Năm đức tin với thánh Tôma: Xin cho Danh Cha được nên
thánh
(daminhvn.net)
Bài 18: Xin cho Danh Cha được nên
thánh
Sau những lời dẫn nhập giới thiệu Kinh Lạy
Cha, cũng như giải thích những lời mở đầu, thánh Tôma bước sang phần chú giải 7
lời cầu xin.
Một đặc trưng của bản chú giải này là
móc nối mỗi lời cầu xin với một ơn Chúa Thánh Thần và một phúc thật. Như vậy là chúng
ta gặp lại quan điểm của thánh Tôma về đời sống luân lý của Kitô hữu.
Thật vậy, trong sách Tổng luận Thần học, luân lý Kitô giáo được trình bày dựa theo bảy nhân đức (chứ không dựa theo mười giới răn); các
nhân đức được móc nối với các ơn Chúa Thánh Thần và các mối phúc thật. Thánh Tôma có dụng ý gì ở đây? Người ta
giải thích rằng thánh nhân quan niệm rằng luân lý nhắm đến việc trở nên đức
hạnh (các nhân đức) chứ không dừng lại ở việc thi hành các lệnh truyền hoặc
tránh những điều cấm. Hơn thế nữa, trong đời sống luân
lý, chúng ta không hành động lẻ loi, nhưng Chúa Thánh Thần đến trợ lực cho
chúng ta bằng các linh ân, để dẫn đưa chúng ta đạt đến hạnh phúc đích thực
(chân phúc).
Khi chú giải kinh Lạy Cha, thánh Tôma cũng
móc nối 7 lời cầu xin với 7 ơn Chúa Thánh Thần có lẽ cũng trong chiều hướng ấy:
đường nên thánh không chỉ là kết quả của nỗ lực của ta, nhưng còn là hồng ân
Thiên Chúa: hồng ân được Thánh Thần ban cho chúng ta khi chúng ta thành tâm cầu
khẩn.
Sau đây là sơ đồ liên kết giữa 7 lời cầu
xin với các linh ân và chân phúc:
1/ Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng. Ơn kính sợ. Chân phúc tinh thần khó nghèo
2/ Nước Cha trị đến. Ơn sùng hiếu. Chân phúc hiền lành
3/ Ý Cha thể hiện. Ơn minh luận.
Chân phúc khóc lóc
4/ Xin ban lương thực hằng ngày. Ơn dũng cảm. Chân phúc đói khát công chính
5/ Xin tha nợ chúng con. Ơn
chỉ giáo. Chân phúc xót thương
6/ Xin chớ để chúng con sa
chước cám dỗ. Ơn thâm hiểu. Chân phúc tâm hồn trong
sạch
7/ Nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Ơn cao minh. Chân phúc xây dựng hòa bình.
Chúng ta sẽ nghe những lời giải thích lý do
khi đi vào chi tiết của từng điều cầu xin.
Hôm nay, chúng ta bắt đầu lời cầu xin thứ
nhất: Nguyện cho Danh Cha được cả sáng
Nhiều thủ bản thiếu lời cầu xin này, vì thế
người ta phải bổ sung với lời chú giải của Aldobrandini de Toscanella.
Nếu muốn dịch sát nguyên bản thì lời cầu
xin thứ nhất phải được phát biểu như thế này: “xin cho Danh của Cha được
thánh hóa”. Vì vậy, thánh Tôma suy niệm hai điểm trong bài chú giải: 1/
Danh Thiên Chúa (bốn ý nghĩa). 2/ Thánh (ba ý nghĩa); nên biết là về điểm này,
tác giả dựa trên tầm nguyên của từ sanctus
trong tiếng Latinh, do động từ sancire, (sancitus, sanctus) nghĩa là ấn
định, xác định.
------------
Xin cho danh Cha được nên thánh
Đây là lời cầu xin thứ nhất do Chúa Giêsu
dạy chúng ta: chúng ta xin cho danh Thiên Chúa được tỏ lộ và chiếu sáng nơi
chúng ta.
I. Danh Thiên Chúa
1/ Trước hết, Danh Thiên Chúa thật kỳ
diệu, bởi vì Ngài đã thực hiện nhiều việc kỳ diệu nơi muôn loài muôn
vật. Thật vậy, trong
Tin mừng, Đức Giêsu Kitô đã nói với các môn đệ rằng: “Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ
được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ, và dù có uống nhầm thuốc độc, thì
cũng chẳng sao” (Mc 16, 17-18).
2/ Thứ hai, Danh Thiên Chúa rất
đáng yêu mến. Thánh Phêrô đã nói: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì
dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để
chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4, 12). Và
tất cả chúng ta đều phải yêu mến ơn cứu đó. Thánh
Inhaxiô tử đạo cho chúng ta một mẫu gương về lòng yêu mến cách mãnh liệt Danh
Thánh Đức Kitô. Khi hoàng đế Trajanô ép buộc ngài phải chối bỏ Danh
Thánh Chúa thì ngài đã trả lời: “Ông không thể nào lấy Danh Người ra khỏi môi
miệng tôi được”. Rồi vị bạo chúa doạ sẽ chặt đầu ngài để cho miệng lưỡi không
còn kêu tên Danh Chúa nữa, thì ngài đáp lại rằng : “Cho
dù ông cất danh Chúa khỏi miệng tôi đi nữa, nhưng ông sẽ lấy khỏi trái tim tôi
được; vì Danh Chúa đã khắc ghi trong trái tim tôi nên tôi sẽ không ngừng cầu
khẩn Danh Người”. Hoàng đế Trajanô ra lệnh chặt đầu vị tôi tớ trung thành của
Chúa và moi tim của ngài, thì quả thật đã thấy Danh
Thánh Kitô bằng chữ vàng được ghi trên đó. Quả thực thánh nhân đã đặt Danh Chúa
trong tim mình như một dấu ấn vậy.
