Năm đức tin với
thánh Tôma (Bài 43)
Chú giải kinh Kính
mừng
Lm. Giuse Phan Tấn
Thành, OP.
(daminhvn.net) Thứ hai, 05 Tháng 8 2013 06:36
Trong tiếng Việt, chúng ta gọi là kinh “Kính mừng” lấy từ hai từ mở
đầu. Trong tiếng Latinh, vào thời Trung cổ, kinh này được đặt tên là “Lời chào
của thiên sứ” (salutatio angelica). Có lẽ tên gọi này đã ảnh hưởng đến
toàn thể bải chú giải của thánh Tôma. Mở đầu, tác giả cho thấy thông thường
thiên sứ không thể “kích chào” loài người bởi vì các thiên sứ thuộc cấp bậc cao
hơn loài người: a) do bản tính thiêng liêng; b) vì gần gũi Thiên Chúa hơn; c)
vì tỏa chiếu ánh sáng hơn. Thế mà thiên sứ Gabriel lại cúi chào Đức Trinh nữ Maria
bởi vì so sánh với các thiên sứ, a) Người đầy ân sủng; b) Người gần gũi Thiên
Chúa hơn; c) Người tinh tuyền hơn.
Bố cục của bản chú giải gồm hai phần chính dựa theo hai lời của Tin
mừng Luca: 1/ Lời của thiên sứ. 2/ Lời của bà
1/ Danh xưng Maria. Vào ba cơ hội, danh xưng Maria đã được giải thích như là: a) Kẻ
mang ánh sáng trong mình; b) Bà chủ; c) Sao biển. Thực ra Maria là một tên gọi
của nhiều phụ nữ Do thái (Myriam). Bà chị của ông Moisen đã mang tên
này. Sách Tin mừng cũng nói đến ba bà Maria (Maria em gái của Marta, Maria
Madalena, Maria Cleopha). Tuy nhiên, danh xưng này trở thành nổi tiếng với
người thân mẫu của Chúa Giêsu, vì thế có rất nhiều bút mực đã đổ ra để đào sâu
ý nghĩa của nó. Chỉ riêng từ thánh Epiphaniô (thế kỷ IV) cho đến cha Hugues de
Saint Victor (thế kỷ XII), người ta đếm được 70 lối giải thích khác nhau. Trên
thực tế, các giải thích ngữ học thường còn kèm theo giải thích thần học nữa.
Ngoài ra, xét theo tầm nguyên, có giả thuyết cho rằng Miryam gốc bởi tiếng Ai cập có nghĩa là
“Kẻ được Thiên Chúa sủng ái”.[1]
2/ Ân sủng của Đức Maria. Trong bài chú giải này, thánh Tôma đã hơn một lần bàn đến sự
thánh thiện của Đức Maria. Người được giữ gìn khỏi các tội cá nhân, dù là tội
trọng hay tội nhẹ. Còn tội nguyên tổ thì sao? Vào thời ấy, hầu hết các nhà thần
học, do ảnh hưởng của thánh Augustinô, đều chủ trương rằng Đức Maria có mắc tội
tổ tông truyền. Lý do là vì nếu Người không mắc tội tổ trông thì sẽ không cần
đến ơn cứu chuộc của Đức Kitô. Thánh Tôma cũng nghĩ như vậy khi viết các tác
phẩm lớn (chẳng hạn như Tổng luận thần học). Tuy vậy, trong bản chú giải kinh
Kính mừng, được soạn vào lúc cuối đời, thánh Tôma đã thay đổi ý kiến:
a) Khi chú giải câu văn “đầy ân sủng”, tác giả nhìn nhận
rằng Đức thánh Trinh nữ được đầy ân sủng hơn hết các thánh, nhưng vẫn thua Đức
Kitô. Đức Kitô thì được tinh tuyền trước khi đầu thai, còn Đức Maria được tinh
tuyền ở trong lòng mẹ. Như vậy, phải chăng đức Maria đã mắc tội nguyên tổ lúc
đầu thai? Câu trả lời không đơn giản. Đức Kitô đã hiện hữu trước khi thành thai
trong lòng Đức Maria, và không mắc tội gì. Còn Đức Maria, trước khi thành thai
thì chưa hiện hữu (chưa có linh hồn), vì thế làm thế nào mà nói rằng mắc tội
hay không mắc tội? Tiên vàn phải có linh hồn đã; thế mà linh hồn được tạo dựng
từ lúc thành thai. Đây là một vấn nạn triết học vào thời đó!
