Tuần tĩnh tâm Linh
mục đoàn TGP Hà Nội: 9 bài giảng với chủ đề "Suy niệm về Đức tin"
(tonggiaophanhanoi.org)
THỨ SÁU, 16 THÁNG 11 2012
"Scio enim cui credidi" : Tôi biết tôi tin vào ai
(2Tm 1,12). Theo sự chỉ dẫn của Bộ Giáo Lý Đức Tin, lời nói đó của Thánh Phaolô
giúp chúng ta hiểu đức tin "trước hết là một sự gắn bó mang tính cá nhân
của con người với Thiên Chúa" (adhesio personalis hominis ad Deum); đồng
thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải (simul
vero et inseparabiliter est liber toti veritati a Deo revelatae assensus). Đức
tin như sự tin tưởng mang tính cá nhân vào Chúa (fides qua creditur : fiducia)
và đức tin chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin kính không thể tách rời nhau
(fides quae creditur).
Bài 1
XÂY DỰNG MỘT ĐỨC TIN
TRƯỞNG THÀNH
Ngày 17 tháng 10 năm 2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã
công bố Tông thư "Porta Fidei" (Cửa Đức Tin), mời gọi tất cả Giáo Hội
kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II và 20 năm xuất bản Sách Giáo Lý
Chung của Hội Thánh Công Giáo (SGLCG). Và ngài đã quyết định mở ra một năm dành
riêng để tuyên xưng và cử hành "Đức tin Công giáo", từ ngày 11 tháng
10 năm 2012, ngày xuất bản SGLCG, và bế mạc ngày 24 tháng 11 năm 2013, vào ngày
lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Ngày khai mạc Năm Đức Tin trùng vào những ngày đầu của
Thượng Hội đồng Giám mục thế giới (từ ngày 7 đến 28 tháng 10 năm 2012) về chủ
đề "Tái rao giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô giáo".
Đây là cơ hội rất thiết thực cho Giáo hội tại Việt Nam, mặc
dù được nhiều người trong cũng như ngoài nước công nhận là vẫn còn sinh động,
nhưng gần đây đã trải qua nhiều thử thách trầm trọng, và cũng đã bộc lộ những
điểm yếu của mình : số lượng không đi đôi với chất lượng. Chúng ta hãy lợi dụng
tối đa cơ hội này để xây dựng một đức tin trưởng thành và vững mạnh cho mỗi một
người và cho mọi thành phần Dân Chúa. Bộ Giáo Lý Đức Tin đã đưa ra một bản
hướng dẫn mục vụ để giúp cho thực hành Tông thư "Porta Fidei" của Đức
Thánh Cha.
"Scio enim cui credidi" : Tôi biết tôi tin vào ai
(2Tm 1,12). Theo sự chỉ dẫn của Bộ Giáo Lý Đức Tin, lời nói đó của Thánh Phaolô
giúp chúng ta hiểu đức tin "trước hết là một sự gắn bó mang tính cá nhân
của con người với Thiên Chúa" (adhesio personalis hominis ad Deum); đồng
thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải (simul
vero et inseparabiliter est liber toti veritati a Deo revelatae assensus). Đức
tin như sự tin tưởng mang tính cá nhân vào Chúa (fides qua creditur : fiducia) và
đức tin chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin kính không thể tách rời nhau (fides
quae creditur).
Những hướng dẫn của Bộ Giáo Lý Đức Tin nhằm thúc đẩy việc
gặp gỡ Đức Kitô qua các chứng nhân đích thực của đức tin cũng như việc hiểu
biết nội dung đức tin mỗi ngày một sâu sắc và đầy đủ hơn. Trong Năm Đức Tin,
cần phải nhấn mạnh cả hai phương diện : kinh nghiệm sống đức tin và nội dung
đức tin. Hai phương diện này luôn gắn liền và không tách rời nhau. Chính vì thế
mà cần đề cao việc cầu nguyện trong năm đức tin, phải gặp gỡ Chúa thì mới có
thể gắn bó với Chúa. Năm Đức Tin phải là "năm cầu nguyện" và cầu
nguyện một cách đặc biệt hơn, để củng cố sự gắn bó với Chúa. Phải tìm lại sở
thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa, và bằng Bánh sự sống (Ga 4,14; Ga 6,51).
Cũng cần học hỏi kinh nghiệm thiêng liêng về tình yêu của Chúa, về sự gắn bó
với Chúa, của các chứng nhân đức tin trong lịch sử cứu độ, và lịch sử Giáo Hội.
A. ĐỨC TIN PHÉP RỬA LÀ ĐỨC TIN BA NGÔI
Đức tin của chúng ta là đức tin Phép rửa, là "hồng ân
đức tin" mà chúng ta nhận lãnh từ Giáo Hội, là đức tin Tông truyền, là gia
sản mà các thánh Tông đồ để lại. Chúng ta phải gìn giữ và bảo vệ đức tin ấy cho
đến cùng. Đó là nhiệm vụ của mọi thành phần Dân Chúa dưới sự lãnh đạo của Đức
Thánh Cha, người kế vị Thánh Phêrô. Đức tin của chúng ta là "Đức tin
nguyên thủy". Kitô giáo luôn là Kitô giáo nguyên thuỷ, xuất phát từ giáo
huấn của Chúa Kitô và sự truyền đạt trung thành của các Thánh Tông Đồ dưới sự
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Đức tin Phép rửa là "Đức tin Ba Ngôi". Chúng ta
tin một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành trời đất, mọi vật hữu hình
và vô hình. Chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Đối với người Kitô
hữu, tin vào Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc tin vào "Đấng Ngài đã
sai đến", tức là "Người Con chí ái của Ngài". Chúa Giêsu đã dạy
chúng ta "Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14,1). Chính
Thiên Chúa cũng đã dạy chúng ta phải nghe Lời Con của Ngài (x. Mc 9,7). Lý do
là vì chỉ có một mình Chúa Giêsu là Con ở trong cung lòng Chúa Cha từ muôn
thưở, mới biết Chúa Cha và có thẩm quyền mạc khải Chúa Cha cho chúng ta (Mt
11,27). Chúng ta còn phải tin Chúa Thánh Thần là Chúa và là Đấng ban sự sống.
Chúa Thánh Thần mạc khải cho chúng ta biết Chúa Giêsu là ai (1Cr 12,3). Không
ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Ngài (1Cr
2,10-11). Chúng ta tin vào Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Thiên Chúa.
Một câu nói thời danh của Thánh Giáo phụ Irênê giúp chúng
ta sống đức tin Ba Ngôi trong cuộc sống hằng ngày: "Chúa Thánh Thần đưa
chúng ta đến với Chúa Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể, và Chúa Giêsu dẫn chúng ta
đến trình diện Chúa Cha là Thiên Chúa của mọi loài".
Như vậy đức tin của chúng ta là "Đức tin độc
thần", nhưng cũng là "Đức tin Ba Ngôi". Hội Thánh không ngừng
tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa duy nhất, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần. Mỗi lần chúng ta "làm dấu Thánh giá" là chúng ta tuyên xưng mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải cách trọn vẹn nơi "Thập giá cứu độ
của Chúa Giêsu".
B. ĐỨC TIN LÀ MỘT ÂN SỦNG, TIN LÀ MỘT HÀNH VI
NHÂN LINH
Đức tin là một ân sủng, là hồng ân của Thiên Chúa, là một
nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta, như lời Chúa Giêsu
khen tặng Phêrô, khi ông tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa : "Này anh
Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc
khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt
16,17).
Để có được đức tin, cần có ân sủng của Thiên Chúa đến trước
giúp đỡ (gratia praeveniens et adjuvans) : sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh
Thần. Chúa Thánh Thần đánh động và hướng "con tim" (cor: cái tâm) về
cùng Thiên Chúa. Ngài mở "con mắt trí tuệ" (oculos mentis : trí), làm
cho chúng ta cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý. Chính vì đức
tin là một ân sủng, nên chúng ta vừa phải trân trọng gìn giữ, vừa phải đón nhận
và cầu xin mỗi ngày.
Đức tin là một hồng ân "nhưng không" mà Thiên
Chúa ban tặng cho con người. Chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó (1Tm
1,18-19). Để có thể sống, triển nở và kiên trì trong đức tin, chúng ta phải
nuôi dưỡng đức tin bằng Lời của Thiên Chúa, chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa
gia tăng đức tin cho chúng ta. Đức tin ấy còn phải hành động nhờ đức ái (Gl
5,6), được đức cậy nâng đỡ, và phải đâm rễ sâu vào trong lòng "Đức tin của
Hội Thánh".
Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và sự trợ giúp của Chúa Thánh
Thần. Tuy nhiên tin vẫn là một "hành vi nhân linh" (actus humanus),
một hành vi ý thức và tự do. Tin vào Thiên Chúa và gắn bó với các chân lý do
Ngài mạc khải không đi ngược với tự do và lý trí của con người. Trong hành vi
đức tin, lý trí và ý chí của con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa.
Thánh Tôma Aquinô định nghĩa đức tin như sau : "Tin là hành vi của lý trí
chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động bằng
ân sủng" .
Lý do khiến chúng ta tin không chỉ là vì các chân lý được
mạc khải xác thực và có thể hiểu được đối với ánh sáng của lý trí tự nhiên.
Nhưng chúng ta tin vì uy quyền của Thiên Chúa, là Đấng mạc khải không thể sai
lầm và không bao giờ lừa dối ta. Thiên Chúa ban những dấu chỉ khả tín (motifs
de crédibilité) cho ta thấy sự ưng thuận của đức tin không là hành vi mù quáng.
Trong thế giới mà "chủ nghĩa hoài nghi" thống trị
như hiện nay, coi mọi sự là tương đối, người ta không thể chắc chắn về một điều
gì, ngoài điều mà người ta kiểm chứng được bằng thực nghiệm, người ta không tin
tưởng ai ngoài chính mình và những khoái cảm của mình, chúng ta cần phải nhấn
mạnh nhiều hơn đến yếu tố "chắc chắn" của đức tin. Đức tin là
"một sự chắc chắn" (certitudo), chắc chắn hơn mọi hiểu biết của phàm
nhân, vì đức tin dựa trên chính Lời của Thiên Chúa, Đấng không thể nói dối. Sự
chắc chắn nhờ ánh sáng của Thiên Chúa lớn hơn sự chắc chắn nhờ ánh sáng của lý
trí tự nhiên.
Nhưng sự chắc chắn này, dưới khía cạnh chủ thể, dựa trên
một thái độ nội tâm rất cần thiết, và đó lại là sự "tin tưởng" hay
"tin cậy". Ở đây đức tin rất gần với niềm hy vọng mà thánh Phêrô đề
cập tới trong thư 1Pr 3,15 : "Hãy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất
vấn về niềm hy vọng của anh em". Chúng ta đặt hy vọng vào Chúa, chúng ta
tin tưởng nơi Ngài, chúng ta trông cậy vào Ngài. Ngài là đá tảng vững bền, nơi
chúng ta tựa vào, Ngài là thành luỹ vững chắc, nơi chúng ta nương náu. Chúng ta
tin tưởng vào Thiên Chúa, vì Ngài là "Đấng trung thành mãi ", Ngài là
"Đấng Chân Thiện Mỹ".
