DẪN NHẬP SÁCH “NhỮng ĐiỂm NhẤn cỦa Công
ĐỒng
(J. Ratzinger)
- (giaolyductin.org)
Thomas P. Rausch, SJ
T. Marie Chilton Professor of Catholic Theology
Khi Công đồng Vatican II khai mạc tháng 10
năm 1962, trong số những chuyên viên được các giám mục đưa theo tháp tùng đến
Rôma có một vị giáo sư trẻ ở
Joseph Ratzinger sinh năm 1927 tại Marktl
am Inn gần biên giới nước Áo, là út trong ba anh em thuộc một gia đình công
giáo truyền thống vùng Bayern. Cha ngài là một cảnh sát miền quê, có quan điểm
chống Quốc xã. Việc học hành làm linh mục của Ratzinger khi nhỏ tại tiểu chủng
viện ở Traunstein năm 1939 phải bị gián đoạn bởi chiến tranh. Lớp học chủng
viện của ngài bị hiến cho khẩu đội pháo phòng không năm 1943, và một năm sau
ngài bị xung vào một tiểu đoàn lao động xung phong. Ngài đã không hề tham gia
chiến đấu. Sau khi Hitler tự sát ngài rời khỏi quân đội trở về nhà, và cố trốn
tránh bọn SS đang lùng bắt những người họ nghi là đào ngũ, trong những ngày sau
cùng của chiến tranh. Bị lính Mỹ bắt tại nhà, ngài bị đem đi giam tại trại tù
nhân chiến tranh ở ngoại thành Ulm trong vài tuần lễ, trở lại việc học vào mùa
thu, trước hết tại Freising, rồi đến năm 1947 tại Herzogliches Georgianum, một
học viện thần học liên kết với Đại học München. Ngài được phong chức linh mục
tại Freising cùng với người anh là Georg ngày 29 tháng 6 năm 1951, và hoàn tất
tiến sĩ tại München một năm sau đó.
Năm 1959 ngài được cử giữ ghế giáo sư thần
học căn bản tại
Tường trình về Công Đồng
Quyển “Những điểm nhấn thần học của Vatican II”
của đức Ratzinger nguyên thủy vốn đã được xuất bản bằng tiếng Đức thành bốn tập
sách nhỏ riêng biệt, từng tập xuất hiện sau mỗi khóa trong bốn khóa họp của Công
Đồng (1962 – 1965). Quyển sách ghi nhận một số sự kiện diễn ra tại Công Đồng,
cùng bầu khí sôi động của nó. Những vấn đề như: làm sao để làm việc hiệu quả
với số nghị phụ 2900 vị - gồm các giám mục, các giám mục phụ tá, các viện phụ,
và các bề trên các dòng tu – mặc dầu con số tham dự thực sự giảm chỉ còn 2000
vị; con số các lược đồ lên đến mức như ngập cổ (khoảng bảy mươi), mà các nghị
phụ đã gặp ngay lúc bắt đầu Công Đồng; chỉ có một số ít các giám mục có kinh
nghiệm tham dự nghị viện hay thượng hội đồng; sự mệt mỏi sau khóa họp đầu tiên
gay go; sự bấp bênh của tương lai của Công Đồng sau khi đức Giáo hoàng Gioan
XXIII qua đời; sống lại bầu khí lạc quan từ buổi đầu của khóa họp thứ tư sau
khi vị Tổng Thư Ký đọc motu proprio của đức Giáo hoàng thiết lập cơ chế Thượng hội đồng
các giám mục; và sự tán thưởng rất sôi động của nghị trường chào mừng đức Giáo
hoàng Phaolô VI ôm hôn bình an vị đại diện của Thượng Phụ Athenagoras tại buổi
kết thúc Công Đồng.
