa (những điều Chúa mạc
khải, cùng với ân sủng và các bí tích, được nhắc đến
trong phần cuối của tín biểu: “Tôi tin sự hiệp thông trong các sự thánh”, “Tôi
tin ơn tha thứ”).
- Kinh Lạy Cha diễn tả sự đáp trả của con người, cầu xin ơn Chúa để có thể
thực hành những điều Chúa dạy (Mười điều răn).
Những bài giáo huấn về Kinh Lạy Cha được chia làm bốn phần:
1. Mở đầu là một bài Dẫn nhập: giới thiệu
giá trị của Kinh Lạy Cha.
2. Bài thứ hai chú giải những lời đầu của
bản kinh: Lạy Cha / của chúng con / Đấng ngự trên trời.
3. Phần chính yếu là chú giải 7 lời cầu
xin; mỗi lời cầu được gắn với một ơn Chúa Thánh Thần và với một mối phúc thật
4. Bài cuối cùng là Kết luận: tóm tắt những
điều cầu xin.
Hôm nay, chúng ta bắt đầu với bài dẫn nhập,
gồm hai điểm chính.
1/ Trước tiên, thánh Tôma trình bày giá trị của Kinh Lạy Cha qua 5 đặc
tính cần thiết của việc cầu nguyện, đó là: a) tin tưởng, b) ngay chính, c) thứ
tự, c) thành tâm, d) khiêm tốn.
2/ Sau đó, tác giả nói đến ba công hiệu bởi kinh này, đó là: a) giải
thoát chúng ta khỏi ba điều dữ; b) giúp chúng ta đạt được những điều mong ước;
c) làm cho chúng ta trở thành thân mật với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể xem bài dẫn nhập này như một tóm tắt thần học về việc
cầu nguyện, được tác giả giải thích rộng hơn trong Sách Tổng luận thần học
(II-II, quaestio 83, với 17 mục, mục thứ 9 bàn riêng về kinh Lạy Cha). Ngoài
những bản văn Kinh thánh, thánh Tôma thường quy chiếu các giáo phụ, đặc biệt là
thánh Augustinô (Thư gửi bà Proba).
--------------
Dẫn nhập[1]
I. Kinh Lạy Cha thể hiện tuyệt vời 5 đặc tính của lời cầu nguyện chính
đáng
Trong tất cả các kinh nguyện, Kinh Lạy Cha tuyệt vời nhất, bởi vì kinh
này chứa đựng 5 đặc tính của lời cầu nguyện chính đáng, đó là : 1) tin tưởng,
2) ngay chính, 3) thứ tự, 4) thành tâm và 5) khiêm tốn.
1) Tin tưởng
Thật vậy, lời cầu nguyện được nâng đỡ bởi lòng tin tưởng phó thác, nhờ
đó chúng ta có thể “mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng”
(Dt 4,16), và “với niềm tin, không do dự”, bởi
vì, như thánh Giacôbê đã nói, “một người do dự nghi nan thì đừng trông mong
sẽ nhận được ơn Chúa ban” (xc. Gc 1,6.7).
Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện mang lại cho chúng ta niềm tin tưởng, bởi
vì đã được soạn ra bởi Vị Trạng sư của chúng ta trước tòa Thiên Chúa, Kẻ bầu cử
rất khôn ngoan, Đấng “nắm giữ mọi kho báu của sự cao minh thông tuệ” (xc. Col 2, 3), Đấng mà thánh Gioan viết rằng: “Chúng ta
có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”
(1Ga 2, 1). Vì thế thánh Cyprianô đã viết thật chí lý trong Khảo luận về Kinh
Lạy Cha: “Vì đã có Đức Kitô là trạng sư bên cạnh Chúa Cha để biện hộ cho những
tội lỗi chúng ta, chúng ta hãy để cho vị trạng sư lên tiếng”.
Kinh Lạy Cha còn mang lại sự bảo
đảm và tin tưởng hơn nữa khi biết rằng: Đức Kitô là kẻ đã dạy chúng ta kinh
nguyện thì cũng chính là kẻ, cùng với Chúa Cha, sẽ nhậm lời chúng ta cầu xin, ngõ
hầu ứng nghiệm lời thánh vịnh: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại” (Tv 91,15). Vì thế thánh Cyprianô đã nói :
“Thật là một lời cầu nguyện của bạn hữu thân thiết khi chúng ta thưa chuyện
với Thiên Chúa bằng chính những lời Người đã dạy”[2]. Do đó chắc chắn thế nào kinh này
cũng mang lại hoa trái, và theo lời thánh Augustinô, thì nhờ đọc kinh này mà
Thiên Chúa sẽ tha thứ những tội nhẹ của chúng ta[3].