C. ĐỨC TIN LÀ MỘT NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN
Đức tin còn là một nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin
vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã nói và mạc khải cho chúng ta, những
gì Hội Thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa chính là chân lý. Nhờ đức tin
con người tự nguyện phó thác toàn thân cho Thiên Chúa. Vì vậy ai tin, người ấy
cố gắng nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. "Người công chính nhờ
đức tin sẽ được sống" (Rm 1,17). Những lề thói bên ngoài không phải là
điều cốt yếu, chỉ có đức tin "hành động nhờ đức ái" (Gl 5,6).
Hồng ân đức tin tồn tại trong những ai không phạm tội
nghịch với đức tin. Thánh Giacôbê so sánh đức tin không hành động với một thân
xác không hơi thở : "Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết,
cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết" (Gc 2,26). Nếu thiếu
đức cậy và đức ái, đức tin sẽ không kết hợp đầy đủ người tín hữu với Đức Kitô
và không làm cho trở nên chi thể sống động của Thân Thể Người.
Người môn đệ Đức Kitô không những phải gìn giữ đức tin và
sống nhờ bởi đức tin mà còn phải tuyên xưng, can đảm làm chứng và truyền bá đức
tin. Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu
độ. "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên
bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, đấng ngự trên trời. Còn ai chối thầy trước
mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời" (Mt 10,32-33).
Đức tin cho chúng ta "nếm trước niềm vui và ánh sáng
hồng phúc" được "hưởng kiến", được chiêm ngắm tôn nhan Thiên
Chúa, là mục đích cuối cùng cuộc sống lữ hành của chúng ta. Dù đức tin có sáng
tỏ nhờ vào Đấng mà chúng ta tin, đời sống đức tin thường có nhiều bóng tối.
Chính vì thế mà tất cả chúng ta đều phải hướng về các "nhân chứng đức
tin", phải cậy dựa vào họ, vì ta biết chắc họ cũng là "nhân vô thập
toàn" như chúng ta, nhưng đã phấn đấu rất nhiều và hoàn toàn dựa vào ơn
Chúa. Tất cả chúng ta đều là những "lữ khách" đang hành trình.
D. ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ, KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
Sự vững chắc của đức tin không phải là một sự mù quáng, một
thái độ "duy tín", không lưu tâm gì tới việc tìm hiểu bằng lý trí.
Trái lại đức tin đích thực luôn đi tìm sự hiểu biết (Fides quaerens
intellectum). Người tín hữu luôn muốn biết rõ hơn về Đấng mình đã tin và hiểu
rõ hơn những điều mà Đấng ấy mạc khải. Hiểu biết sâu xa hơn sẽ làm cho đức tin
vững mạnh hơn và thấm đậm tình yêu mỗi ngày một nhiều hơn. Càng biết Chúa, ta
càng yêu Chúa. Càng yêu Chúa, ta càng biết Chúa nhiều hơn.
Ân sủng đức tin khai mở "đôi mắt của trái tim",
để chúng ta có một hiểu biết sống động về nội dung của mạc khải, về toàn bộ kế
hoạch của Thiên Chúa, về các mầu nhiệm đức tin, về tương quan giữa các mầu
nhiệm với nhau và với chính Chúa Kitô, tâm điểm và chóp đỉnh của mọi mầu nhiệm
được mạc khải. Và để cho chúng ta hiểu biết mạc khải sâu xa hơn nữa, Thiên Chúa
không ngừng ban Chúa Thánh Thần để kiện toàn đức tin cho chúng ta (Ep 1,17-18).
Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, khoa học tiến bộ với
"tốc độ chóng mặt", làm cho nhiều người đầu hàng, không còn muốn tìm
hiểu thêm về những gía trị khác ngoài lãnh vực khoa học, hoặc có thái độ hoài
nghi về các loại tri thức khác, nhất là trong các lãnh vực mà họ cho là không
kiểm chứng được, đặc biệt là lãnh vực tôn giáo, những thực tại siêu hình vượt
khỏi "tầm với" của trí tuệ con người.
Sự đề cao lý trí cách quá đáng cắt đứt mọi quan hệ có thể
có được với những gì vượt lên trên lý trí tự nhiên. Và hệ luận là một thái độ
hoài nghi phổ biến với những hậu quả vô cùng tai hại, như sự đánh mất niềm tin tôn
giáo, và ngay cả lòng tin vào con người, sự tin tưởng lẫn nhau, rất cần thiết
cho sự tồn tại và phát triển toàn vẹn của con người. Hiện đang có sự mất cân
bằng quá lớn và hết sức nguy hiểm giữa hai lãnh vực "tri thức khoa
học" và lương tri hay tri thức đích thực trong lãnh vực đạo đức và luân
lý. Ngày nay, rất nhiều người không biết hoặc không muốn phân biệt "tốt
xấu", "lành dữ".
Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh nhiều
đến vấn đề tương quan giữa lý trí và đức tin. Đức tin cần phải mở rộng cho sự
"tìm tòi của lý trí" nhiều hơn nữa. Cần phải kích thích lý trí nhiều
hơn nữa, đừng để cho lý trí tự khép mình lại và đóng kín đối với các vấn đề
Thượng Đế và nhân sinh. Hãy mở rộng "Sân Đền Thờ" cho chư dân.
"Sân chư dân" là lãnh vực tiếp giáp, gặp gỡ giữa đức tin và lý trí,
ân sủng và tự do, tự nhiên và siêu nhiên, gặp gỡ giữa Thiên Chúa và mọi người.
Cần phải nới rộng phần "tư duy và tri thức" trong mọi sinh hoạt của
Giáo Hội, đặc biệt là lãnh vực "giáo lý đức tin". Hãy nhấn mạnh việc
"yêu mến Thiên Chúa hết sức lực, hết trí khôn". Đó cũng là lãnh vực
của những công tác thần học đang chờ đợi chúng ta.
Đã từ lâu, Giáo Hội luôn khẳng định rằng : mặc dù đức tin
vượt trên lý trí, không bao giờ có sự mâu thuẩn thực sự giữa lý trí và đức tin,
vì cả hai có cùng một tác giả là Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ. Đức tin
"mở rộng tầm nhìn" cho lý trí và thăng hoa lý trí. Lý trí giúp cho
đức tin được trong sáng, sâu xa và vững chắc. Lý trí giúp cho đức tin trả lẽ về
"Niềm hy vọng" của mình. Để việc đáp lại của đức tin là một hành vi
nhân linh, cần phải có ánh sáng của lý trí. Con người phải đáp lại tình yêu của
Thiên Chúa bằng một hành vi hoàn toàn tự nguyện. Ánh sáng của lý trí càng
nhiều, thì sự tự nguyện càng chắc chắn và sâu sắc.
Không ai trong chúng ta đáp lại ý muốn của Thiên Chúa một
cách mù quáng, vì Thiên Chúa không muốn như vậy. Không được cưỡng ép ai phải
chấp nhận tin trái với ý muốn của họ. Tự bản chất, "Tin" là một hành
vi tự nguyện. Tự do luôn đi đôi với ý thức. Không có ý thức, thì không có tự do,
thiếu ý thức, thì cũng thiếu tự do. Nhưng tự do ở đây không phải là một chiêu
bài để che đậy sự gian ác như lời thánh Phêrô : "Anh em hãy hành động như
những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian
ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa" (1Pr 2,16).
Bài 2
THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG
Khi đề cập đến Thiên Chúa Toàn Năng, không thể không nghĩ
đến những vấn nạn gay gắt nảy sinh. Nếu Thiên Chúa thực sự toàn năng, tại sao
đau khổ và sự dữ vẫn tàn phá và hành hạ con người ? Dường như phải chọn lựa một
trong hai giải pháp : Thiên Chúa hiện hữu nhưng không toàn năng; hoặc Thiên
Chúa toàn năng nhưng chỉ có trong trí tưởng tượng của con người.
Vấn nạn chống sự toàn năng của Thiên Chúa còn được củng cố
bởi những lập luận được gợi hứng từ đức tin Kitô giáo. Đức Kitô bị đóng đinh
vào thập giá là Thiên Chúa thật, và đó là một hình ảnh hoàn toàn trái ngược với
Thiên Chúa toàn năng. Dĩ nhiên, đó là Chúa Con chứ không phải Chúa Cha. Nhưng
điều này không thay đổi gì, vì tín điều dạy phải tin Chúa Con đồng bản thể với
Chúa Cha. Như vậy phải chăng nên từ bỏ ý niệm Thiên Chúa toàn năng và cảm tạ
Thiên Chúa đã tự biểu lộ chính mình trên thập giá bị thương tích và bất lực
trước sự dữ dồn dập tấn công.
Cách lập luận trên không thể chấp nhận được, vì đi ngược
với một yếu tố cơ bản khác của đức tin Kitô giáo, đó là giá trị cứu độ của thập
giá : Thánh giá Chúa Kitô cứu độ chúng ta, vì đó là một hành vi quyền năng, là
cánh tay hùng của Đấng Mạnh Hơn chiến thắng kẻ mạnh là Satan. Thay vì nhìn nơi
sự yếu đuối của Đấng bị đóng đinh dấu chỉ sự bất lực của Thiên Chúa, thánh
Phaolô đã coi đó như bằng chứng quyền năng của Người : chúng tôi rao giảng một
Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp
nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu
gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn
ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của
loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh của loài người (1Cr
1,23-25).
Nếu Thiên Chúa không quyền năng, hy tế thập giá chỉ là một
hành vi liên đới với những đau khổ của loài người chứ không là hành vi cứu độ
giải thoát chúng ta khỏi sự khốn cùng. Và chúng ta chỉ còn một hình ảnh méo mó
về Thiên Chúa : Người đến xin lỗi nhân loại, vì đã không thể dựng nên những thụ
tạo có khả năng vượt qua đau khổ và sự chết.
Đức tin Kitô giáo không chỉ khẳng định Thiên Chúa Toàn Năng
mà còn gán sự toàn năng cho Chúa Cha trong tư cách làm Cha. Kinh Tin kính không
tuyên xưng một Thiên Chúa Tạo Hóa Toàn Năng, nhưng tuyên tín : Tôi tin kính một
Thiên Chúa Duy Nhất là Chúa Cha Toàn Năng (Credo in Unum Deum Patrem
Omnipotentem).
Thiên Chúa không những toàn năng với tư cách là Tạo Hóa, mà
toàn năng với tư cách là Cha. Vậy đặc tính Toàn Năng có nghĩa gì ?
I. CÓ THỂ LÀM MỌI SỰ HAY QUYỀN NĂNG TRÊN TOÀN
THỂ THỤ TẠO (TOUT-PUISSANT OU PUISSANT SUR LE TOUT)
Nguồn gốc ý niệm Thiên Chúa Toàn Năng là một thành ngữ
tiếng Do Thái còn để lại dấu vết trong phụng vụ latinh : Sanctus, Sanctus,
Sanctus Dominus Deus Sabbaoth. Chữ Deus Sabbaoth được dịch là Thiên Chúa các
đạo binh. Ở đây phải hiểu là các đạo binh trên trời cai quản trật tự các vũ
trụ. Chính vì thế mà bản văn phụng vụ của Pháp dịch là Dieu de l'Univers (Thiên
Chúa của vũ hoàn).
Từ thế kỷ thỷ II trước công nguyên, bản Bảy Mươi (bản dịch
Kinh thánh bằng tiếng Hy Lạp) đã dịch chữ El Sabbaoth bằng chữ Pantocrator.