Cả bản tường thuật các thảo luận và tranh
cãi của từng khóa cũng như chú giải thần học, quyển sách cho thấy Ratzinger ở
về phía cánh cấp tiến của Công Đồng. Ngài nhìn thấy vấn đề qui tâm về giáo
hoàng là hiển nhiên đối với mọi người, và đó là một cản ngại cho sự hiệp nhất
Kitô giáo. Nhu cầu cải tổ giáo triều Rôma thấy thường xuyên được nhắc đến, ngài
lưu ý, bên cạnh đức giáo hoàng, giáo triều xem ra như là “quyền bính thiết lập
thực sự duy nhất và chủ động trong Giáo hội” và căng thẳng giữa các giám mục và
giáo triều không phải là chuyện mới gần đây, nhưng đã có từ cuối thời Trung cổ.
Công Đồng đã bắt đầu làm hoàn cảnh thay đổi; các giám mục đang khởi sự khám phá
ra mình với tư cách là giám mục đoàn, có quyền lực riêng và trách nhiệm tập thể,
và hội đồng giám mục của các ngài gần như là một thứ cơ quan thượng hội đồng
đứng giữa các cá nhân giám mục và giáo hoàng. Ratzinger hoan nghênh việc thành
lập Thượng Hội Đồng Giám mục, xem đây như là một sự canh tân cơ cấu Giáo hội
đầy hứa hẹn. Đồng thời, từ đầu quyển sách ngài đã bác bỏ quan điểm phổ biến cho
rằng Công Đồng được ghi dấu như là một bước ngoặt của Giáo hội chuyển từ chủ
nghĩa bảo thủ sang cấp tiến. Quan điểm của ngài, với vài ngoại lệ, vẫn hết sức
kiên định qua nhiều năm tháng.
Ratzinger nhìn nhận, vào lúc khác, rằng quan
điểm của ngài về biến chuyển phụng vụ đã có thay đổi. Thời gian tại Công Đồng
ngài đặt nhiều hi vọng vào sự cải tổ phụng vụ. Ngài than vãn sau khóa họp đầu
tiên rằng 2500 giám mục và tín hữu hiện diện tại buổi khai mạc phụng vụ tham dự
thụ động chỉ như những khán giả, ngài kêu gọi giáo dân tham gia tích cực hơn,
và tán thành sự phân quyền trong những quyết định về phụng vụ bằng cách cho
phép các hội đồng giám mục ấn định, trong chừng mực nào đó, luật phụng vụ riêng
của họ. Dẫn lời thánh Phaolô nói về tầm quan trọng của ngôn ngữ giúp hiểu biết,
ngài biện luận chống lại lập trường duy chỉ dùng tiếng La tinh như thành trì
bất khả xâm phạm, và nói rằng như một ngôn ngữ phụng vụ nó đã trở thành tử ngữ
và cần phải được thay thế. Các Giáo hội Đông phương là một ví dụ cho ta thấy
tiếng La tinh không thể là độc tôn. Nhiều lần ngài có nói rằng người ta đang
đưa phụng vụ vào “viện khảo cổ”, vì kể từ Công đồng Trentô phụng vụ đã trở
thành “một hệ thống cứng cỏi, bất di dịch và được bọc bằng một lớp vỏ chắc
chắn”, và đưa ra một nhận xét sắc sảo rằng không có vị thánh nào Cải tổ Giáo
hội Công giáo có xuất xứ linh đạo của mình từ phụng vụ cả. Trong quyển Milestones (những cột mốc),
một kí sự cá nhân xuất bản lần đầu tiên năm 1997, ngài nhận rằng là đã thấy
những nguyên tắc của canh tân phụng vụ là một khởi điểm tuyệt vời của Công
Đồng, nhưng nói tiếp rằng “tôi không thể nhìn thấy trước được những mặt tiêu
cực của sự đổi mới phụng vụ sau đó sẽ xuất hiện trở lại mãnh liệt hơn trước gấp
đôi, như đến mức đã xô đẩy phụng vụ đến chỗ tự diệt vong”[1].