2) Ngay chính
Thứ đến, lời cầu nguyện của chúng ta phải ngay chính, nghĩa là phải xin
Chúa ban những điều tốt lành cho chúng ta. Thánh Gioan Đamascô đã dạy rằng:
“Cầu nguyện là xin Thiên Chúa ban cho những điều tốt lành cho mình”[4]. Điều này giải thích tại sao nhiều lần lời chúng ta cầu nguyện không
được chấp nhận, đó là vì ta xin những điều không tốt cho mình, như thánh
Giacôbê đã nói: “anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý”
(Gc 4, 3).
Tuy nhiên, không dễ gì biết được cần phải
xin những điều gì, bởi lẽ thật khó biết được những điều thật sự tốt lành đáng
mong ước. Thật vậy, điều mong ước mà thích đáng thì lời cầu xin mới thích
đáng. Thánh Phaolô đã nhận thức điều này khi viết: “Chúng ta không biết
cầu nguyện thế nào cho phải lẽ” (Rm 8, 26). Thế nhưng, Đức Kitô là Thầy
chúng ta, đã đích thân dạy chúng ta phải xin những gì, khi các môn đệ thưa với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc
11, 1).
Vì thế lời cầu nguyện sẽ rất ngay chính khi
chúng ta xin Chúa những điều mà chính ngài đã dạy chúng ta phải cầu. Thánh Augustinô đã nói: “nếu chúng
ta muốn cầu nguyện một cách ngay chính và xứng hợp, thì cho dù ta dùng những
lời lẽ gì đi nữa, nhưng ta chỉ được xin những điều đã được chứa đựng trong Kinh
Lạy Cha mà thôi”[5].
3) Thứ tự
Lời cầu nguyện cần phải có thứ tự, cũng tựa
như lòng ước muốn cũng cần phải có thứ tự. Thật vậy, lời cầu nguyện
là sự bộc lộ của lòng ước muốn. Thế nhưng, trong những
điều ước muốn và cầu xin thì trật tự đòi hỏi rằng chúng ta cần đặt những điều
tốt về tinh thần lên trên những điều tốt về vật chất, cũng như những điều tốt
trên trời lên trên những điều tốt ở dưới thế. Thật vậy, Chúa Giêsu đã
khuyên chúng ta: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính
của Người, còn tất cả những thứ kia – cái ăn, cái
uống, sự sống – thì Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Đó
chính là điều mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha, trong đó tiên vàn
chúng ta cầu xin những điều tốt trên trời, rồi đến những điều tốt ở dưới trần
thế.
4) Thành tâm
Lời cầu xin cần phải thành tâm, bởi vì lòng nhiệt thành sốt sắng sẽ làm
cho lời cầu nguyện trở thành hy lễ đẹp lòng Thiên Chúa, như vịnh gia đã diễn
tả: “Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh
Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn
rã khúc hoan ca” (Tv 63, 5.6).
Lòng sốt sắng thường bị giảm bớt
do những lời kinh rườm rà. Vì thế Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải tránh những
lời lải nhải rườm rà: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại;
họ nghĩ rằng càng dài lời thì lời kinh càng được chấp thuận” (Mt 6, 7).
Thánh Augustinô trong thư gửi Proba, cũng nói : “Hãy
tránh những lời lải nhải. Tuy nhiên, đừng giảm bớt lòng tha
thiết cầu khẩn, nhưng hãy nuôi dưỡng lòng nhiệt thành”. Đó cũng là lý do
mà Chúa Giêsu đã muốn cho kinh Lạy Cha vắn gọn. Lòng nhiệt
thành được nuôi dưỡng nhờ tình yêu trào ra từ đức ái, nghĩa là mến Chúa yêu
người. Hai mối tình này được nêu bật trong Kinh lạy
Cha. Lòng mến Chúa được thúc đẩy khi chúng ta hướng về Ngài và thưa “Cha
ơi”; lòng yêu người được kích thích khi, cùng hiệp thông với mọi người, chúng
ta cầu nguyện cho hết thảy mọi người khi đọc lên: “Lạy
Cha của chúng con”, và “xin Cha hãy tha nợ cho chúng con”. Thật
vậy, đó là điều mà lòng yêu người dẫn tới.