Cách dịch này đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Ở đây, không còn chỉ đạo binh
trên trời hay dươi đất nữa, mà chỉ tương quan trực tiếp giữa Thiên Chúa với vũ
trụ. Thiên Chúa gìn giữ, bao trùm toàn thể vũ trụ, tất cả mọi sự. Như vậy,
Thiên Chúa Toàn Năng (Deus Pantocrator) là Thiên Chúa làm chủ tất cả.
Chữ quan trọng cần lưu ý là chữ tất cả (mọi sự). Trong
tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con, ý niệm đó có chỗ đứng rất quan trọng :
tất cả được Cha Ta trao phó cho Ta (Mt 11,27); tất cả những gì của Con đều là
của Cha (Ga 17,10). Từ ngữ tất cả không những ám chỉ thần tính Chúa Cha ban cho
Chúa Con, mà còn bao hàm các môn đệ, nhân loại, thế giới. Chúng ta đều thuộc về
những gì mà Chúa Cha ban cho Chúa Con. Như thế, Chúa Con cũng là Đấng phán xét
kẻ sống và kẻ chết.
Cái Tất Cả mà Thiên Chúa cai quản là toàn thể không gian và
thời gian. Thiên Chúa của vũ hoàn là Thiên Chúa của lịch sử. Chủ quyền ấy, Chúa
Cha trao phó cho Chúa Con, khi cho Ngài sống lại từ cõi chết (Mt 28,18).
Cách hiểu chữ Toàn Năng của chúng ta có thể là sai với cách
hiểu của Kinh Thánh và giáo phụ, khi chúng ta nghĩ rằng toàn năng có nghĩa là
quyền năng toàn diện, không bị điều kiện hóa gì cả, khả năng làm được mọi sự
(tất cả). Phân tích kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy những điểm khác biệt rất lớn
giữa hai cách hiểu :
- Cách hiểu của Kinh Thánh : chỉ tương quan, chỉ quyền
bính, chỉ tình Cha
- Cách hiểu thứ hai : có tính tuyệt đối, chỉ khả năng, chỉ
sự độc đoán.
Khi dịch ra tiếng latinh bằng chữ Omnipotens, người ta có
khuynh hướng hiểu theo nghĩa thứ hai : Toàn năng có nghĩa là làm gì cũng được.
II. BẰNG CHỨNG CAO NHẤT VỀ SỰ TOÀN NĂNG CỦA
CHÚA CHA
Nếu Thiên Chúa có quyền năng trên vũ trụ, vì sao quyền năng
ấy không tỏ ra vượt thắng ? Đặt vấn nạn như thế là quên rằng vũ trụ phải tuân
theo những quy luật mà chính Thiên Chúa đã ấn định và chính Người cũng không vi
phạm.
Trước hết, thế giới của chúng ta và chính chúng ta ở trong
thời gian. Thân phận con người chúng ta đều có sử tính. Thiên Chúa tôn trọng sử
tính ấy; Người đặt con người và vũ trụ trong tiến trình lớn lên, không có mọi
sự tức khắc và cùng một lúc.
Sau nữa, trong thời gian là lịch sử, chúng
ta còn có tự do. Các quyết định, các hành vi của chúng ta ảnh hưởng trên dây
chuyền tương quan nhân quả. Thiên Chúa dựng nên chúng ta có khả năng tạo ra một
tương quan nhân quả tích cực hay tiêu cực. Tội, chính là hành vi ảnh hưởng tiêu
cực; nó ảnh hưởng kéo dài một cách huyền nhiệm trên vận mạng của thế giới.
Thiên Chúa không thể nào làm cho điều tiêu cực đã xảy ra không xảy ra; bởi vì
điều ấy đã xảy ra ở trong những quy định của chính Thiên Chúa. Trong lúc một
người làm một hành vi xấu, Thiên Chúa, Đấng có thể tiêu diệt người ấy, vẫn để
cho người ấy sống, và như thế gián tiếp để cho hành vi xấu ấy có thể xảy ra.
Đó chính là điều đã xảy ra trên Thập giá, khi Chúa Cha để
cho các lý hình giết chết Con của mình, dù Ngài có thể ngăn cản họ (Mt
26,53-54). Thiên Chúa Cha có thể thi hành sự toàn năng của Người bằng cách giết
chết tội nhân, thì Ngài thể hiện, trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô và trong tất
cả lịch sử cứu độ, bằng cách tha thứ cho tội nhân. Tha thứ là một hành vi quyền
năng vượt xa sự trừng phạt bởi vì hậu quả của nó không làm tiêu diệt người có
tội, mà biến đổi người ấy và làm cho trở nên người công chính. Một lời kinh
phụng vụ dạy rằng : chính lúc Thiên Chúa chịu đựng và thương xót, là lúc Ngài
biểu lộ sự Toàn Năng của mình.
Chịu đựng hiểu ngầm chịu nạn (patience-passion). Cuộc khổ
nạn của Thiên Chúa là để cho sự dữ kéo dài, không phải vì Thiên Chúa dựng nên
một thế giới trong đó có chỗ đứng cho sự dữ, nhưng vì các thụ tạo luôn có thể
là nguyên nhân của những hành vi xấu; và Thiên Chúa tôn trọng dây chuyền nguyên
nhân ấy. Điều mà con người đã làm hỏng vì tội lỗi của mình, con người phải làm
lại. Chính vì thế mà lịch sử loài người hỗn loạn, đầy những thăng trầm, cho tới
khi nào nó cất cánh bay cao hướng về cùng đích sau bao nhiêu lần thực hiện
không kết quả.
Nơi Đức Kitô chỉ toàn là có, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều
là có nơi Người (2Cr 1,19-20). Đức Kitô là Ađam mới đã cho loài người khả năng
làm lại cuộc đời, định hướng lại cuộc sống của mình quy về Thiên Chúa.
III. HOÀN TẤT SỰ TOÀN NĂNG CỦA CHÚA CHA
Sự toàn năng của Thiên Chúa, tự nó không bị giới hạn, muốn
được thể hiện trong quan hệ hỗ tương với con người mà Ngài đã tạo dựng. Quan hệ
hỗ tương ấy bắt nguồn từ tương quan Ba Ngôi nội tại, có gốc rễ trong chính Hội
Đồng Ba Ngôi, làm cho mọi hành vi của Thiên Chúa hướng về thế giới là hành vi
Ba Ngôi : điều gì Cha làm, thì Con cũng làm như vậy. Cha yêu Con và cho Con
thấy mọi điều mình làm (Ga 5,19-20). Có quan hệ hỗ tương giữa hành động của
Chúa Cha và hành động của Chúa Con. Chúa Cha cho Chúa Con thấy mọi điều mình làm,
để cho Chúa Con toàn quyền thừa hành ý muốn của Chúa Cha. Không có hành vi nào
của Chúa Cha mà không qua Chúa Con. Chúa Con không làm điều gì mà không thấy
Chúa Cha làm, và Chúa Cha không làm điều gì mà không có Chúa Con.
Cũng cùng một cách thức, trong vận mạng của thế giới và
trong tiến trình hướng về sự hoàn tất nơi Thiên Chúa, không có hành động nào
của Thiên Chúa mà không qua con người. Điều này cho thấy ơn gọi của con người
là làm con cái Thiên Chúa. Nhưng vì con người đã không thực hiện được ơn gọi ấy
do tội lỗi của mình, Chúa Con đã phải đến trần gian sống tư cách làm con trong
thân phận con người, ban cho loài người khả thể hoàn tất thánh ý Chúa Cha và
đưa thế giới tới chỗ hoàn thành.
Chúa Cha trên nguyên tắc là toàn năng, đã chưa thực sự làm
chủ trên toàn thể vũ trụ. Thánh Phaolô viết: lúc muôn loài quy phục Đức Kitô,
thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài quy phục Người;
và như vậy Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài (1Cr 15,28). Lúc ấy là khi
nào ? Origène đã suy tư rất sâu sắc và hiện sinh : khi nào, tôi là người rốt
hết và là người xấu nhất trong các kẻ có tội, được Người làm cho trở nên hoàn
hảo; còn bây giờ, công trình của Người chưa hoàn thành, vì tôi chưa hoàn hảo.
Bao lâu tôi chưa quy phục Chúa Cha, Đức Kitô chưa có thể nói rằng Người đã quy
phục Chúa Cha, bởi vì tất cả chúng ta là chi thể thân mình Người. Khi Đức Kitô
chưa thể hoàn toàn quy phục Chúa Cha, thì sự toàn năng của Chúa Cha chưa thể
hiện trọn vẹn. Nhưng chúng ta tin chắc chắn rằng một ngày nào đó, Đức Kitô sẽ
hoàn tất công việc Chúa Cha giao phó, đưa dẫn toàn thể tạo thành đến chỗ viên
mãn.
IV. CHÚA CHA TOÀN NĂNG LÀM CHO TA TỰ DO
Đối tượng quyền năng của Chúa Cha là các con cái của Người,
là những người con tự do. Có người cho rằng sự tự do ấy dẫn tới kết luận là hãy
chối bỏ sự toàn năng của Thiên Chúa. Có phải nghĩ rằng, để làm cho chúng ta tự
do, Thiên Chúa đã trở nên không quyền năng ? Triết gia Kierkegaard có ý nghĩ
hoàn toàn ngược lại : Điều cao cả nhất cho một tín hữu, cao hơn tất cả những gì
con người làm được, là làm cho hữu thể ấy là hữu thể tự do. Để làm được điều
đó, phải toàn năng. Điều này có vẻ lạ lùng, vì chúng ta vẫn nghĩ rằng sự toàn
năng làm cho các thực tại tùy thuộc vào mình. Nhưng khi thực sự muốn hiểu ý
nghĩa của sự toàn năng, người ta sẽ thấy nó bao hàm đặc điểm khai phóng. Một
con người không bao giờ có thể làm cho người khác hoàn toàn tự do. Kẻ có quyền
năng, bị trói buộc bởi quyền năng, luôn luôn có một tương quan sai lệch với
người mình muốn làm cho tự do. Chỉ có sự toàn năng mới có thể lấy lại chính
mình khi tự hiến, tương quan này tạo ra sự tự do nơi người đón nhận (Journal
1846).
Câu hỏi không còn là làm thế nào Thiên Chúa vẫn toàn năng
mà không đụng chạm đến tự do của con người ? Nhưng câu hỏi thực sự phải là phải
có điều gì để làm cho con người được tự do ? Phải có một quyền năng toàn diện,
mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có. Loài người chúng ta luôn sợ mất những điều
chúng ta sở hữu, còn Thiên Chúa thì không bao giờ sợ con người lấy mất điều gì
của mình cả. Chúng ta bám vào quyền hành, vì quyền hành ấy không bao giờ toàn
diện ; nó không thuộc về bản chất của chúng ta, và chúng ta không ngừng cảm
thấy nó bị đe dọa. Vì chúng ta không toàn năng, chúng ta còn khát vọng quyền
năng. Chúng ta không ngừng chứng tỏ sức mạnh của mình, chúng ta dễ trở nên độc
tài, độc đoán. Chúng ta cảm thấy như là quyền năng đi ngược tình yêu.