Trong tư cách là chuyên viên Ratzinger đã
làm việc trên các văn bản Hiến chế tín lý về Mạc khải (Dei Verbum),
Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen gentium), Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới
ngày nay (Gaudium
et spes)[2], và Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội (Ad gentes). Những đề
tài ngài đề cập chi tiết trong quyển sách gồm có thảo luận về lược đồ phụng vụ,
thảo luận ban đầu về Mạc khải, những vấn đề về Thánh mẫu học và đại kết, sắc
lệnh về trách vụ của các giám mục trong Giáo hội, tự do tôn giáo, Giáo hội và
người Do thái, và các lược đồ về truyền giáo và về thừa tác vụ và đời sống linh
mục. Ngài đặc biệt quan tâm đến Hiến chế tín lý về Giáo hội và Hiến chế Mục vụ
về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay.
Tranh luận về Giáo Hội
Tại khóa họp thứ hai của Công Đồng tham luận
của đức Ratzinger khảo sát khá chi tiết những vấn đề về thủ tục mà các nghị phụ
Công đồng gặp phải. Những vấn đề này bắt đầu thay đổi với cuộc bầu cử giáo
hoàng: đức hồng y Montini được chọn làm giáo hoàng Phaolô VI. Kêu gọi một cuộc
cải tổ giáo triều, đức Giáo hoàng sau đó đã làm một số bước tiến quan trọng.
Ngài xem xét lại Qui chế của Công đồng để hoạt động được hiệu quả hơn; tạo lập
một cơ chế điều hành mới gồm bốn người điều hòa công việc, nhìn chung là những
vị hồng y hướng cấp tiến; củng cố những ủy ban của Công Đồng bằng cách mở rộng
quyền tham gia của họ, với các thành viên mới được chọn một phần do các nghị
phụ công đồng bầu chọn và một phần do đức giáo hoàng chỉ định; cho phép lần đầu
tiên các thành viên của Công Đồng đề xuất các đề mục thảo luận, hơn là dành
riêng đặc ân này cho giáo hoàng; và để cho người giáo dân được tham dự như dự
thính viên, trong đó có cả một số phụ nữ. Họ có thể được các ủy ban tham khảo ý
kiến hoặc thậm chí có thể đóng góp tham luận tại hội nghị khoáng đại.
Bản phác thảo đầu tiên của Hiến chế về Giáo
hội đã bị bác bỏ. Ratzinger mô tả bản văn mới, được phác thảo bởi một nhóm thần
học gia kết hợp với đức hồng y Suenens, như là một “bước nhảy vọt”. Nó bổ túc ý
tưởng Giáo hội như là Thân Mình Chúa Kitô thêm cho ý tưởng Dân Thiên Chúa và mô
tả Giáo hội như được xác định bởi những yếu tố Thánh Thần học cũng như Kitô
học, vừa có tính đặc sủng vừa có tính bí tích trong cấu trúc của mình. Những
khía cạnh có ý nghĩa khác như ý tưởng Giáo hội như là “Giáo hội của người nghèo”
được các giám mục từ các nước châu Mỹ La tinh bênh vực. Ratzinger nhận xét với
thiện cảm rằng Giáo hội “một thời gian dài giống như Nhà thờ của các ông hoàng
barốc”. Một điểm nhấn cũng rất quan trọng là về Giáo hội như là bí tích.
Đề tài được bàn cãi sôi nổi nhất là về tính
hiệp đoàn giám mục (episcopal collegiality), chiếm nhiều thời gian hơn bất kì
chủ đề nào khác. Sự chống đối không chỉ từ nhiều đại biểu của giáo triều, nhưng
còn bởi đa số các quan sát viên đại kết, ít là cho tới khi bắt đầu kì họp thứ
ba, vì đề tài này cũng liên hệ đến vấn đề Giáo hội và các giáo hội. Mặc dầu ngài
không đề cập tới điều này, Ratzinger đóng một vai trò chủ chốt trong việc hình
thành nên số 22 của hiến chế Lumen gentium về bản chất của hiệp đoàn; ngài rút ra một ý
kiến quan trọng biện luận rằng một người trở nên thành viên của Giám mục đoàn
“nhờ được thánh hiến và hiệp thông với Thủ lãnh”[3]. Ngài nhắc đến điều này như một
“tuyên bố nhỏ kín đáo”. Thế nhưng ngoài việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
sự hiệp thông với Giám mục Rôma, ngài viết người ta quan tâm nhiều đến mối quan
hệ giữa Giám mục đoàn và tối thượng quyền đến nỗi làm lu mờ đi nguyên tắc của
chính hiệp đoàn, đặc biệt là nền tảng của nó trong cấu trúc của Giáo hội sơ khai.