3/ Thứ ba, Danh Thiên Chúa thật đáng
tôn kính. Thánh
Tông Đồ khẳng định: “khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và
trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2,9-10).
Các loài trên trời là những thiên thần và các thánh nhân: họ bái phục vì lòng
yêu mến; các loài dưới đất là những người sống trên thế gian: họ bái phục vì
mong muốn đạt được vinh quang và tránh xa hình phạt; các loài dưới âm phủ là
những kẻ bị đọa đày: họ bái phục vì sợ hãi.
4/ Thứ tư, Danh Thiên Chúa không
thể diễn tả, bởi vì không một ngôn từ nào có khả năng diễn tả trọn vẹn. Vì thế Kinh thánh
nhiều lần phải sử dụng những hình ảnh lấy từ các thụ tạo để trình bày trình bày
Thiên Chúa. Chẳng hạn khi nói Thiên Chúa là đá tảng, thì có ý so sánh sự
vững chắc của Thiên Chúa với tảng đá, cũng tương tự như khi Đức Giêsu
muốn đặt Simôn là nền tảng của Hội Thánh thì Người đã đặt tên cho Simôn là “Phêrô”
(petrus) nghĩa là “đá” (Mt 16,18). Cũng vậy, khi muốn
nói đến sức mạnh thanh luyện của Thiên Chúa thì người ta ví Ngài như ngọn lửa,
bởi vì cũng giống như lửa tinh luyện kim loại
thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ tinh luyện tâm hồn của các tội nhân như vậy. Cho
nên sách Đệ Nhị Luật có chép rằng: “Thiên Chúa của anh (em) là một ngọn lửa
thiêu” (Đnl 4, 24). Thiên Chúa được gọi là ánh sáng do bởi sức mạnh chiếu sáng:
cũng giống như ánh sáng chiếu soi vào đêm tối vật chất, thì Thiên Chúa cũng
chiếu sáng vào đêm tối của tinh thần. Vì thế thánh vịnh gia đã thưa với Thiên Chúa : “Vâng, lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa làm cho
ngọn đèn của con sáng tỏ, Ngài soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù” (Tv 18,
29).
Vì những lý do ấy mà chúng ta cầu xin cho
Danh Thiên Chúa được tỏ bày cho tất cả mọi người và được mọi người nhận biết và
tôn kính là Thánh.
II. Thánh
Hạn từ “thánh” có ba ý nghĩa sau:
1/ Thứ nhất, “thánh” (sanctus)
ám chỉ cái gì xác định (sancitus), nghĩa là bền vững, kiên
trung, không thay đổi. Vì thế các Phúc Nhân ở trên trời được
gọi là các thánh, bởi vì các ngài đã được vững bền trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Còn ở dưới trần gian này, chúng ta không thể là thánh xét vì tình trạng bấp
bênh, hay thay đổi của chúng ta, như thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, con đã
lìa xa Ngài và con đã đi lạc đường, con luôn thay lòng đổi dạ, khác với Chúa là
Đấng vững bền”.
2/ Thứ hai, “thánh” có thể hiểu là “không
thuộc về đất”. Các thánh trên trời không còn quyến luyến với những
sự thuộc thế gian này. Thánh Phaolô đã viết: “Tôi coi tất cả mọi
sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa
chúng tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như
rác, để được Đức Ki-tô” (Pl 3, 8). Nên biết rằng ở đây “đất” được hiểu
về những người phạm tội, vì có ba điều tương tự:
a) Trước tiên, người tội lỗi giống như đất đai vì hoa trái của nó. Đất không được chăm sóc thì chỉ sinh
ra gai góc và cỏ dại, như Kinh thánh đã viết: “đất sẽ sản xuất cỏ gai cho ngươi”
(St 3, 18). Linh hồn của tội nhân cũng giống như vậy: nếu không được chăm sóc
nhờ ân sủng, thì linh hồn tội lỗi chỉ sinh ra gai góc
và cỏ hoang là các tội lỗi.
b) Thứ đến, “đất” ám chỉ các tội nhân vì lý
do âm u tăm tối như sách Sáng Thế chép: “bóng tối bao trùm vực thẳm” (St 1, 2).
c) Cuối cùng, “đất” là hình ảnh của các tội
nhân do sự khô khan cằn cỗi. Bởi vì, đất là một chất khô khan cằn cỗi nếu nó
không được tưới nước; vì thế thiên nhiên đã thiết định để cho đất gần với nước,
theo lời thánh vịnh: “ Ngài trải mặt đất này trên làn
nước bao la” (Tv 136, 6), ngõ hầu nước loại trừ sự khô khan cằn cỗi. Một cách
tương tự, linh hồn của người tội lỗi thì khô khan cằn cỗi, như vịnh gia đã nói:
“Hồn con khát Chúa như miền đất khô” (Tv 143, 6).
3/ Thứ ba, “thánh” có nghĩa nhuộm
rửa trong máu. Vì thế các thánh ở trên trời được gọi là thánh bởi vì họ đã được
nhuộm trong máu, theo như sách Khải Huyền : “Họ là
những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ
đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 14). Và họ
có thể nói về Chúa Giêsu rằng: “Người đã yêu mến chúng tôi và lấy máu mình rửa
sạch tội lỗi chúng tôi” (Kh 1,5).
Tương ứng với lời cầu xin thứ nhất hướng
lên Chúa Cha là chân phúc: “Phúc cho kẻ nghèo khó trong tinh thần, vì Nước Trời
là của họ (Mt 5,3), và ơn kính sợ.