Sách Khôn ngoan (11,23) khẳng định ngược lại : Chúa xót
thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Ở đây, sự toàn năng của
Thiên Chúa là nguồn gốc của lòng thương xót. Câu Kinh Thánh đó đặt nền tảng cho
mạc khải Tân Ước sau này về mầu nhiệm Chúa Cha giàu lòng thương xót và tình yêu
của Người ban sự sống cho kẻ chết, trong chính sự yếu đuối, vô năng của Đấng
chịu đóng đinh.
Toàn Năng là một cái tên khác của chính sự Tự Do và Tình
Yêu của Thiên Chúa.
Bài 3
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO NHỜ LỜI VÀ THẦN KHÍ
Theo Sách Giáo Lý Công Giáo, việc dạy giáo lý về mầu nhiệm
Thiên Chúa tạo dựng là điều cần thiết và hết sức quan trọng, vì nó liên quan
đến chính nền tảng của cuộc sống làm người, và làm Kitô hữu, nó đem lại câu trả
lời của đức tin Kitô giáo cho các câu hỏi căn bản mà con người mọi thời đại
thường đặt ra cho mình : Chúng ta từ đâu tới ? Chúng ta đi về đâu ? .
Câu đầu tiên của bộ Kinh Thánh, Sách Sáng thế nói về Thiên
Chúa sáng tạo : "Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất" (St
1,1). Những lời đó xác quyết ba điều : a/ Thiên Chúa vĩnh cửu đã ban khởi điểm
cho tất cả những gì hiện hữu bên ngoài Ngài; b/ Duy chỉ một mình Thiên Chúa là
Đấng tạo hoá; c/ Tất cả những gì hiện hữu đều tuỳ thuộc vào Đấng đã cho chúng
hiện hữu .
Tân ước mạc khải rằng Thiên Chúa đã tạo dựng tất cả nhờ
Ngôi Lời vĩnh cửu là Con yêu dấu của Ngài : "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời
và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành và không có
Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,1-3). Đức tin của Hội Thánh
cũng xác quyết cách tương tự về hoạt động tạo dựng của Chúa Thánh Thần : Ngài,
Đấng chúng ta tuyên xưng là "Đấng ban sự sống", là "Thần Khí
sáng tạo" (Creator Spiritus), là "Nguồn mạch của sự thiện hảo"
(Fons bonitatis).
Những gì chúng ta thoáng thấy trong Cựu ước và đã được mạc
khải trong Tân ước, được "quy luật đức tin của Hội thánh" (Regula
Fidei) xác định rõ ràng : Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất : Ngài là Cha, là
Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hoá, là Tác Giả, là Đấng làm nên mọi sự, Đấng tự mình
tác tạo mọi sự, nghĩa là nhờ Lời và sự Khôn Ngoan của Ngài . Chúa Con và Chúa
Thánh Thần là như "những bàn tay" của Ngài.
Tạo dựng là công trình chung của Ba Ngôi chí thánh .
I. THIÊN CHÚA SÁNG TẠO BẰNG LỜI
Thiên Chúa là tác giả của toàn thể vũ trụ vạn vật, trong đó
có con người. Nhưng Người không là tác giả được đặt trên cùng bình diện với tác
phẩm. Đó là ý nghĩa sâu xa của việc tạo dựng nhờ Lời. Nhờ Lời của Người, Lời
tác động, Lời hữu hiệu, Lời sáng tạo, Thiên Chúa khiến cái không trở thành có.
Lời của Chúa Cha làm phát sinh liên lỉ thế giới và làm cho
nó mỗi ngày thêm viên mãn theo thánh ý của Người. Bao lâu Chúa Cha muốn thì thế
giới tồn tại và phát triển tùy thuộc vào Người, nhưng sự tùy thuộc này không
nằm trên bình diện hiện tượng (Ví dụ : Xe chạy phải có xăng).
Lời của Chúa Cha là Lời siêu việt, nên tác động của Lời
không lẫn lộn với tác động của thụ tạo. Lời phán ra thì vạn vật liền có :
"Thiên Chúa phán : hãy có ánh sáng, liền có ánh sáng" (St 1,3).
Lời của Chúa Cha là Lời nội tại, Lời phán ra cũng là Lời ẩn
giấu, vì Lời hoạt động trong thâm cung. Lời nội tại trong thẳm sâu, nên chúng
ta không thấy được trên bình diện hiện tượng. Lời hoạt động như không hoạt động
(hữu vi như vô vi).
Nhìn từ phía thụ tạo, có thể quan sát bước đi lên của thụ
tạo : hư vô - vật chất - sự sống - tinh thần. Đó là hành trình đi lên của thụ
tạo, đi lên trong thế giới này. Nhìn từ phía thụ tạo, chúng ta an tâm theo
thuyết tiến hóa và không sợ những đắc thủ của khoa học. Trái lại, chúng ta càng
vui sướng khi hiểu biết thêm về khoa học, vì nhờ đó chúng ta quan sát chu đáo
hơn hành trình của thụ tạo.
Nhưng khi đặt câu hỏi "Ai kêu gọi thụ tạo đi lên từ
không đến có ?" thì chúng ta không thể trả lời nếu chỉ nhìn từ phía thụ
tạo, mà phải nhìn lên Thiên Chúa, phải có cái nhìn đức tin.
Với quan điểm đức tin, chúng ta biết tiếng gọi ấy là của
Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa không ngừng sinh ra từ Thiên Chúa. Lời được
sinh ra là Lời Tác Thành vạn vật. Tất cả đã nhờ Ngài mà thành sự, và không có
Ngài thì không gì đã thành sự (Ga 1,3). Sự hiện hữu của vũ trụ vạn vật do Lời
và tùy thuộc vào Lời. Vũ trụ do Lời là Ánh Sáng và là Sự Sống, nên vũ trụ không
là một thực tại phi lý, tối tăm và vô nghĩa, mà là thực tại mang trong mình sự
sống và mỗi ngày hướng tới sự sống viên mãn hơn.
Thực tại vũ trụ được tạo thành :
Vũ trụ có vì thông phần sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng
vũ trụ không thể lẫn lộn với Thiên Chúa. Thiên Chúa khác với vũ trụ, nhưng vũ
trụ gắn liền với Người. Nơi thụ tạo, có sự tùy thuộc và gắn liền với Thiên
Chúa, nhưng cũng có sự hiện hữu độc lập, "tách biệt", cá thể. Nếu chỉ
nhìn quan hệ giữa thụ tạo với Thiên Chúa, chúng ta không thấy được "tính
thực tại" của thụ tạo. Nếu chỉ nhìn sự hiện hữu biệt lập, chúng ta không thấy
"thụ tạo tính" của thực tại.
Thụ tạo tùy thuộc Thiên Chúa trong chính sự "độc
lập", và độc lập trong chính sự tùy thuộc. Thiên Chúa tạo dựng có nghĩa là
Thiên Chúa cung cấp cho thụ tạo một sự hiện hữu cá thể, đưa dẫn thụ tạo vào con
đường tự do, và từ đó tạo ra quan hệ giữa thụ tạo với chính mình. Vì thụ tạo có
quan hệ với Thiên Chúa, có thể có và phải có suy tư thần học về chúng, diễn tả
quan hệ gắn bó giữa chúng với Thiên Chúa. Vì thụ tạo độc lập, có thể có và phải
có những suy nghĩ không mang tính thần học về chúng.
Ý niệm tạo dựng càng tiến bộ, thần học cần phải công nhận
những loại chân lý không có tính thần học về thực tại : triết lý, khoa học, văn
hóa nói chung. Công trình tạo dựng được trao phó cho con người dưới hình thái
một thế giới, một môi sinh mà con người phải làm chủ, phải tạo thành. Con người
trở thành đấng sáng tạo được tạo dựng. Ý niệm đúng đắn về tạo dựng không dừng
lại ở suy tư, mà đưa tới hành động biến đổi và sáng tạo môi trường.
Xét dưới khía cạnh là kết quả tương quan với Thiên Chúa, vũ
trụ lại hướng về Người, và đó là cơ hội cho một nhận thức tự nhiên khởi đầu về
Thiên Chúa mà Công đồng Vaticanô I khẳng định (D. 3001). Công đồng lên án sự
phủ nhận ánh sáng tự nhiên của lý trí trong vấn đề nhận biết Thiên Chúa nhờ các
công trình tạo dựng của Người (D. 3026). Vì thụ tạo không ngừng tùy thuộc Thiên
Chúa, chúng ta không thể giản lược sinh hoạt tạo dựng của Thiên Chúa vào vấn đề
"xây dựng trần thế". Vũ trụ, vì là thụ tạo, vẫn tiếp tục tùy thuộc
vào Thiên Chúa để hiện hữu trường tồn. Nhưng động lực nội tại trong vũ trụ vẫn
không ngừng được bao bọc và nâng đỡ cách siêu việt bởi tác động tác tạo toàn
diện của Thiên Chúa. Vũ trụ luôn hướng về Thiên Chúa vì không bao giờ hết là
thụ tạo. Không có sự phát triển nào có thể làm cho vũ trụ "độc lập"
đối với Thiên Chúa.
Dưới khía cạnh là thực thể riêng, hoạt động cá thể của từng
thực tại tùy thuộc "tự nội" vào chính mình nó. Hiện hữu bao hàm hoạt
động, đặc biệt là đối với con người, nhưng ngay cả đối với vật chất. Hoạt động
là "tự thể hiện", "tự hoàn tất" (self - realisation).
Biện chứng, "độc lập" và tùy thuộc trở nên một
vấn đề quan trọng đối với những hành vi tự do của con người. Làm sao mọi hành
vi vừa "do Thiên Chúa" vừa do con người và thuộc trách nhiệm con
người. Các thần học gia đã nỗ lực không ngừng cho câu hỏi này, nhưng chưa bao
giờ hoàn toàn thỏa mãn. Dù giải đáp thế nào đi nữa, niềm tin Kitô giáo phải
luôn giữ "hai vế" vì đó là mạc khải Kinh Thánh. Tư tưởng hiện đại
nhấn mạnh nhiều hơn đến tự do của con người. Kinh Thánh cũng khẳng định tự do,
mà còn đi vào tận gốc rễ của tự do (không theo nghĩa thuần túy triết học) là sự
giải thoát khỏi tội và quyền lực sự dữ. Nhưng đi vào gốc rễ thì lại gặp vấn đề
quan hệ với Thiên Chúa.
Không những số phận của con người, mà của toàn thể thụ tạo
tùy thuộc vào những quyết định tự do của con người (Rm 8, 22-23). Không thể chỉ
dùng "luận lý hình thức" của Aristote để suy tư kết hợp hai yếu tố
căn bản trên, mà phải dùng cả "luận lý biện chứng".
Khởi sự từ tự do của con người, để dẫn đưa tới sự tùy thuộc
ý thức và tự nguyện của con người đối với Thiên Chúa. Ở đây, tác động của Thiên
Chúa có thể bị lu mờ. Rồi khởi sự từ tác động tạo dựng của Thiên Chúa, và dần
dần minh chứng sinh hoạt tự do của cá nhân. Như vậy, sự tự do của con người có
thể lu mờ.
Mỗi thụ tạo đều có giá trị riêng, không thể gạt bỏ, chính
vì nó hiện hữu; "giá trị cá nhân" này không ngừng được Thiên Chúa
"ban cho". Thụ tạo không thể không cần Thiên Chúa.
Con người có "khả thể" vừa kỳ diệu vừa nguy hiểm.