Từ cái nhìn đại kết, ngài nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của sự tái khám phá Giáo hội địa phương vốn được bàn thảo đến nhiều
trong khóa họp thứ hai, và cho thấy rằng Giáo hội duy nhất hiện hữu trong nhiều
giáo hội, với “mỗi cộng đoàn địa phương qui tụ cùng với Giám mục quanh bàn ăn
của Chúa”, sống hiệp thông với nhau và với Giám mục Rôma. Ngài chối từ quan
điểm của giáo sư Edmund Schlink cho rằng mọi giáo hội riêng biệt đều là biểu
hiện của Giáo hội hợp pháp như nhau; thay vì thế ngài nói chúng ta hi vọng sẽ
có ngày “khi ‘các Giáo hội’ còn đang ở ngoài ‘Giáo hội’ trở về hiệp nhất với mình”,
hay như ngài nói ngày nay, khi “các Giáo hội và các cộng đoàn hội thánh khác”
trở về hiệp thông đầy đủ với Giáo hội duy nhất. Ở đây thấy rõ ràng ý kiến của
Ratzinger là về Giáo hội học Thánh thể, dựa trên ý niệm koinonia hay
hiệp thông, ý kiến này sẽ chứng tỏ sự phong nhiêu của nó
trong các thập kỉ sau Công Đồng.
Giáo Hội trong thế giới ngày nay
Ratzinger một thời gian dài phê phán Hiến
chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et spes (Vui mừng và Hi vọng).
Trong quyển Giáo
huấn các nguyên tắc thần học (Theologische Prinzipienlehre) năm 1982,
ngài đặt vấn đề về ý niệm tiền-thần-học “thế giới” của Hiến chế, về sự nhấn
mạnh đến đường lối đối thoại để cùng nhau tìm kiếm giải đáp, về thái độ “lạc
quan kì lạ”, và có vẻ như thiếu một “thái độ cẩn trọng phê bình đối với các lực
lượng đã để lại dấu ấn của chúng trên thế giới ngày nay”[4]. Ngài đã đưa ra những phê bình
tương tự ngay sau Công Đồng có ghi trong quyển sách này. Bản văn Gaudium et spes,
nguyên thủy được gọi là Lược đồ 13, đã được phác thảo bằng tiếng Pháp. “Kiến trúc
sư chính” của nó là một người Đức dòng Chúa Cứu Thế, Bernard Häring. Mặc dầu bản
văn được phác trong ý hướng tiếp cận bằng đường lối Kinh thánh hơn là kiểu Kinh
viện và triết học, nhưng Ratzinger vẫn thấy nó “không chính xác về Kinh thánh
mà cũng không thực sự theo hướng tư tưởng hiện đại”. Ngài khen ngợi nỗ lực của
công trình này nhằm nói với những con người nam cũng như nữ ngày nay mà không
dùng tới ngôn ngữ chuyên biệt hay đặc ngữ thần học, nhưng ngài nghĩ rằng nó vẫn
còn bỏ sót điều chính yếu của công trình của Đức Kitô hay sứ điệp của Hội
thánh, mà thay vào đó lại chọn đối thoại, như thể đức tin là “một loại triết
học bí hiểm”. Đối với Ratzinger điều đó có nghĩa là hành động như thể đức tin
không có gì để mà nói chạm tới tâm điểm của cuộc sống con người. Chịu ảnh hưởng
của Teihard de Chardin, bản Hiến chế này dường như đồng nhất niềm hi vọng Kitô
giáo với sự tiến bộ nhờ phát triển kĩ thuật, cho thấy “một sự lạc quan về tiến
bộ khá là ngây thơ”. Nhưng nó lại bỏ qua sứ điệp Kitô giáo về cuộc chiến thắng
của Đức Kitô nhờ thập giá. “Như thế, Kitô giáo không thể có nghĩa là sự biến đổi
những gì thuộc kĩ thuật thành thiêng thánh. Nhưng đúng hơn, nó là một lãnh vực
mà kĩ thuật không thể cứu chuộc”.
