Năm Đức Tin Với Thánh Tôma (Bài 48):
Chú Giải Kinh Tin Kính Đại Kết (3)
(daminhvn.net) Thứ ba, 10 Tháng 9 2013 08:39
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Trong bản giải thích đại kết kinh Tin kính, phần thứ ba gồm bốn
tiết: 1) Chúa Thánh Thần. 2) Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông
truyền. 3) Một phép rửa để tha tội. 4) Người chết sống lại và sự sống đời sau.
Chúng tôi tách phần này ra hai bài: lần này bàn về Chúa Thánh Thần (tiết 1);
những tiết còn lại được dành cho bài tới.
----------
PHẦN III. CHÚNG TÔI TIN KÍNH THÁNH THẦN
Tiết 1: Tôi tin kính Thánh Thần
A. Thách đố
Hội thánh tuyên xưng Thánh Thần là Chúa và là Đấng ban sự sống:
chính nhờ quyền năng của Ngài mà chúng ta có thể tin và tuyên xưng Ba Ngôi
Thiên Chúa, chúng ta được dẫn đưa vào sự thông hiệp với Cha và Con. Lời tuyên
xưng ấy gặp phải những thách đố sau đây:
1) cuộc tranh luận thần học giữa các Giáo hội Đông phương với Tây
phương chung quanh từ ngữ "Filioque";
2) sự liên hệ giữa Thánh thần của Chúa với tinh thần và ý thức của
con người;
3) sự liên hệ giữa Thánh Thần với ơn ngôn sứ trong Cựu ước và trong
Hội thánh;
4) tác động của Thánh Thần ngoài biên cương của Hội thánh.
B. Ý nghĩa
Vào thời công đồng Constantinopolis I (381), Giáo hội phải đương
đầu với những học thuyết chối bỏ thiên tính của Thánh Thần. Nên ghi nhận là
công đồng không có gọi Thánh Thần là "Thiên Chúa" (Theos, Deus)
như là khi nói về đức Kitô (Deum de Deo); công đồng cũng không áp dụng
tiếng "đồng bản thể" (consubstantialis) cho Thánh Thần. Tuy
nhiên thiên tính của Thánh Thần được khẳng định khi Ngài được gọi là
"Chúa" (To kyrion, Dominus).
Tân ước quả quyết sự can thiệp của Thánh Thần trong công cuộc nhập
thể của đức Kitô (Lc 1,35), cũng như trong suốt hoạt động thiên sai của Người
(Mt 12,28; Lc 4,14; Ga 1,32), và khi phục sinh đức Kitô từ cõi chết (1 Cr
15,45). Hơn thế nữa, các tín hữu nhìn nhận rằng Ngài cũng chính là Thần khí đã
tham dự vào công cuộc tạo dựng vạn vật (Kn 1,2), đã nói qua các ngôn sứ, đã
xướng lên các lời cầu nguyện của chư dân. Đặc biệt, từ ngày lễ Ngũ tuần, các
Kitô hữu cảm thấy Ngài tác động trong Hội thánh, trong lời giảng của các tông
đồ, trong các linh ơn khác nhau để phục vụ cộng đoàn. Chính Ngài gợi dậy đức
tin (1 Cr 12,3), tâm tình cầu nguyện (Rm 8,12-16). Thật sự Thánh Thần là Đấng
An ủi mà đức Kitô hứa sẽ phái đến; Thánh Thần sẽ dẫn dắt Giáo hội và vũ trụ tới
sự sống lại và vinh quang của Chúa. Vì vậy Thánh thần không phải là một động
lực, nhưng là một ngôi vị Thiên Chúa, tác động trong lịch sử cừu rỗi (Tv 33,6;
Ed 37,1-4; Rm 1,3-5; 8,14-17). Ở đâu mà Cha và Con tác động, thì đấy cũng có
Thánh Thần: toàn thể công cuộc tạo dựng và hết mọi sự chúc lành đều phát nguồn
từ Cha qua Con trong Thánh Thần.
1) Thánh Thần.