Muốn cho tất cả cuộc sống của mình chỉ tùy thuộc vào những nguồn riêng của mình
: khả năng phạm tội. Tội lỗi không những đi ngược ý muốn Thiên Chúa, mà còn đi
ngược với bản chất con người. Ý nghĩa đích thực của việc trở nên hoàn hảo bị
ngộ nhân và hủy hoại. Trong lịch sử, sự thiện của thụ tạo chỉ là "bước
đầu" hàm chứa khả năng hướng tới viên mãn.
Sự viên mãn chỉ có được khi con người hoàn toàn và vô điều
kiện tự mình tùy thuộc vào Thiên Chúa. Tác động trao ban của Thiên Chúa và sự
đón nhận của thụ tạo và khởi điểm cho mạc khải cứu độ. Nhờ sự kết hợp mật thiết
với Đức Kitô, con người cảm nghiệm tác động tạo dựng không ngừng của Thiên Chúa
nơi bản thân (Gal 2,20; 1Co 7,29).
Ở đây chúng ta có thể dùng hai thứ ngôn ngữ : một ngôn ngữ
"chiều đứng" đó là ngôn ngữ của niềm tin, ngôn ngữ hướng thượng; một
ngôn ngữ "chiều ngang" diễn tả những gì xảy ra trong thế giới hiện
tượng. Con người là thành phần của vũ trụ, ở giữa lòng vũ trụ, nên không thể từ
chối ngôn ngữ này, một thứ ngôn ngữ cần cho mọi sinh hoạt ở đời.
Trước kia, khi đầu óc con người chưa được khai hóa đầy đủ,
khi đối với con người vũ trụ còn được bao trùm bởi một "màn bí mật"
còn là một thế giới "u minh", con người còn lẫn lộn hai thứ ngôn ngữ.
Người tín hữu ngày hôm nay, nhờ các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhờ các hiểu
biết về vũ trụ, không còn lẫn lộn hai thứ ngôn ngữ dành cho hai bình diện khác
nhau. Con người dùng một trật hai thứ ngôn ngữ, nhưng không lẫn lộn chúng :
"Mùa xuân trăm hoa đua nở"; "Thiên Chúa làm
cho trăm hoa đua nở".
"Mẹ tôi sinh ra tôi"; "Thiên Chúa dựng nên
tôi".
"Vũ trụ đầy trăng sao"; "Thiên Chúa làm cho
trăng sao nhảy múa".
Chúng ta không lẫn lộn hai ngôn ngữ, dù có thể dùng chung
hay tách riêng. Khi tách riêng, chúng ta có một đàng là các lãnh vực thuộc khoa
học, đàng kia là lãnh vực tôn giáo, công việc nghiên cứu của nhân loại đòi buộc
tách riêng hai thứ ngôn ngữ. Nhưng khi trở về với bản thân mình, với ý nghĩa
cuộc đời, với hạnh phúc mà tâm hồn chờ đợi, con người lại kết hợp hai thứ ngôn
ngữ. Và niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng không những giúp con người kết hợp hai
ngôn ngữ, mà còn làm cho tâm hồn con người rung động ngay giữa lòng đời, giữa
các sinh hoạt bề bộn của "trần gian". Mọi thực tại "chiều
ngang" hay "chiều rộng", đối với người tín hữu, dần dần mặc lấy
"chiều cao" hay "chiều sâu", và trở thành dấu chỉ, sứ giả
tình yêu của Thiên Chúa.
Vì Thiên Chúa tạo dựng nhờ Lời, chúng ta có thể đọc thấy
"Lời" trong vũ trụ. Không những thế, chúng ta còn có thể đáp trả
"Lời" bằng tích cực sinh hoạt trong vũ trụ, lôi cuốn vũ trụ theo
tiếng gọi của Lời, để cùng với Lời lên tiếng ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa.
Trường hợp thụ tạo theo con đường tất định, Lời vẫn tôn
trọng. Lời tác động "tất định" theo "thánh ý" Chúa Cha.
Nhưng Lời cũng là Lời siêu việt, nên tác động của Lời không
giống thụ tạo. Trái lại, chính Lời làm cho thụ tạo hoạt động, Lời Hằng Hữu, và
thụ tạo tham gia sự hữu. Điều đó không có nghĩa là Lời Thiên Chúa chỉ hành động
gián tiếp, qua trung gian (ví dụ : trò bida). Lời vẫn tác động trực tiếp vì Lời
vừa nội tại, vừa siêu việt. Lời tác động tận gốc rễ của thực tại, trước khi có
thực tại và để cho có thực tại.
Không thể coi tác động của Thiên Chúa là tác động có
"khoảng cách" và coi như những nguyên nhân đệ nhị, hoặc như màn chắn
hay như trung gian giữa Thiên Chúa và các hậu quả xuất hiện.
Trong mỗi hữu thể, dù mỏng dòn nhất, có sự hiện diện của
Hữu Thể Tuyệt Đối đang hành động. Điều đó không có nghĩa tương đối là bộ mặt
đặc thù của Tuyệt Đối (Hegel).
II. LỜI SÁNG TẠO BẰNG THẦN KHÍ
Thiên Chúa Cha tạo dựng vũ trụ và con người nhờ Lời và
trong Lời. Lời tác tạo bằng Hơi Thở hay Thần Khí đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Lời
tạo dựng bằng Thần Khí nên tác động của Lời kỳ diệu. Hơi thở mà Lời thông ban
cho thụ tạo có thể cùng nhịp với hơi thở của thụ tạo. Và đó là đặc tính của
Thần Linh đích thực. Hơi Thở hay Thần Khí nội tại tiềm tàng sâu thẳm trong thụ
tạo nên không hề xa lạ với thụ tạo. Tin vào Thiên Chúa tạo dựng nhờ Lời và bằng
Thần Khí không là vong thân hay tha hóa, cũng không làm tha hóa thực tại, mà
chính là đặt nền móng vững chắc cho thực tại, hơi thở ở trong cõi thẳm sâu của
thụ tạo, nhờ đó làm cho thụ tạo trở nên chính mình (identité de l'être).
Cái "nhìn hiện tượng" có thể khám phá các khía
cạnh khác nhau thuộc về chiều rộng của thực tại, nhưng không thể đi vào chiều
sâu. Muốn đi vào chiều sâu, phải "xuyên qua", "vượt qua"
hiện tượng.
Con người có thể nhận ra hơi thở Thần Linh, nếu biết hành
trình vào cõi thẳm sâu, tĩnh lặng của lòng mình để nhận ra tác động của Thần
Khí hòa nhịp với "tâm khí" của mình. Đó cũng chính là tiếng rên rỉ
của Thần Khí trong con người (Rm 8,22-26).
Thần Khí được trao ban trọn vẹn cho vũ trụ và con người khi
Lời mặc lấy xác phàm, trở thành một yếu tố trong vũ trụ để siêu thăng vũ trụ.
Với tư cách là người, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, để lãnh nhận trọn vẹn
Thần Khí của Chúa Cha trong biến cố phục sinh từ cõi chết. Phục sinh hoàn tất
nhập thể. Đức Giêsu Kitô phục sinh cũng chính là "Lời Hằng Sống" Lời
ban sự sống đời đời, Lời bất diệt. Ai tin ở Lời thì sẽ không phải chết.
Vũ trụ và con người cần Ngôi Lời nhập thể, cần Đức Giêsu
Kitô phục sinh để tiến tới trạng thái viên mãn mà Chúa Cha đã "truyền
định" từ muôn thuở. Bước theo Đức Kitô, con người đi vào "Nước
Trời", nơi con người cùng với muôn triều thần thánh và toàn thể thụ tạo
chúc tụng Thiên Chúa ba lần thánh.
Đức Kitô phục sinh tác động lên vũ trụ và con người bằng
Thần Khí của Người. Thần Khí cuốn hút con người và vũ trụ đến trạng thái phục
sinh viên mãn. Do đó có thể nói Đức Kitô là "chóp đỉnh" tác động trên
toàn thể vũ trụ là điểm "Omega", nơi hội tụ và thâu kết mọi công trình
của Thiên Chúa toàn năng. Con người và vũ trụ được Thần Khí lôi cuốn hướng về
sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, là hình ảnh hoàn hảo và là Trưởng tử của
Thiên Chúa. Nhưng vì có tự do, con người có thể "cưỡng lại" Thần Khí,
và sẽ mất dần sự sống của Thần Khí, không có hơi sức để nên một với Đức Kitô,
mà sẽ tan rã đời đời. Con người, hoặc sẽ trở thành "người mới" trong
"trời mới đất mới" vì mang trong mình sự sống mới của Thiên Chúa,
hoặc sẽ tàn tạ vì mỗi ngày thêm cũ kỹ và già nua.
Bài 4
MẦU NHIỆM CHÚA CHA : CHÚA CHA LÀ NGUỒN SUỐI
TÌNH YÊU
I. TÌNH YÊU KHỞI NGUỒN
Yêu thương là cho đi chính mình. Khi nói về Thiên Chúa,
Thánh sử Gioan có một vài thành ngữ ngắn gọn và súc tích, như : "Thiên
Chúa là Thần Khí" (Ga 4,24), "Thiên Chúa là Ánh Sáng" (1Ga 1,5),
"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16). Những thành ngữ ấy gần như là
những định nghĩa mô tả, cho chúng ta biết một phần nào bản chất của Thiên Chúa.
"Thiên Chúa là Thần Khí" (Ga 4,4).
Chữ Thần Khí ở đây chắc chắn có ý nghĩa là "Sự sống
thần linh". Chữ Thần Khí tương phản với chữ xác thịt hay xác phàm, là thực
tại mỏng dòn yếu đuối, như bông hoa sớm nở chiều tàn.
Thiên Chúa là Thần Khí có nghĩa Thiên Chúa là Đấng ban sự
sống, là Đấng Hằng Sống, là Thiên Chúa của mọi hồng ân, là nguồn suối mọi thực
tại.
"Thiên Chúa là ánh sáng" (1Ga 1,5).
Ánh sáng vừa là biểu tượng cho chân lý, vừa là biểu tượng
của sự thiện.Đối ngược với ánh sáng, tối tăm là biểu tượng cho sự sai lầm, sự
dữ hay tội ác.Thế giới tối tăm là thế giới của sự dữ, của thần dữ.
Thiên Chúa là ánh sáng có nghĩa Thiên Chúa là chân lý, là
nguồn suối mạc khải, là nguồn ơn cứu độ, "Thiên Chúa là Đấng Thánh, là nguồn mọi sự thánh thiện" (Kinh nguyện Thánh Thể
II).
"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16).
Tác giả thư 1Ga gọi Thiên Chúa là tình yêu. Các bản dịch
Kinh thánh TOB và Bible de Jérusalem dịch bằng "Dieu est Amour". Cha
Nguyễn Thế Thuấn dịch : "Thiên Chúa là Lòng Mến".
Dù dịch cách nào đi nữa, điều chắc chắn ở đây là tác giả
muốn khẳng định : Thiên Chúa là Nguồn mọi tình yêu. Mọi tình yêu phát xuất từ
Người. Những ai yêu mến thì sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không
yêu mến thì không biết Thiên Chúa (1Ga 4,7-8).
Chúng ta hãy dừng lại suy nghĩ về tình yêu nội tại trong
Thiên Chúa và sau đó về tình yêu của Người đối với chúng ta.