Từ đó như là hậu cảnh của cuộc tranh luận
về bản văn, Ratzinger đi tới chỗ xem xét một số vấn đề phức tạp trong số những
vấn đề Hiến chế đã đề cập. Cách tiếp cận của Hiến chế vẫn còn như thăm dò, đề
xuất “những hướng đi toàn thể” mà không đưa ra những câu trả lời dứt khoát.
Trước hết, ngài xem xét thái độ sống của Kitô hữu trong một thế giới kĩ thuật
ngày càng phát triển mà bản văn nói đến. Hướng tới hoàn cảnh lịch sử mới, trong
đó kĩ thuật đã trao cho con người nhiều quyền lực mới trên thế giới, và từ đó
dẫn tới chỗ nhân loại ngày càng hợp nhất (số 33), Hiến chế nhấn mạnh sứ
điệp Kitô giáo phải đưa người ta đến chỗ hợp tác dựng xây thế giới và phục vụ
tha nhân (số 34). Nhận thức khả năng giới hạn của Giáo hội trong các vấn đề
trần thế, Hiến chế triển khai “một học thuyết minh nhiên nhìn nhận sự độc lập
của các thực tại trần thế”. Nhưng sự tiến bộ vẫn còn hàm hồ; kĩ thuật không thể
giải mã ý nghĩa của hiện hữu, vốn là nơi chính lãnh vực Kitô giáo bước vào cuộc.
Thứ đến, Ratzinger nhìn lại giáo huấn của
Hiến chế về hôn nhân và gia đình (ss. 47-52) với một quan tâm đặc biệt, nhất là
trong ánh sáng của những tranh luận về thần học luân lí vẫn tiếp diễn ngày nay.
Để cung cấp hậu cảnh cho lối giải quyết của Hiến chế, ngài biện giải rằng với
một Tân ước còn chưa phát triển nhiều giáo huấn luân lí, Kitô giáo sơ khai còn
dựa nhiều trên tư tưởng cổ đại kinh điển và nhất là trên chủ nghĩa Khắc kỉ, đối
với những chuẩn mực đạo đức của nó. Kết quả là một quan điểm công giáo truyền
thống về hôn nhân còn mang nặng mục đích “sinh sản”. Cách tiếp cận hôn nhân của
chủ nghĩa duy tự nhiên của Khắc kỉ biến nó phụ thuộc vào toàn thể giống loài,
tức là phụ thuộc vào sinh sản. Chủ thuyết ấy nhìn luật luân lí quan trọng hơn
cả là “hành động đi theo bản chất”, hệ quả của nó là nối kết hôn nhân trở lại
chủ yếu với bình diện sinh học. Ratzinger nói “ý nghĩa tuyệt vời” của sự kiện
này là : cả quan niệm “mục đích đệ nhất là sinh sản” lẫn quan niệm lối sống hôn
nhân “phù hợp với tự nhiên” không có chỗ đứng trong Hiến chế mục vụ. Trong khi
khẳng định lại ý nghĩa xã hội của hôn nhân, ngài nói về sự “khác biệt quyết
định” giữa những tuyên bố luân lí căn cứ trên chủng tộc, di truyền giống nòi,
và sống theo tự nhiên, và quan điểm kia tập chú vào trung tâm Lời Chúa, vào
trách nhiệm đối với con cái và người bạn đời, và với cộng đồng nhân loại.
