NĂM ĐỨC TIN VỚI THÁNH TÔMA
Bài 7: Đức Kitô xuống ngục tổ tông, ngày thứ
ba bởi trong kẻ chết mà sống lại.
(daminhvn.net)
Mục này được chia làm hai tiết, bởi vì liên
quan đến hai đề tài: tiết thứ nhất bàn về việc Đức Kitô “xuống ngục tổ tông”;
tiết thứ hai bàn về việc Đức Kitô “sống lại từ cõi chết”. Lần này chúng tôi chỉ
trình bày đề tài “Xuống ngục tổ tông”, trong nguyên bản Latinh là “descendit
ad inferos”.
Theo nguyên ngữ, “inferi” chỉ có nghĩa
là “cái ở dưới” dùng để dịch hạn từ sheol tiếng Do thái. Từ này đã thay
đổi ý nghĩa trải qua lịch sử. Đôi khi nó ám chỉ cái huyệt hay là mộ (xem Tv
88); nhưng đôi khi nó ám chỉ nơi hội ngộ của tổ tiên (St 37,35; 49,33; G
30,23). Điều đáng lưu ý là vào lúc đầu, sheol là nơi dành cho tất cả mọi
người chết (Tv 30,23; 88,11). Dần dần, do ảnh hưởng của các ngôn sứ về sự
thưởng phạt bên kia thế giới, sheol được phân chia thành cấp bậc: những
người gian ác thì ở dưới đáy (Ed 32,22; Is 14,15), và ta có thể giả thiết là
người lành thì ở tầng trên (x. Tv 49,15). Dù sao, thì sheol là nơi tạm
giam những người chết cho đến ngày tận thế, khi người lành sẽ sống lại, còn
người ác thì bị thảy vào hỏa ngục.
Như
vậy, danh từ sheol thay đổi ý nghĩa trải qua dòng thời gian: từ một nơi
dành cho tất cả mọi người chết đến nơi dành riêng cho kẻ ác. Khi dịch sheol ra
tiếng Latinh là inferi thì ý nghĩa của nó cũng thay đổi như vậy: lúc đầu
nó ám chỉ nơi dành cho hết mọi người chết (tạm gọi là “âm ti, âm phủ”); về sau
nó là nơi dành cho kẻ ác (tiếng Pháp enfer được dịch là “hỏa ngục”). Hơn
nữa, do sự tiến triển thần học, người ta còn phân chia làm bốn “ngục”: 1/ ngục
tổ tông (nơi giam giữ những người công chính trước khi Chúa cứu chuộc; ngục
này đã bị phá khi Chúa sống lại); 2/ ngục “lâm bô” (tiếng Latinh: limbus
parvulorum, dành cho các thiếu nhi chết khi chưa được rửa tội; nhưng ngày
nay các nhà thần học nói là không có ngục này); 3/ luyện ngục (nơi dành
để thanh luyện những người chưa được thanh sạch; dựa theo công đồng Firenze năm
1439, Sách Giáo lý Công giáo số 1430 nhắc nói đến “tình trạng” thanh luyện, hơn
là một “nơi”); 4/ hỏa ngục dành cho những kẻ chết trong tình trạng mất
ân nghĩa với Chúa.
Trong kinh Tin kính các thánh Tông đồ, câu nói
đức Kitô “xuống âm phủ” có lẽ chỉ muốn nói rằng Đức Giêsu đã chấp nhận
cái chết giống như bao nhiêu con người khác, nhưng rồi ngài đã thắng tử thần
(xc. Kh 1,18). Tuy nhiên, dựa theo 1Pr 3,18-20, câu nói được giải thích như là
Ngài đến loan báo ơn cứu độ cho những kẻ bị giam giữ trong “ngục tổ tông”,
nghĩa là những người lành thánh nhưng chưa được hưởng phúc thiên đàng bởi vì họ
mắc tội tổ tông và chờ đợi Đức Kitô giải thoát (xem Sách Giáo lý Hội thánh Công
giáo số 632-635). Thánh Tôma cũng giải thích theo ý nghĩa đó.
Trong tiết này, trước hết tác giả đưa ra bốn
lý do vì sao Chúa Giêsu “xuống ngục tổ tông” (nhưng chúng tôi dịch là “âm phủ,
âm ti); tiếp đó, tác giả rút ra những hệ luận cho đời sống đức tin của chúng ta
(hiểu về cả luyện ngục cũng như hỏa ngục).