b) Sau đó, đến khi chú giải câu văn “Chúa ở cùng Bà”, thì
tác giả nói rằng Đức Trinh nữ vượt xa các thiên thần về sự tinh tuyền, bởi vì
Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, cũng như hình phạt của tội này.
Chúng tôi chia bài huấn giáo của thánh Tôma làm hai kỳ. Lần này,
chú giải những lời: “Kính mừng”, “Đầy ơn sủng. Kỳ tới, các lời: “Chúa ở cùng
bà”, “Bà được chúc lành hơn các phụ nữ, “Chúc tụng hoa trái của lòng bà”.
-----------
Trong kinh Kính mừng ta có thể phân biệt ba phần: 1/ lời của thiên
sứ “Kính chào, ôi kẻ đầy ơn sủng, Chúa ở cùng bà, bà được chúc phúc hơn mọi
phụ nữ” (Lc 1,28). 2/ lời của bà
I. Lời của thiên sứ
Người xưa cảm thấy rất vinh dự khi được thiên sứ hiện ra với loài
người, và người ta rất hân hạnh được bái phục trước những sứ giả của Thiên
Chúa. Thật vậy, ông Abraham được ca ngợi bởi vì ông đã đón rước các thiên sứ
vào lều của mình, và đã bái phục các ngài[4]. Thế nhưng chưa
bao giờ xảy ra chuyện một thiên sứ kính bái một con người như là trường hợp
Gabriel chào đức thánh Trinh nữ: “Kính chào”
Sở dĩ một thiên sứ không bao giờ hạ mình xuống trước một con người
là bởi vì thiên sứ trổi vượt hơn con người xét theo ba lý do: xét vì phẩm tính,
xét vì sự gần gũi với Thiên Chúa, xét vì ánh huy hoàng của thiên ân.
1) Thật vậy, xét về phẩm tính, thiên sứ thuộc bản tính linh thiêng,
như thánh vịnh (103,4) đã viết: “Ngài đã dựng nên các sứ giả của Ngài như là
thần khí”, còn loài người thì thuộc bản tính hư nát. Ông Abraham nói: “Này
tôi là hàng tro bụi mà được nói chuyện với Chúa tôi sao?” (St 18,27). Vì
vậy, thật không thích hợp để cho một loài linh thiêng và bất hoại lại hạ mình
trước một loài hư nát như con người.
2) Thiên sứ gần gũi với Thiên Chúa như là cận thần của Ngài: “Muôn
ngàn thiên sứ phụng sự Thiên Chúa và vô vàn vị hầu cận đứng trước nhan Ngài”
(Đn 7,10). Ngược lại, loài người giống như một kẻ xa lạ, bởi vì nó đã lìa xa
ngai Thiên Chúa do tội nguyên tổ, do đó có thể lặp lại câu thánh vịnh rằng: “Này
tôi sẽ trốn tránh vào chỗ xa với” (Tv 54,8). Vì vậy con người đương nhiên
phải tỏ lòng tôn kính đối với thiên sứ là cận thần của Thiên Chúa.
3) Sau cùng, các thiên sứ thông dự ánh quang của Thiên Chúa cách
sung mãn. [Ông Bildad Shukhita][5] đã tự hỏi:: «Làm thể nào kiểm kê đạo
quân của ngài được? Có ai trong họ mà chẳng không được ánh sáng thiên linh
chiếu tỏa không? » (G 25,3). Vì thế, các thiên sứ luôn hiện ra trong hào quang rực
rỡ, còn con người cho dù cũng được thông dự ánh sáng của ân sủng, nhưng chỉ
cách mờ nhạt thôi. Do đó thật không xứng hợp cho một vị thiên sứ tỏ lòng cung
kính bái phục con người, cho đến khi nào tìm thấy giữa loài người có kẻ trổi
vượt hơn mình về tính linh thiêng, về sự gần gũi Thiên Chúa và về sự chói ngời
ân sủng. Đó là điều thiên sứ đã thấy nơi Đức Maria khi chào Người là “kẻ đầy ân
sủng”.