Ví dụ thứ ba là giáo huấn của Hiến chế về
chiến tranh và hòa bình (ss. 87-92). Vấn đề được đặt ra là việc chọn lập trường
luân lí mà học thuyết về “chiến tranh chính nghĩa” truyền thống chưa giải
quyết. Không đưa ra những chỉ thị rõ ràng về việc sử dụng các vũ khí hiện đại,
Hiến chế lặp lại những kết án gần đây về sự hủy diệt vô tội vạ các thành phố
hay miền và biện giải rằng “cần phải cố gắng tiếp cận sâu sát hết sức để xác
định mục tiêu luân lí đáng mong ước”. Vì thế mục đích phải là một nền hòa bình
biết biến gươm giáo thành cuốc thành cày, làm mọi sự để đạt mục đích này.
Ratzinger kết luận, dẫu những vấn đề này
còn chưa rõ ràng, nhưng Hiến chế có giá trị vì đã nỗ lực làm điều khả thể tốt nhất,
chứ không phải điều không tưởng. Nó không tìm cách thiết lập những chuẩn mực
vĩnh cửu cho các vấn đề phức tạp. Nhận biết những gì có thể được coi là ‘hợp
pháp’ xét như chỉ là một nhượng bộ, chứ không thực sự chính đáng, Hiến chế chỉ
ra con đường, vượt trên những quan điểm thuần túy thế gian, dẫn đến chỗ nhìn
nhận tình trạng của chúng ta còn bất chính và cần đến Thiên Chúa, và như thế
dẫn đến chính trung tâm điểm của Kitô giáo.
Hai lược đồ đã được chọn ở một trong những
tháng cuối cùng của Công Đồng.
Lược đồ về truyền giáo cố gắng đề ra một
hướng dẫn mới mẻ cho các hoạt động truyền giáo trong hoàn cảnh ngày nay trong đó
có một suy nghĩ phổ biến là Thiên Chúa có thể cứu độ những người ngay cả ở ngoài
Giáo hội. Nhìn nhận tầm quan trọng của cái ngày nay gọi là các thần học hoàn
cảnh, Ratzinger lưu ý rằng Kitô giáo thực sự chưa cắm rễ sâu vào Á châu, là nơi
mà sự hoán cải, trong khi thiếu vắng một Kitô giáo Á châu đích thực, cho đến
nay vốn có nghĩa trên thực tế là sự cải đạo theo văn hóa Âu châu.
Lược đồ về thừa tác vụ và đời sống linh mục
thay đổi điểm nhấn thay vì hướng về ý tưởng chức linh mục như là hy tế, lại nghiêng
chiều về ý tưởng chức linh mục như là phục vụ cho đức tin. Với lưu ý việc Đức
Giáo Hoàng đã nghiêm cấm việc tranh luận về sự độc thân linh mục, đức Ratzinger
nhận xét rằng trước viễn ảnh thiếu linh mục Giáo hội trong khi không thể tránh
né xem lại âm thầm vấn đề này, cũng không gạt bỏ trách nhiệm rao giảng Tin mừng
trong bối cảnh thời đại ngày nay.
Ngày 28 tháng Mười, sau một khoảng thời gian
tám ngày ngừng họp, Công Đồng thông qua Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục tử của các
Giám mục, Sắc lệnh về Canh tân Thích nghi Đời sống Tu trì, Sắc lệnh về Đào tạo
Linh mục, Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, và Tuyên ngôn về Quan hệ của Giáo
hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Bốn văn bản sau cùng được chuẩn y ngày 7
tháng Mười Hai là: Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, Sắc lệnh
về Thừa tác vụ và đời sống Linh mục, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo
hội, và Tuyên Ngôn về Tự do Tôn giáo.