Tiết 1: Đức Kitô xuống ngục tổ tông
Như chúng tôi đã trình bày, cái chết của Đức
Kitô, cũng tương tự như cái chết của những người khác, hệ tại việc tách rời
linh hồn ra khỏi thân xác. Tuy nhiên thiên tính của Ngài liên kết chặt chẽ với
nhân tính của Đức Kitô đến nỗi mặc dù linh hồn và thân xác đã chia lìa nhau,
nhưng thiên tính vẫn luôn luôn kết hợp cách hoàn bị nhất với cả linh hồn và
thân xác của Ngài; vì thế, Con Thiên Chúa đã ở trong mồ cùng với thân xác, và
Ngài xuống ngục tổ tông cùng với linh hồn.
A. CÁC LÝ DO KHIẾN ĐỨC KITÔ XUỐNG NGỤC TỔ TÔNG
Có bốn lý do lý giải tại sao Đức Kitô cùng với
linh hồn của Ngài đã xuống ngục tổ tông:
1. Lý do thứ nhất, để Ngài lãnh nhận tất cả hình phạt của tội
lỗi, ngõ hầu có thể xóa bỏ chúng. Thế nhưng hình phạt tội lỗi con người không
chỉ hệ ở cái chết về thể xác, nhưng còn hệ ở hình phạt trong linh hồn. Thực vậy
linh hồn cũng đã phạm tội, vì thế cho nên nó cũng bị hình phạt là không được
chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Vì thế, trước khi Đức Kitô đến, tất cả mọi người, kể
cả các thánh tổ phụ, đều xuống âm phủ sau khi chết. Do đó, để mang lấy tất cả
hình phạt dành cho các tội nhân, Đức Kitô đã muốn không chỉ chịu chết mà còn để
linh hồn mình xuống âm phủ. Vì thế, Ngài nói trong Thánh vịnh (87,5-6): “Hồn
con ngập tràn đau khổ, mạng sống con âm phủ gần kề, thân kể như đã vào phần mộ,
ví tựa người kiệt sức còn chi.” Thật vậy, những người khác ở đó như là
những nô lệ, còn Đức Giêsu ở đó như là kẻ được tự do.
2. Lý do thứ hai, để Ngài có thể mang lại sự cứu giúp tốt nhất
cho tất cả các bạn hữu của mình. Thật vậy Đức Kitô không chỉ có bạn hữu ở trên
trần gian này, mà còn có bạn hữu cả trong âm phủ nữa. Bởi vì ai sống trong đức
ái là bạn hữu của Đức Kitô và nơi âm phủ có nhiều người đã chết trong tình yêu
và niềm tin vào Đức Giêsu sẽ đến, tựa như các ông Abraham, Isaac, Giacob, Môsê,
Đavid, và nhiều người công chính và hoàn thiện khác. Và bởi vì Đức Giêsu đã
viếng thăm các bạn hữu của mình trên trần thế này và cứu giúp họ nhờ cái chết
của Ngài, thì Ngài cũng muốn thăm viếng các bạn hữu của mình đang ở trong âm
phủ và cứu giúp họ bằng cách đến với họ: “Ta sẽ xuyên qua tất cả mọi đáy sâu
lòng đất, sẽ thăm viếng mọi kẻ đang ngủ yên, và sẽ chiếu sáng tất cả những ai
hy vọng vào Chúa” (Hc 24,45).
3. Lý do thứ ba, để Ngài có thể hoàn toàn chiến thắng ma quỷ. Thật
vậy, sự chiến thắng đối phương chỉ hoàn tất khi không những chế ngự được họ
trên trận chiến, mà còn tấn công họ ngay trong pháo đài của họ và trục xuất họ
ra khỏi vương quốc và nơi ở của họ nữa. Đức Kitô đã toàn thắng ma quỷ và đã chế
ngự nó trên cây Thập Giá, vì vậy mà Ngài nói (Ga 12,31): “Giờ đây đang diễn
ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này (tức là ma quỷ)
sắp bị tống ra ngoài”, và để cuộc chiến thắng được trọn vẹn, Ngài muốn lật
đổ khỏi vương quốc của nó và tống giam nó vào nơi dành riêng cho nó, tức là địa
ngục. Vì thế Ngài đã xuống đó và đã tước đoạt mọi thứ tài sản của nó, trói buộc
nó và tước đoạt mọi chiến lợi phẩm của nó, như thánh Phaolô viết trong thư gửi
tín hữu Colosê (2,15): “Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã
công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Ngài”.