Chúa Cha là tình yêu tuyệt đối. Bản chất của Người là tình
yêu, đến nỗi ai không yêu mến, không thể biết được Người. Nói rằng Thiên Chúa
có tình yêu thì chưa đủ. Phải nói : Người là tình yêu. Tình yêu là tất cả nơi
Người, Tình yêu là bản thân Người, Tình yêu là chính mình Người. Người là lòng
mến phong nhiêu (Caritas Fecunda), là "Tình yêu sinh hạ" (Amor
Generans), là "Tình yêu khởi nguồn" (Amor Originans).
Khi nói đến tình yêu và sự sống của Chúa Cha, để phân biệt
với tình yêu và sự sống của Chúa Con, Kinh Thánh, các giáo phụ và Huấn quyền dùng
những thành ngữ nhấn mạnh tối đa đặc tính "Khởi nguồn" của Chúa Cha :
- Chúa Cha là "Principium sine principio" (Người
là Nguồn không có nguồn, Nguyên Thủy vô nguyên).
- Chúa Cha là "Principium Generans" (Người là
nguồn sinh).
- Chúa Cha là "Origo Originans" (Nguồn khởi
nguồn).
- Chúa Cha là "Fons Fontalis" (Người là nguồn
mạch).
- Chúa Cha là "Fons Deitatis" (Cội nguồn của thần
tính).
Giáo phụ và Huấn quyền nhấn mạnh như thế, muốn nói lên điều
gì ? Nguồn là gì? Bản chất của nguồn là gì?
Bản chất của nguồn là "tuôn đổ", là "mở
ra", là không giữ lại. Nguồn không giữ lại chính mình, vì nếu giữ lại
chính mình thì không là nguồn, mà là ao tù, nước đọng. Bản chất của nguồn là
cho đi chính mình. Nguồn không cho gì khác, mà cho đi chính mình. Và nguồn cho
hết, không giữ lại gì cả.
Nếu dùng hình ảnh "Nguồn nước" ứng dụng cho Chúa
Cha trong tương quan với Chúa Con, chúng ta có thể nói: "Nguồn nước sinh
ra nước nguồn và hiện hữu trong nước nguồn ! Và sự sinh ra này không gì khác
hơn là sự từ bỏ chính mình, cho đi chính mình. Theo một nghĩa thần học nhất
định, chúng ta có thể nói : Vì sự từ bỏ của Chúa Cha mà có Chúa Con. Chúa Cha
từ bỏ chính mình từ đời đời và mãi mãi, nên từ đời đời và mãi mãi có Chúa Con
(Generatio aeterna). Từ đời đời và mãi mãi có tình yêu sinh hạ là Chúa Cha và
tình yêu được sinh ra (Amor generatus) là Chúa Con.
Chúa con là tình yêu được Chúa Cha sinh ra, là hoa quả của
lòng dạ Cha (Fructus ventris sui), là sự sống của Cha, là bản thể của Cha, là
bản thân Cha. Chúa Con là lẽ sống, niềm vui, là kho tàng của Cha, là con cưng
(Con yêu dấu) của Cha, là Con Một của Cha, là "Ruột thịt" của Cha
(Nói theo kiểu nhân cách hóa). Chúa Cha chỉ có thể có một người Con (không thể
có hai). Cha đã cho người Con ấy hết sự sống của mình : "Cũng như Cha có
sự sống trong mình, thì Người cũng ban cho Con có sự sống trong mình như
vậy" (Ga 5,26). "Cha đã yêu mến Con và đã ban cho Con mọi sự trong
tay" (Ga 13,3).
II. LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Điều hết sức lạ lùng, điều không thể tưởng tượng được, là:
Người con ấy, người con yêu dấu, người con một ấy, Thiên Chúa đã ban cho chúng
ta, ban cho nhân loại (Ga 3,16).
Người ban cho chúng ta con yêu dấu, con một, thì không khác
gì ban chính mình Người.
Trên bình diện lịch sử cứu độ, chúng ta khẳng định rằng
trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã tự hiến mình cho chúng ta.
Đức Giêsu Kitô là "chóp đỉnh" của lịch sử hồng
ân. Lịch sử hồng ân bắt đầu từ tạo dựng. Thiên Chúa đã ban sự sống cách nhưng
không cho muôn loài trong tạo dựng. Các hồng ân trong tạo dựng đã là dấu chỉ
Thiên Chúa là Đấng thích ban ơn. Rõ hơn cả là khi mạc khải cho Môsê, Thiên Chúa
đã tự xưng: "Gia vê, Gia vê, Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung đầy
nhân nghĩa tín thành" (Xh 34,5-6).
Gia vê là Đấng huệ ái, là Đấng thích ban ơn : Người chỉ vui
khi nào ban ơn. Ban ơn là lẽ sống của Người, là niềm vui của Người. Người ban
cho chúng ta hết ơn này đến ơn khác, ban cho tràn ngập các ơn. Chúng ta không
bao giờ thiếu ơn sủng.
Nhưng dù Thiên Chúa rộng rãi đến đâu đi nữa, dù Người là
Đấng thích ban ơn, dù bản chất của Người là cho đi, không giữ lại gì cả, chúng
ta vẫn không thể nào nghĩ được, nếu không có mạc khải : "Người ban cho
chúng ta Con Một của Người".
Càng đi sâu vào Tình Yêu của Chúa Cha dành cho Chúa Con bao
nhiêu, chúng ta càng không hiểu được vì sao mà Người ban Con Một Người cho
chúng ta (Ga 3,16; Rm 8,32).
Chúng ta chỉ có một câu trả lời duy nhất, như Gioan đã viết
"vì Thiên Chúa là Lòng Mến". Vì Thiên Chúa là Lòng Mến, nên Người sẵn
sàng từ khước chính mình khi yêu thương chúng ta. Ban Con Một Người cho chúng
ta đòi hỏi nơi Thiên Chúa một sự "từ bỏ triệt để", từ bỏ chính mình
cách trọn vẹn. Không những vậy, Thiên Chúa còn "liều mình", còn sẵn
sàng bị từ chối. Và khi bị từ chối, Thiên Chúa còn đau khổ đến dường nào!
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu là cuộc khổ nạn của Chúa Cha
("Cha ở trong Con") trong cái chết bi thảm của Chúa Giêsu bị treo
trên "thập ác". Chúng ta vẫn quen quan niệm Thiên Chúa là Đấng tuyệt
đối, bất biến, không hề lay chuyển, nên Người không thể đau khổ được. Nhưng đó
là quan niệm "thuần lý", chứ không phải là quan niệm của Kinh Thánh.
Họa sĩ El Greco trong tác phẩm "Ba Ngôi trong Lịch sử
cứu độ", đã vẽ Chúa Cha đang đỡ Chúa Giêsu từ thập giá và đặt vào lòng với
tất cả tình âu yếm, với cái nhìn đượm nét buồn. Phía trên đầu Chúa Cha có Chúa
Thánh Thần xuất hiện dưới chim câu. Thay vì vẽ Đức Mẹ ôm thân xác Chúa Giêsu
vào lòng như tượng pietà của Michel Ange, họa sĩ cố ý vẽ Chúa Cha. Nếu Đức Mẹ
yêu Chúa Giêsu và tan nát cõi lòng vì cái chết của Chúa Giêsu, lẽ nào Chúa Cha
lạnh lùng trước cái chết của Con Một Người !
Khi nhân loại từ khước Chúa Giêsu, đó là từ khước hồng ân
của Chúa Cha, tình yêu của Chúa Cha, từ khước chính bản thân Chúa Cha. Trong
Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu thường xuyên nhấn mạnh : "Ai tiếp đón Ta là
tiếp đón Cha", "Kẻ tôn kính Con là tôn kính Cha, Đấng đã sai
Ngài" (Ga 5,23).
Bài 5
SỰ MẬT THIẾT GIỮA CHÚA GIÊSU
VÀ CHÚA CHA, ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY
NHẤT
I. SỰ MẬT THIẾT GIỮA CHÚA GIÊSU VÀ CHÚA CHA
Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu, trước hết chúng ta hãy chiêm
ngưỡng tình yêu của Người đối với Chúa Cha. Theo Tin Mừng Gioan, chỉ có hai lần
Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định là Người yêu Chúa Cha (Ga 14,31; 15,10). Nhưng
trải dài suốt Tin Mừng, không có chỗ nào thiếu tình yêu của Chúa Giêsu dành cho
Chúa Cha. Tình yêu ấy là lẽ sống của Chúa Giêsu, là niềm vui của Người, là hậu
trường ý thức của Người, là động lực các hành vi cử chỉ của Người.
Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha, muốn làm mọi sự theo ý Chúa
Cha, chỉ làm những điều đã trông thấy Chúa Cha làm, nói những điều nghe Chúa
Cha nói. Thánh ý Chúa Cha là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn Người : "Lương
thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta, và chu toàn công việc của Người"
(Ga 4,34).
Chúng ta có thể nói mà không sợ quá đáng rằng cuộc đời của
Đức Giêsu giống như cuộc sống của một con người bị ám ảnh bởi một điều duy nhất
là luôn luôn làm đẹp lòng Chúa Cha (làm cho Chúa Cha vui). Đối với Đức Giêsu,
yêu mến Chúa Cha đến nơi đến chốn (usque ad finem) là thực thi đến cùng ý muốn
của Chúa Cha.
Ý muốn của Chúa Cha là sai Chúa Giêsu đến trần gian để cứu
độ trần gian, để chia sẻ cho nhân loại sự sống của Thiên Chúa. "Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Vì yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã
yêu thương chúng ta đến cùng (usque ad finem), sẵn sàng hy sinh mạng sống vì
chúng ta.
Tình yêu gắn chặt Chúa Giêsu với Chúa Cha đến nỗi Hai chỉ
là Một : "Ta và Cha Ta là một" (Ga 10,30); "Ta ở trong Cha và
Cha ở trong Ta" (Ga 10,38).
Người Do Thái khó chịu và không chấp nhận Chúa Giêsu, vì
Người tự đồng hóa mình với Thiên Chúa : "Người Do Thái cố tìm cách giết
Người, vì chẳng những Người phá ngày hưu lễ, mà còn dám gọi Thiên Chúa là chính
Cha của mình, cho mình bằng Thiên Chúa" (Ga 15,18; 10,33).
Tình yêu luôn quy hướng Chúa Giêsu về với Chúa Cha. Mỗi cái
nhìn của Chúa Giêsu, dù là cái nhìn của một con người còn tại thế, vẫn là cái
nhìn hướng về Chúa Cha, chiêm ngưỡng Chúa Cha, vui mừng vì được thấy Chúa Cha.
Chúa Giêsu không ngừng đối thoại với Chúa Cha bằng những lời lẽ thâm sâu và tâm
tình nhất.
Chúa Giêsu không ngừng nói về Chúa Cha, về tình yêu của
Chúa Cha, về ý muốn, chương trình và công việc của Chúa Cha. Chúa Giêsu yêu
Chúa Cha, vì Người là Con Một, Con yêu quý của Chúa Cha. Từ đời đời Người ở bên
Chúa Cha, trong cung lòng Chúa Cha, luôn hướng về Cha, vì Chúa Cha yêu thương
người và ban cho Người mọi sự trong tay (Ga 13,3). Chúa Cha không giữ lại điều
gì, không che giấu sự gì với Người. Người yêu Chúa Cha, vì Người đến từ Chúa
Cha. Nguồn gốc của Người là Chúa Cha. Người phát xuất từ Cha và trở về với Cha
(Ga 16,28).