Thần khí của Thiên Chúa được gọi là “thánh” bởi vì ngài thuộc về
Thiên Chúa, Đấng rất thánh, và bởi vì mục tiêu của mọi tác động của Ngài nhằm
đưa con người nên thánh qua sự thông hiệp với Ba ngôi Thiên Chúa. Thánh Thần
đối chọi với hết mọi thứ thần dữ khác, bởi vì Ngài thánh hóa con người, ban cho
con người được sự tự do của con cái Chúa; ngược lại, các thứ thần khác chỉ muốn
đô hộ, xâm chiếm, đè bẹp con người.
Về sự hiện diện của Thánh Thần ở ngoài Hội thánh, thì giữa các
người Kitô-hữu có những ý kiến khác nhau: có người cho rằng Thần khí của đức
Kitô chỉ tác động trong cộng đồng Kitô hữu; ý kiến khác thì quả quyết rằng đâu
có chân lý công bằng thì ở đấy có Thánh Thần của Chúa.
2) Ban sự sống.
Nhờ và trong Thánh Thần mà tạo vật lãnh nhận sự sống (Tv
104,29.30). Vì vậy chúng ta phải tôn trọng sự sống dưới mọi hình thức, tuy
không được phép rơi vào những thuyết muốn thần thánh hóa thiên nhiên hay ý thức
con người. Cách riêng Thánh Thần ban cho các Kitô hữu sự sống mới trong đức
Kitô qua bí tích rửa tội; nhờ đó họ được tái sinh làm con của Chúa, chia sẻ vào
sự thông hiệp của Ba ngôi Thiên Chúa. Thánh Thần cũng là Đấng ban sinh lực cho
Hội thánh qua các đặc sủng (charisma) để kiến tạo Hội thánh và phục vụ
thế giới (1Cr 12,4-11.27-30; Ep 4,4-5).
3) Xuất phát bởi Chúa Cha.
Khi tuyên xưng rằng Thánh Thần xuất phát bởi Chúa Cha thì cũng hàm
ngụ có một liên hệ giữa Thánh Thần với Con, vì Con được Cha sinh ra. Trong lịch
sử, các Giáo hội bên Tây đã thêm tiếng "Filioque" vào kinh Tin
kính nhằm nói lên mối tương quan ấy. Các cuộc đối thoại ngày nay cho thấy hai
bên Đông và Tây phương đều tin như nhau về tương quan giữa Ba ngôi Thiên Chúa;
nhưng cần chờ đợi thời gian để tìm ra một phương thức biểu lộ niềm tin đồng
nhất ấy. Mặt khác, dần dần tất cả các Giáo hội nhận thức rõ rệt hơn về sự tôn
vinh dâng lên cả Ba Ngôi Thiên Chúa: không thể có phụng vụ và linh đạo dành
riêng cho Thánh Thần tách biệt khỏi Cha và Con; đối lại không thể có sự thờ
phượng và chúc vinh lên Cha và Con mà bỏ qua Thánh Thần.
4) Thánh Thần với các ngôn sứ.
Lời tuyên xưng "Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy"
nhìn nhận rằng chính Thánh Thần đã thúc đẩy các ngôn sứ trong Cựu ước; vì thế
không thể gạt bỏ các sách Cựu ước ra khỏi sổ bộ Kinh thánh, tuy dù biết rằng
đức Kitô mới là sự viên mãn của Cựu ước. Mặt khác ơn ngôn sứ vẫn còn được Thánh
Thần đổ trên Hội thánh hôm nay dưới nhiều dạng thức: những người tuyên bố lời
Chúa trong những hoàn cảnh áp bức bất công; những người xây dựng Hội thánh bằng
việc phụng tự; những người tham gia vào các hình thức canh tân đặc sủng; nhất
là không hề thiếu những người chia sẻ số phận gian nan của chứng tá ngôn sứ. Dù
sao, không phải bất cứ ai tự xưng là được linh ứng đều đáng tin: các tín hữu
cần phải biết thực thi ơn phân định để nhận ra đâu là ngôn sứ chân chính của
Thánh Thần (1Cr 14,22).