Mặt khác, vì Đức Kitô đã được trao quyền năng và sở hữu trên trời và dưới đất,
nên Ngài muốn lãnh quyền sở hữu dưới âm phủ, theo lời Phaolô (Pl 2,10), “Khi
vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật
phải bái quỳ” và chính Ngài đã nói: “Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ”
(Mc 16,17).
4. Lý do thứ bốn, để giải thoát các thánh đang bị giam cầm trong
âm phủ. Bởi vì cũng như Đức Kitô đã muốn chịu chết để giải thoát những kẻ sống
khỏi phải chết, thì Đức Kitô cũng muốn xuống âm phủ để giải thoát những ai đang
bị giam cầm ở đó. Như vậy, ta có thể áp dụng cho Ngài những lời của ngôn sứ
Dacaria (9,11): “Lạy Chúa, nhờ giao ước được thiết lập trong máu, Chúa đã
kéo những kẻ bị giam cầm ra khỏi hố cạn.”. Ngài đã hoàn tất lời của ngôn sứ
Hôsê (13,14):”Hỡi Thần Chết, ta sẽ là cái chết của ngươi; Hỡi Âm Ty, ta sẽ
là nọc độc của ngươi.” Quả vậy, mặc dù Đức Giêsu đã tiêu diệt hoàn toàn sự
chết, nhưng Người đã không hoàn toàn phá bỏ địa ngục, mà ra như chỉ tiêm nọc
độc cho nó. Điều này có thể hiểu như là Ngài đã không giải thoát tất cả mọi
người bị giam giữ, mà chỉ giải thoát những ai không mắc tội trọng và tội nguyên
tổ. Xét theo cá nhân, con người được khỏi tội hoặc là nhờ sự cắt bì, hoặc đối
với trường hợp trước khi có phép cắt bì, thì nhờ đức tin của cha mẹ họ (nếu
chết trước khi biết sử dụng trí khôn) hay nhờ những hy lễ và lòng tin vào Đức
Giêsu là Đấng sẽ đến (nếu là người trưởng thành). Tuy nhiên, xét theo bản tính
loài người, họ phải ở dưới âm phủ do tội nguyên tổ Ađam mà duy chỉ Đức Kitô mới
giải thoát được. Vì thế Đức Kitô để lại những người xuống âm phủ vì tội trọng
và những trẻ em không được cắt bì. Đó là lý do mà Ngài nói với âm ty: “Ta sẽ
là nọc độc của ngươi”.
Như vậy Đức Giêsu đã xuống ngục tổ tông vì bốn
lý do mà chúng ta vừa trình bày, và từ đó chúng ta có thể rút ra bốn bài học.
B. NHỮNG BÀI HỌC TỪ VIỆC ĐỨC KITÔ XUỐNG NGỤC
TỔ TÔNG
1. Thứ nhất, hy vọng vững chắc vào Thiên
Chúa
Bởi vì dù nỗi đau đớn của con người to lớn
mấy đi nữa, họ cũng phải luôn luôn trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa và
tin tưởng vào Ngài. Thật vậy, không có điều gì đau khổ cho
bằng phải ở trong âm ti. Vậy nếu Đức Giêsu đã giải thoát những người ở
trong đó, thì bất cứ ai là bạn hữu của Thiên Chúa cũng phải tin tưởng rằng
Thiên Chúa sẽ cứu họ thoát khỏi mọi sự nguy hiểm. Sách Khôn ngoan đã viết (Kn
10,13-14): “Đức Khôn Ngoan không hề bỏ mặc người
công chính bị bán làm tôi; Đức Khôn ngoan đã cùng ông xuống giếng, chẳng bỏ rơi
khi ông phải mang xiềng.” Và bởi vì Thiên Chúa đến giúp đỡ các tôi tớ Ngài
cách đặc biệt, cho nên bất cứ ai phục vụ Ngài phải sống trong niềm an toàn. Sách Huấn ca (34,16) nói: “Ai
kính sợ Đức Chúa sẽ không hề nao núng; họ sẽ không sợ hãi vì Thiên Chúa là niềm
hy vọng của họ.”