5) Khiêm tốn
Sau cùng, lời cầu nguyện phải khiêm tốn bởi vì Thiên Chúa: “đoái nghe
tiếng kêu cầu của kẻ khiêm tốn, và không chê bỏ lời họ nguyện xin”(Tv 102, 18). Một lời cầu nguyện khiêm nhu chắc chắn được
chấp nhận, như Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta trong dụ ngôn về người biệt phái
và người thâu thuế (xc. Lc 18, 9-15). Lời cầu của bà
Giuđitha (9, 16) cũng thế, bà thưa với Chúa : “Ngài là
Thiên Chúa của kẻ khiêm nhu và Đấng hộ phù kẻ bị bỏ rơi”.
Sự khiêm nhu này được thi hành trong Kinh
Lạy Cha. Thật vậy, người ta khiêm nhường thực sự khi không dám dựa trên sức
lực riêng của mình, nhưng đợi trông tất cả nơi quyền năng Thiên Chúa, Đấng mà
họ kêu khấn van xin.
II. Kinh Lạy Cha tuyệt vời bởi vì mang lại ba điều ích lợi
Xét về những lợi ích, kinh Lạy Cha mang lại ba hồng ân
sau đây:
1. Thứ nhất, đây là một phương thuốc hữu
dụng và hiệu quả chống lại sự xấu, bởi vì:
- giải thoát chúng ta khỏi những tội lỗi đã phạm,
như vịnh gia đã xưng thú: “chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con; mọi tín hữu
đều xin điều đó” (xc. Tv 32, 5.6). Khi tên trộm
lành cầu nguyện trên thập giá, anh ta đã được ơn tha thứ, bởi vì Chúa đã trả
lời anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên
Thiên Đàng” (Lc 23, 43). Một cách tương tự, nhờ lời cầu nguyện, người thâu
thuế trở về nhà và được nên công chính rồi (xc. Lc 18, 14).
- giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi khi gặp cám
dỗ, gian truân và buồn khổ. Thánh Giacôbê nói rằng: “Ai trong anh em buồn
sầu ư? Hãy (bình thản) cầu nguyện” (xc. Gc 5, 13).
- giải thoát chúng ta khỏi những sự ngược đãi và
khỏi mọi kẻ thù. Thật vậy, sách Thánh Vịnh đã nói: “Con thương nó, nhưng nó
lại vu oan; phần con, con chỉ biết cầu nguyện”(Tv
109, 4).
2. Thứ hai, cầu nguyện là phương tiện hữu
ích và hiệu quả để đạt được những điều chúng ta ước muốn.
Đức Giêsu đã hứa rằng: “Tất cả những gì anh em cầu xin thì anh em cứ
tin là mình đã nhận được rồi” (xc. Mc 11, 24). Và nếu những điều chúng ta cầu xin không được
chấp nhận, thì có thể là vì chúng ta chưa thực hiện điều Chúa dạy là “hãy
cầu nguyện thường xuyên, không mệt mỏi” (xc. Lc
18, 1), hoặc có thể vì chúng ta không cầu xin những điều tốt cho ơn cứu độ của
chúng ta, như thánh Augustinô đã nói : “Thiên Chúa là
Đấng tốt lành, thường thì Ngài không ban cho chúng ta những gì chúng ta mong
muốn, ngõ hầu ban cho chúng ta điều mà lẽ ra chúng ta phải mong mong ước”.
Thánh Phaolô cũng có kinh nghiệm tượng tự, khi Người đã 3 lần cầu xin Thiên
Chúa giải thoát ngài khỏi một cái gai đâm vào da thịt, nhưng không được Thiên
Chúa nghe lời (xc. 2 Cor 12, 8).
3/ Thứ ba, lời cầu nguyện hữu ích bởi vì biến đổi chúng ta trở thành
những người thân thuộc với Thiên Chúa để có thể tin tưởng nói lên rằng: “Ước
chi lời con nguyện như hương trầm bay toả trước Thánh Nhan” (Tv 141, 2).
[1] Bản dịch Việt
ngữ của Phó tế Giuse Nguyễn Thanh Tâm O.P.
[2] De oratione
[3] Enchiridion,
số 78
[4] De fide
orthodoxa, III, c.24
[5] Lettera ad Probam,