Chúa Giêsu là một với Chúa Cha. Cha ở trong Người và Người
ở trong Cha (Ga 17,21-23). Cha không bao giờ để Người cô đơn một mình, nhưng
luôn ở với Người (Ga 16,32).
Con người Đức Giêsu thật là huyền nhiệm, vì vừa là lữ hành,
vừa là phúc nhân. Người vừa hướng về Chúa Cha, vừa kết hợp với Chúa Cha; vừa là
một với Chúa Cha, vừa phân biệt với Chúa Cha, và Cha lớn hơn Người (Ga 14,28).
Nếu không có cái nhìn đức tin, chúng ta không thể hiểu được Người. Có những
người Do Thái cho rằng mình biết rõ về Đức Giêsu, nhưng thực ra họ không biết
gì hết (Ga 7,27-28). Họ chỉ biết Người là con bác thợ mộc Giuse ở Nazarét,
thuộc xứ Galilê. Còn nguồn gốc thật sự của Người, họ không thể biết được. Người
thật sự bởi đâu và đi về đâu, họ không thể nào lãnh hội được, vì họ cứng lòng
tin.
Cương vị làm Con của Đức Giêsu là chìa khóa chủ yếu giải
thích cách cư xử, lời nói và hành động của Đức Giêsu (Ga 8,14; 11,42); tương
quan sự sống (Ga 6,57), sự kết hợp mật thiết giữa Cha và Con, sự hiện diện trọn
vẹn cho nhau và với nhau (Ga 5,20; 8,16; 11,42); sự tương tại hay hiện diện
trong nhau (Ga 10,38; 14,10); tương tri (Ga 10,15); tương hướng hay nhìn thấy
nhau trọn vẹn tỏ tường (Ga 5,19-20); sự hiệp thông với nhau trong tư tưởng và ý
muốn, tùy thuộc hoàn toàn vào nhau (Ga 4,34; 8,28-29; 12,49). Sự tùy thuộc trọn
vẹn, sự đón nhận không ngừng mọi sự và chính bản thân mình từ nơi Cha vừa diễn
tả cương vị làm con của Đức Giêsu, và sự duy nhất của Người với Chúa Cha.
II. ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT
Vào khoảng tháng 08 năm 2000, văn kiện tín lý DOMINUS JESUS
(Chúa Giêsu) ra đời, gây một tiếng vang rất lớn trong lòng Giáo Hội, tạo ra
nhiều dư luận khác nhau, và ngay cả những tranh luận gay gắt. Người khen, kẻ
chê; người thì cho rằng đây là dấu hiệu "bảo thủ" của Đức Hồng Y
Ratzinger, bấy giờ là Bộ Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin. Người khác cho rằng đã đến
lúc phải nói rõ, không còn úp mở về những sai lạc và nguy cơ sai lạc về đức tin
tông truyền, có liên hệ tới điều khoản thứ hai của "đức tin Phép rửa"
là mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ duy nhất. Những sai lạc
này có ảnh hưởng rất lớn đến những nỗ lực loan báo Tin Mừng của Giáo Hội sau
Công đồng Vatican II.
Cho dù thích hay không thích cách trình bày của Bộ Giáo Lý
Đức tin trong tuyên ngôn (Declaratio) CHÚA GIÊSU, mọi người công giáo chúng ta
đều bị ràng buộc bởi giáo huấn chính thức này của Giáo hội, đã được Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II lấy quyền tối thượng mà phê chuẩn ngày 16 tháng 06 và trao
cho Đức Hồng Y Ratzinger công bố ngày 06 tháng 08 năm 2000, ngày lễ Hiển Dung
tại Bộ Giáo Lý Đức Tin.
Mục đích của tuyên ngôn không nhằm trình bày một cách hệ
thống "ơn cứu độ duy nhất và phổ quát" trong mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô
và Giáo Hội, nhưng nhằm bác bỏ những sai lạc làm chùng bước những nhà truyền
giáo trước một thế giới đa tôn giáo, trong đó có những tôn giáo lớn chứa đựng
những gia sản tinh thần cao siêu và phong phú. Người ta nói nhiều về sự đối
thoại giữa các tôn giáo, rất cần thiết không những cho sự sống chung hoà bình
của nhân loại, mà còn rất ích lợi cho việc cùng nhau đi tìm chân lý. Điều đó có
phần đúng, nhưng cũng có nguy cơ rõ rệt cho việc thực thi mệnh lệnh rao giảng
Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi thụ tạo, là sự nảy sinh các thuyết tương đối
nhằm biện minh cho hiện tượng đa tôn giáo, không những trên thực tế (de facto)
mà cả trên nguyên tắc (de jure), (Dominus Jesus, số 4).
Văn kiện nhắc lại một số chân lý cơ bản về Kitô học và cứu
chuộc học, giúp cho các mục tử có những nhận định vững chắc để hướng dẫn đoàn
chiên, và giúp cho các nhà thần học suy tư phù hợp với đức tin tông truyền và
đáp lại những thách thức của xã hội và các nền văn hoá đương đại.
Điều đầu tiên mà tuyên ngôn nhắc lại là "tính cách
trọn vẹn và tối hậu" của mạc khải của Chúa Giêsu. Chúng ta phải tin chắc
rằng trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng là
Đường, là Sự thật và là Sụ Sống" (Ga 14,6) toàn bộ mặc khải đã được ban
cho : "Không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con và những ai Chúa con muốn mặc
khải cho" (Mt 11,27). "Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Người
Con Một, Đấng hằng ở nơi Cung Lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho biết"
(Ga 1,18). "Trong Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách
cụ thể, và trong Người anh em được sung mãn" (Cl 2,9-10).
Trung thành với Lời Chúa, Công đồng Vatican II dạy:
"Vậy nhờ sự Mặc khải này, chân lý sâu xa nhất về Thiên Chúa và sự cứu độ
con người, được toả sáng nơi Đức Kitô, Đấng vừa là Trung Gian, vừa là sự viên
mãn của tất cả Mặc Khải" (MK, số 2). Công đồng còn nói rõ thêm: "Đức
Giêsu Kitô là Ngôi Lời đã làm người, một con người được sai đến với nhân loại,
nói những lời của Thiên Chúa (Ga 3,34) và hoàn thành công trình cứu độ mà Chúa
Cha đã trao phó" (Ga 5,36; 17,4). Và "Ai thấy Người là thấy Chúa
Cha" (Ga 14,9). Chính vì thế mà chỉ một mình Chúa Giêsu có đủ tư cách là
Đấng Trung Gian Duy Nhất, và là Đấng Cứu Độ Duy Nhất. Cần phải bác bỏ luận đề
cho rằng Mặc Khải của Đức Giêsu chưa đủ và chưa trọn vẹn, cần phải bổ sung bằng
các mặc khải có trong các tôn giáo khác.
Sách Công vụ các tông đồ ghi lại câu chuyện Phêrô và Gioan
làm phép lạ chữa người què và giảng cho toàn dân về Chúa Giêsu Kitô đã bị đóng
đinh, đã chết và được Thiên Chúa cho sống lại, bị điệu ra trước công nghị Do
Thái và đã tuyên bố một cách rõ ràng không úp mở về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ
duy nhất : "Chính nhờ Danh Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị
đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính
nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh, ra đứng trước mặt quý vị. Ngoài Người
ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này không có một Danh nào khác
đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu
độ" (Cv 5,10-12).
Ở đây Giáo Hội đòi hỏi sự vâng phục đức tin (obéissance de
la foi) là sự đón nhận chân lý mặc khải của Chúa Kitô, được bảo đảm bởi chính
Thiên Chúa là chân lý. Phải phân biệt một cách vững vàng giữa đức tin là một
nhân đức đối thần (foi théologale) với "tín ngưỡng tôn giáo"
(croyance religieuse). Đức tin là sự đón nhận trong ân sủng "chân lý được
mặc khải", giúp chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm, và hiểu một cách mạch lạc.
Còn tín ngưỡng tôn giáo là tổng thể các kinh nghiệm và suy tư, kho tàng sự khôn
ngoan và lòng đạo đức của con người trong hành trình đi tìm chân lý, trong
tương quan với thần linh và Đấng Tối Cao.
Trong một thế giới đa tôn giáo, có thể dễ rơi vào quan niệm
"Đức Giêsu lịch sử" chỉ là một trong các đấng cứu tinh, xuất hiện vào
các thời kỳ khác nhau trong lịch sử, tại những địa phương có những nền văn hoá
khác nhau. Các "Sách Thánh" của các tôn giáo cũng có giá trị mặc
khải, vì cũng được linh ứng. Tuy nhiên, truyền thống của Hội Thánh dành riêng
từ ngữ "linh ứng" cho những sách trong quy điển của Cựu ước và Tân
ước, vì những sách này được linh ứng bởi Chúa Thánh Thần. Hiến Chế mặc khải của
Công đồng Vatican II viết : "Đối với Mẹ Hội Thánh, dựa vào dức tin của
thời các Thánh Tông đồ, chấp nhận như là thánh và quy điển những sách Cựu ước
và Tân ước, toàn bộ và trọn vẹn, với tất cả mọi phần, dựa trên lý do là chúng
đã được viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, những sách này có Thiên Chúa
là tác giả, và được truyền lại cho Hội Thánh" (MK số 11).
Có người chủ trương phạm vi hoạt động mặc khải và cứu độ
của Ngôi Lời siêu việt rộng rãi hơn Ngôi Lời nhập thể, những người Kitô hữu tin
vào Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, điều đó rất tốt, nhưng chỉ hạn hẹp nơi
Kitô giáo. Phải chấp nhận Ngôi Lời siêu việt có những cách hoạt động khác nhau,
nơi các tôn giáo khác nhau. Ở đâu và bất cứ thời đại nào cũng có những hạt
giống của Ngôi Lời. Nhờ đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hoá mà người
ta khám phá thêm những hạt giống của Ngôi Lời. Thực ra, đức tin tông truyền
luôn nối kết một cách chặt chẽ, bất khả phân ly Ngôi Lời với Đức Giêsu Nadarét.
Chúng ta phải luôn luôn lập lại chân lý đức tin này: Ngôi Lời nhập thể là Chúa
Giêsu thành Nadarét, và Đức Giêsu Nadarét là Ngôi Lời nhập thể. Không có một
"khoảng cách hữu thể" nào, dù là nhỏ bé nhất, giữa Giêsu Nadarét và
Ngôi Lời Nhập Thể. Đức Giêsu người Nadarét là Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha.
Người cũng được gọi là "Đấng Kitô" (Đấng được Chúa Cha xức dầu Thánh
Thần và sai đi rao giảng Tin mừng), Đấng Mêsia Cứu Thế.
Có người cho rằng phạm vi hoạt động của Thần Khí ban sự
sống giống như "gió muốn thổi đâu thì thổi", rộng hơn hoạt động của
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Nhưng đức tin tông truyền luôn nối kết Thần
Khí với Đức Giêsu. Trong lịch sử cứu độ, Thần Khí luôn là Thần Khí của Đức Kitô
Giêsu, không có Thần Khí nào khác có thể mang lại ơn tha tội cho nhân loại
chúng ta và cho chúng ta thông phần vào chính sự sống của Đức Kitô Phục Sinh,
nếu không phải là Thần Khí của Chúa Phục Sinh.