2. Chúng ta phải thấu hiểu lòng kính sợ
Chúa và xóa bỏ tính tự phụ
Thật vậy, tuy Đức Giêsu đã chịu đau khổ vì
các tội nhân và đã xuống âm phủ, nhưng Ngài đã không giải thoát tất cả mọi
người, mà chỉ cứu vớt những ai không mắc tôi trọng (như chúng ta đã nói ở
trên). Người đã để lại ở đó những kẻ đã chết khi còn mắc tội
trọng. Vì thế ai đã xuống âm phủ trong tình trạng mắc
tội trọng thì không thể hy vọng được tha thứ, nhưng họ sẽ ở lại đó bao lâu các
thánh ở trên Thiên Đàng, tức là vĩnh viễn. Chúa Giêsu đã tuyên bố (Mt 25,46) : “Những kẻ bị chúc dữ sẽ ra đi để chịu cực hình
muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời”.
3. Tỉnh thức canh phòng
Đức Giêsu đã xuống âm ti để mang ơn cứu độ
cho chúng ta, cho nên chúng ta nên xuống đó thường xuyên bằng tinh thần để suy
nghĩa về các hình khổ ở đó, giống như vua thánh Hezechias khi than thở (Is 38,10): “Tôi có nói: nửa cuộc đời dang dở mà đã phải ra đi,
bao tháng năm còn lại, giam tại cửa âm ty.” Thật vậy,
những ai khi còn sống mà thường nghĩ đến âm phủ, thì lúc chết sẽ không dễ dàng
rơi xuống đó, bởi vì việc suy tưởng những hình khổ vĩnh viễn sẽ gìn giữ họ khỏi
phạm tội. Chúng ta nhận thấy rằng những người trên thế gian tránh xa
những hành vi xấu xa vì sợ những hình phạt tạm thời; vì thế họ lại càng phải
tránh lánh điều xấu vì sợ hình phạt hoả ngục, xét vì nó còn khủng khiếp hơn
hình phạt tạm thời cả về thời gian, sự khắc nghiệt cũng như sự đa dạng. Sách
Huấn ca (7,40) đã nói : “Hãy nghĩ đến đời con chung
cuộc thế nào, thì mãi mãi con sẽ không phạm tội.”
4. Tấm gương về tình yêu
Đức Kitô đã xuống âm ti để giải thoát
các người thân của mình. Vì thế, chúng ta cũng phải xuống đó bằng tinh thần để
cứu những người thân của chúng ta. Bởi vì các linh hồn
trong luyện ngục không thể tự cứu giúp chính mình được, cho nên chúng ta có bổn
phận phải cứu giúp họ. Nếu ai không quan tâm đến một người thân đang bị
giam trong ngục thì hẳn sẽ là một người rất tàn nhẫn; thì ai bỏ rơi không cứu
giúp một người bạn hữu của mình trong luyện ngục lại càng tàn nhẫn tới mức nào,
xét vì không thể nào so sánh giữa những hình phạt của thế giới này với sự đau
khổ trong chỗ thanh luyện. Thánh Giob đã than thở (19,21):
“Xin thương tôi, xin thương xót tôi, hỡi các anh là những người bè bạn, vì
chính tay Thiên Chúa đã đánh tôi !”. Chúng ta đọc trong quyển Hai sách
Maccabê như sau: “Dâng hy lễ đền tội cho người đã chết hầu giúp họ được
thoát khỏi tội lỗi, đó là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện”.
Theo thánh Âu-tinh, chúng ta có thể cứu
giúp các linh hồn đang chịu thanh luyện bằng ba hình thức hữu ích, đó là: các
thánh lễ, những lời cầu nguyện, và việc từ thiện bác ái. Thánh Grêgoriô thêm
vào hình thức thứ tư là việc ăn chay. Điều này chẳng
có gì ngạc nhiên, bởi vì ngay cả trong thế giới này một người bạn cũng có thể
trả nợ thay cho bạn bè của mình.