B. Đầy ân sủng
Đức thánh Trinh nữ trổi vượt hơn các thiên sứ vì ba lý do. Thứ nhất
vì Người đầy ân sủng, một điều đặt Người lên trên hết mọi loài linh thiêng. Để
nêu bật điều này, thiên sứ Gabriel kính chào Người với danh hiệu “kẻ đầy ân
sủng”, ra như muốn nói rằng: “Tôi bái phục Ngài vì Ngài hơn tôi về sự sung mãn
ân sủng”. Chúng ta có thể hiểu “đầy ân sủng” về ba phương diện: linh hồn, thân
xác, san sẻ cho tha nhân:
1/ Trước hết, Đức thánh Trinh nữ được gọi là “đầy ân sủng” bởi vì linh hồn của Người chan chứa ân sủng. Hồng ân này
được ban cho Người vì hai mục tiêu, đó là làm điều tốt và tránh điều xấu. Đức
Maria nhận được cả hai sự trợ giúp ấy ở mức độ toàn hảo. Người tránh tội hơn
bất cứ vị thánh nào, chỉ thua Đức Kitô mà thôi.
Tội lỗi có hai loại: tội nguyên tổ và tội cá nhân, nặng hay nhẹ.
Đức Maria được thanh luyện khỏi tội nguyên tổ ngay từ lòng thân mẫu[6], và được khỏi
các tội cá nhân, ngay cả tội nhẹ nữa. Sách Diễm ca đã viết: “Bạn ta ơi, bạn tuyệt
đẹp, không thể thấy vết nhơ nào nơi bạn!” (Dc 4,7). Thánh Augustinô, trong
khảo luận về “Tự nhiên và ân sủng” (De natura et gratia) thêm
rằng: “Ngoại trừ thánh Trinh nữ Maria, nếu ai hỏi tất cả các thánh nam và các
thánh nữ xem khi còn ở trần thế họ có coi mình có được khỏi tội lỗi không, thì
các ngài sẽ đồng thanh đáp: “Nếu chúng tôi nói rằng mình không phạm tội, thì
chúng tôi sẽ lừa dối mình, và không có sự thật trong lời nói của chúng tôi!” (1
Ga 1, 8). Hết tất cả mọi người đều mắc tội, nhưng phải loại trừ đức thánh Trinh
nữ, vì danh dự của Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta biết rằng Người được ban ân
sủng ngõ hầu có thể thắng được cơn cám dỗ bé nhỏ nhất; Người đáng được điều ấy
bởi vì Người cưu mang và sinh hạ Đấng không biết đến bóng dáng của tội lỗi”.
Tuy nhiên, Đức Kitô vượt trổi hơn đức thánh Trinh nữ: Người không mắc tội
nguyên tổ khi thành thai và khi sinh, còn đức Trinh nữ không mắc tội nguyên tổ
lúc sinh ra, chứ không vào lúc thành thai.
Ngoài ra, Đức Maria thực hành tất cả mọi nhân đức, còn các vị thánh
thì chỉ sáng chói về vài nhân đức: có người nổi về đức khiêm nhường, người về
đức khiết tịnh, người về lòng trắc ẩn: xét riêng từng người thì mỗi vị trở nên
mẫu gương về vài nhân đức đặc thù (chẳng hạn như thánh Nicôla, được đề cao về
lòng thương xót, vv). Đức trinh nữ Maria là mẫu gương cho mỗi nhân đức: thật
vậy bạn có thể thấy nơi Người gương khiêm nhương qua lời thưa: “Này đây, tôi
là tôi tớ của Thiên Chúa ... Ngài đã đoái nhìn phận hèn của tôi tớ của Ngài”
(Lc 1, 38. 48). Người là gương khiết tịnh (“Tôi chẳng có quan hệ hôn nhân”)[7]: và các nhân đức
khác nữa cũng vậy. Như thế đức Trinh nữ đầy ân sủng xét về điều tốt phải làm và
điều xấu phải tránh.