Kết luận
Tất cả sự sắc sảo của Ratzinger thể hiện
rõ ràng trong tường trình hậu Công Đồng này. Khi nhận định rằng ngày nay “như chưa
từng bao giờ rõ hơn thế, Giáo hội đã trở thành một Giáo hội toàn cầu”, không
còn phụ thuộc vào vị thế thủ lãnh của Âu châu, ngài đã đi trước cả lưu ý của
Rahner mười ba năm sau đó nói rằng Công Đồng đã giúp biến đổi một Kitô giáo của
Phương Tây thành một Giáo hội hoàn vũ[5]. Thượng hội đồng Giám mục đã là
một bước tiến hướng tới một Giáo hội hoàn vũ như thế với một Giám mục đoàn thế
giới thực thi quyền bính thực sự. Nhưng nó đã không được triển khai thực hiện
như thế. Đức Giáo hoàng Phaolô VI loan báo thiết lập Thượng hội đồng trong bài
diễn văn ngày 14 tháng Chín năm 1965. Như tự sắc (motu proprio) ngày hôm sau đã minh
định, Thượng hội đồng “trực tiếp thuộc quyền Giám mục Rôma”. Nhận thấy sự khác
biệt giữa Thượng hội đồng như Công Đồng đã quan niệm và thực tế thể hiện sau
cùng của nó, đức Ratzinger lặp lại lời phê bình, là: một cơ chế tập đoàn đã bị
biến thành công cụ của vị tối thượng quyền. Mặc dầu ngài đã cố xoay nhẹ vấn đề
này theo hướng tích cực với gợi ý rằng Thượng hội đồng mà dưới quyền giáo hoàng
thì tránh được sự thuộc quyền giáo triều, chính tình cảnh sau mới thực sự tạo
vấn đề. Những năm về sau ngài biện luận rằng làm cho Thượng hội đồng trở thành
một cơ quan điều hành trung ương sẽ dẫn tới chủ nghĩa tập quyền còn nặng nề hơn
dựa vào giáo triều.
Trong Lời nói đầu của bản dịch Anh ngữ, ngài
nói rằng quyển sách của ngài không mang một quan điểm khách quan của sử gia,
nhưng đúng hơn nó là “tường thuật một cuộc hành trình cá nhân đi qua quang cảnh
của mỗi khóa họp Công Đồng, với một viễn ảnh cởi mở hướng đến các phát triển
tương lai”. Phê bình sau cùng đáng cho ta lưu ý. Qua quyển sách này, ngài nhấn
mạnh rằng chúng ta có thể nói về Công Đồng như là một khởi đầu mới; rằng các
bản văn của Công Đồng không nhằm thay thế công việc của các nhà thần học, nhưng
đúng hơn muốn khơi dậy nơi họ niềm hứng khởi lao động và mở ra các viễn ảnh
mới; rằng đây chỉ là một khởi đầu còn chưa hoàn hảo và rời rạc hơn là một công
trình đã hoàn tất; rằng tầm quan trọng thực sự của nó chỉ thể hiện khi được
chuyển dịch vào đời sống hàng ngày của Giáo hội. Ngay cả khi, gần bốn mươi năm
sau khi đức Giáo hoàng so sánh tương phản giữa “một thông diễn (hermeneutic)
theo lối gián đoạn và tuyệt giao” với một “thông diễn theo lối cải tổ”, ngài
nhấn mạnh tới tinh thần đích thực của Công Đồng không nằm ở chỗ đối lập giữa
Giáo hội tiền và hậu Công Đồng, hoặc giải thích sai lầm các thỏa thuận của Công
Đồng nhằm tìm kiếm sự thống nhất, và gợi ý “những gì cũ kĩ” giờ đây đã cùn lụt.
Tinh thần đích thực của Công Đồng nằm ở chỗ muốn “thúc đẩy cái mới mẻ gợi lên
trong các văn kiện”[6].
Chuyển ngữ
Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn
Gp Tp.HCM
[1]Joseph Ratzinger,Milestones: Memoirs 1927
– 1977, Ignatius Press,
[2] X. Jared Wicks, “Six
Texts by Prof. Joseph Ratzinger as peritus before and during Vatican
Council II,” Gregorianum
89/2 (2008): 233 – 311.
[3] Giuseppe Alberigo (biên soạn) History of Vatican II,
Vol. III, bản tiếng Anh do A. Komochak (
[4] x. Joseph Ratzinger, Principles of Catholic
Theology, Ignatius Press,
[5] Karl Rahner, “Towards a
Fundamental Theological Interpretation of
[6] ĐGH. Bênêđictô XVI, “Diễn
văn của đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chúc mừng Lễ Giáng sinh Giáo triều Rôma”,
22/ 12/ 2005, www.vatican.va.