2/ Hơn nữa, Người còn được đầy ân sủng nhằm để tuôn trào từ linh
hồn ra thân xác. Thật là diệu kỳ khi các thánh nhận được ân sủng đầy đủ để được
nên thánh trong linh hồn; nhưng tinh thần của Đức Trinh nữ được tràn đầy ân
sủng đến độ trào ra ngoài thân xác, nơi mà Con Thiên Chúa được đầu thai. Hugues
de Saint-Victor viết như sau: “Tình yêu của Thánh Linh đã bừng cháy trong tâm
hồn của Người cách đặc biệt, nên đã tạo ra những kỳ diệu trong thân xác của
Người, khiến cho từ đó mà sinh ra Con Người Thiên Chúa”. Thật là một lời chú
giải chí lý cho câu Tin mừng thánh Luca: “Hài nhi mà Bà sinh ra sẽ là Đấng
Thánh và sẽ được gọi là con của Đấng Tối Cao” (Lc 1,35).
3/ Đức Maria cũng còn được đầy ân sủng đến nỗi chia sẻ sự dạt dào
ấy cho hết mọi người. Các vị thánh nào nhận được nhiều ân sủng đến độ giúp cho
nhiều người được cứu độ thì hẳn là họ được dồi dào ân sủng; vậy phải nói thế
nào về kẻ nhận được ân sủng nhiều đến nỗi mang lại ơn cứu độ cho toàn thế giới,
như đã xảy ra nơi Đức Kitô và Đức thánh Trinh nữ. Trong bất cứ cơn nguy khốn
nào, bạn cũng có thể thoát khỏi nhờ đức Trinh nữ. Để tượng trưng cho quyền năng
của Người ta có thể áp dụng lời trong Sách Diễm ca (4,4): “Các thành lũy –
nghĩa là nơi ẩn náu - vây quanh Người”. Người cũng có thể ở bên cạnh bạn để
giúp bạn thực hiện mọi nhân đức. Về điều này ta có thể áp dụng câu Kinh thánh:
“Các ngươi có thể thấy nơi Ta tất cả niềm hy vọng về nhân đức và sự sống” (Hc
24,25).
C. Maria
Vì thế Đức Maria đầy ân sủng, vượt xa các thiên thần. Người đang
được gọi là “Maria”, có nghĩa là “kẻ mang ánh sáng trong mình”. Thực vậy, có
thể áp dụng về Người câu nói của ngôn sứ “Thiên Chúa làm cho linh hồn Người
tràn ngập ánh sáng” (Is 58,11), Người trở nên ánh sáng tỏa ra trên khắp
nhân loại, vì vậy Đức Maria được ví như mặt trời và mặt trăng (x. Dc 6,9).
1. Phan Tấn Thành, Magnificat, Học viện Đa Minh 2010, trang
97-98.
2. Dĩ nhiên là phần
thứ hai của kinh Kính mừng (“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời ... Amen”)
cũng do Giáo hội thêm vào; nhưng vào thời thánh Tôma thì chưa có, như đã nói
lần trước.
3. Tiếng Latinh “Ave”
chỉ là một lời chào (cũng tựa như “Salve”); nhưng nguyên gốc Hy lạp là “Khaire”:
Mừng vui lên!
4. Quanh cảnh được
thuật lại ở chương 18 của Sách Sáng thế.
5. Bildad là một
trong ba người bạn đến tranh luận với ông Giob.
6. Nguyên vắn: Peccatum enim aut est originale,
et de isto fuit mundata in utero aut mortale aut veniale, et de istis libera
fuit
7. Các nhà thần học
kinh viện giải thích lời này như là lời khấn trinh khiết.