Theo tuyên ngôn Dominus Jesus, thuyết chối từ "tính
duy nhất và phổ quát cứu độ" của mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô có được đặt ra,
nhưng không có nền tảng trong Kinh thánh. Chính vì thế mà phải tin một cách
vững vàng, như là một yếu tố trường tồn của đức tin của Hội Thánh, chân lý về
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa và là Đấng Cứu độ duy nhất, nhờ việc
nhập thể, sự chết và sự sống lại, Ngài đã hoàn thành lịch sử cứu độ, mà Ngài là
"sự viên mãn" và là "trọng tâm" (Dominus Jesus, số 13).
Bài 6
Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
Mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh là trọng tâm của đức tin kitô
giáo : Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống
lại cho tới khi Chúa lại đến. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu là trọng
tâm và chóp đỉnh lịch sử cứu độ, cô đọng tất cả Tình Yêu của Thiên Chúa đối với
nhân loại.
1. Hai mặt của một Mầu nhiệm:
Trọng tâm của lời rao giảng của các tông đồ cũng chính là
Biến Cố Khổ Nạn Phục Sinh. Khi đã lãnh nhận Thánh Thần của Đấng Chúa Phục Sinh,
các tông đồ đã mạnh dạn loan báo : Ông Giêsu thành Nazarét mà các ngươi đã đóng
đinh, đã giết chết, Thiên Chúa đã cho sống lại từ trong kẻ chết. Thiên Chúa đã
tuyên dương người tử tội, phục sinh con người đã bị tử hình. Khi loan báo Đấng
Phục Sinh, sứ điệp của các tông đồ bao gồm cuộc khổ nạn và cái chết bi thảm của
Chúa Giêsu, vì Đấng Chúa Phục Sinh mà các ông loan báo, chính là Đấng đã bị
đóng đinh.
Khổ Nạn và Phục Sinh là hai điều không thể tách rời nhau,
trước hết nơi Đấng mà các tông đồ loan báo. Chúa Phục Sinh không phải là Đấng
Chúa nào khác hiện ra với các ông, mà chính là vị Thầy các ông đã theo, đã sống
với, đã thụ giáo và đã gắn bó. Khổ Nạn và Phục Sinh vừa là hai giai đoạn, vừa
là hai khía cạnh bất khả phân ly của một mầu nhiệm duy nhất mà Hội Thánh gọi là
Mầu Nhiệm Vượt Qua. Chúa Giêsu đã nhiều lần báo trước con đường khổ nạn mà
Người phải trải qua, nhưng bấy giờ các tông đồ hoặc chưa hiểu, hoặc chưa thể
chấp nhận.
Chúng ta biết các đoạn Tin Mừng Mc 8, 27-33 ; Mt 16, 13-23
; Lc 9, 13-21 tường thuật lời tuyên tín của Phêrô và việc loan báo lần thứ nhất
cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu phải chịu. Chính lúc Phêrô và các tông đồ tuyên xưng
Ngài là Đấng Kitô, cũng là lúc Người nói trống ra về sự đau khổ mà Người phải
chịu.
Khi tuyên xưng Thầy Giêsu là Đức Kitô, Phêrô và các tông đồ
nghĩ tới một Đấng Mêsia mà dân Do Thái hằng trông đợi, Đấng được Thiên Chúa xức
dầu tuyên vương, trao cho trách nhiệm giải phóng Israel, để hoàn tất lời Ngài
đã hứa với cha ông, giải phóng dân Do Thái khỏi ô nhục làm nô lệ. Phêrô nghĩ
đến một Mêsia thần linh, một con người thần linh đầy quyền năng có thể đáp ứng
những chờ đợi của
Việc loan báo cuộc khổ nạn kết thúc bằng niềm tin Phục Sinh
của toàn thể Giáo Hội. Không có Phục Sinh, Thập Giá hoàn toàn vô nghĩa. Không
có Phục Sinh, Thập Giá chỉ là thú nhận cách bi thảm sự thất bại và bất lực của
loài người. Dưới ánh sáng Phục Sinh, Thập Giá là Thánh Giá của Con Thiên Chúa,
Đấng đã chịu chết thay cho chúng ta, chết vì chúng ta, kết hợp mật thiết với
mọi đau khổ của loài người.
Phục Sinh mà không có Thập Giá, là một chiến thắng không
đối thủ. Gắn liền với Thập Giá, Phục Sinh là sự sống lại của Đấng đã bị đóng
đinh và giết chết, là sứ điệp về sự chiến thắng của Thiên Chúa trên mãnh đất
đầy đau thương, mãnh đất của sự chết và của lý hình.
Không có Phục Sinh, Thập Giá chỉ là mù tối, không có tương
lai, không niềm hy vọng.
Không có Thập Giá, Phục Sinh trống rỗng, không có nội dung,
không cội rễ, không có quá khứ, không có lịch sử.
Niềm tin kitô giáo của chúng ta, phải luôn giữ chặt Thập
Giá và Phục Sinh với nhau, nếu muốn nhận ra gương mặt đích thực của Chúa Giêsu.
Con người kitô hữu là con người của Thứ Sáu Tuần Thánh và
Chúa Nhật Phục sinh. Con đường của chúng ta, của Hội Thánh không phải là một
giấc mơ về Đấng Mêsia trần thế. Vị Thiên Chúa đầy nhân tính, Chúa Giêsu của các
sách Tin Mừng loại trừ hình ảnh của Đấng Mêsia mà loài người mơ ước, Đấng đáp
ứng mơ ước quyền năng của con người. Thập Giá đảo lộn các mơ ước của con người,
những mơ ước bắt đầu bằng tội của Eva.
Chúng ta không thể loan báo Tin Mừng Chúa Kitô, khi muốn
kitô hóa mọi giá trị trần gian ngay tức khắc, khi muốn tán thưởng mọi thành tựu
của con người. Thập Giá là Lời Phản Kháng chống lại tội ác của thế gian và
Thiên Chúa đã niêm ấn lời phản kháng ấy, khi đã cho Đấng Chịu Đóng Đinh trôi
dậy từ cõi chết. Theo nhà thần học Moltmann, muốn biết Thiên Chúa là ai, phải
quỳ dưới chân Thập Giá và cùng lúc hướng về cánh cửa mở ra của Phục Sinh . Tìm
Thiên Chúa nơi nào khác là tư duy theo kiểu loài người, chứ không theo đường
lối của Thiên Chúa.
2. Tình yêu và Khổ đau của Thiên Chúa nơi Thập
giá:
Thập Giá là nơi Thiên Chúa nói bằng thinh lặng : Mầu nhiêm
Thập Giá là mầu nhiệm sự khổ đau của Thiên Chúa và Tình Yêu của Người. Nơi Thập
Giá, khổ đau và tình yêu là một : Thiên Chúa đau khổ vì Người yêu thương. Đức
Giêsu chịu đóng đinh là Đấng Thiên Chúa vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Nơi
Đức Giêsu, Thiên Chúa hoàn toàn ra khỏi chính mình trong sự tha hóa của cái
chết, để đón chúng ta vào trong sự sống.
Qua các chết Thập Giá, Đức Giêsu đã chia sẻ đến cùng thân
phận làm người của chúng ta : sự nghèo nàn, sự cô đơn và phiền muộn của con
người. Không chỉ một mình Chúa Giêsu mà chính Chúa Cha cũng học đau khổ. Chúa
Cha cũng đi vào lịch sử loài người nơi cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
Ngài đau khổ vì Người Con hoàn toàn vô tội đã bị kết án cách bất công. Nhưng
Ngài đã chấp nhận hy sinh để Tình Yêu được biểu lộ trong đau khổ của Thập Giá.
Chúa Thánh Thần là Hơi Thở Sự Sống mà Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá đã trao
lại cho Chúa Cha. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu hiệp thông, ấy vậy mà đã trở
thành sự chia lìa đau thương tách rời Chúa Cha khỏi Người Con là Đức Giêsu. Đức
Giêsu đã chết, Ngài trao Hơi Thở lại cho Chúa Cha. Chúa Thánh Thần, Hơi Thở Sự
Sống chấp nhận lìa bỏ để Chúa Giêsu có thể chia sẻ thân phận con người trong
cái chết.
Sự đồng nhất giữa Đấng chịu đóng đinh và Đấng sống lại, làm
nổi bật Tình Yêu được mạc khải nơi Thập Giá : kết thúc là một điểm khởi đầu
mới. Chén đắng đã trở nên nguồn nước trường sinh. Đức Kitô, Ađam Mới đã sinh ra
trong cái chết, và loài người, cùng với Ngài và trong Ngài, chiến thắng tội lỗi
và sự chết. Chúa Cha đã tôn vinh Đấng chịu đóng đinh, đón nhận Con của Người
vào trong Vinh Quang, cũng sẽ đón nhận mỗi người chúng ta cùng với Con của
Người. Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi của vị Chúa bị đóng đinh giờ đây được ban
cho mọi xác phàm, để trở nên Đấng an ủi cho mọi con người bị đóng đinh. Ngôn
ngữ của Thập Giá nói với chúng ta rằng, chúng ta tìm gặp Thiên Chúa trong yếu
đuối, trong đau khổ và trong sự nghèo nàn của thế giới con người. Sự hoàn thiện
của Thiên Chúa biểu lộ trong những bất toàn mà Ngài đảm nhận vì chúng ta :
những giới hạn của khổ đau, sự chia lìa của cái chết, sự yếu đuối của nghèo
khó, sự nặng nề tối tăm của cuộc đời.
Từ nay mọi người có thể nhận ra trong cuộc đời của mình
Thập Giá của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong khổ đau, con người có thể cỡi mở với
Thiên Chúa, Đấng đã tự hiến cho loài người chúng ta, để biến đổi thương đau
thành tình yêu, khổ nạn thành lễ phẩm. Thần Khí của Đấng chịu đóng đinh mạc
khải cho chúng ta sự biến đổi ấy. Cùng với chúng ta và trong chúng ta, Người
chia sẻ những đau khổ của cuộc đời, cho chúng ta thông phần cuộc khổ nạn của
Chúa Giêsu , sự đau khổ của Chúa Cha và mở ra cho chúng ta con đường sự sống.
Giáo Hội dưới chân Thánh Giá là những tín hữu noi gương
Chúa Kitô Giêsu, nỗ lực ra khỏi chính mình và đi vào chặng đường thương khó của
tình yêu , là cộng đồng của những người nghèo phục vụ người nghèo. Giáo Hội
dưới chân Thánh giá là Giáo Hội được sống động, phong phú nhờ những khổ đau của
các chi thể. Bước theo Đức Giêsu là đi theo con đường khổ nạn của Thầy. Yêu mến
Chúa Giêsu và bước theo Ngài là góp phần làm dịu các nổi khổ đau của loài
người, là đấu tranh bằng lời nói và cuộc sống chống mọi nguồn gốc của sự dữ,
của khổ đau. Thánh Giá cứu độ của Chúa Giêsu đòi hỏi giải phóng khỏi mọi thứ
thập ác của tội lỗi và sự chết. Bước theo Chúa Giêsu là biến các thập giá hằng
ngày thành con đường cho sự phục sinh, cho tình yêu và công lý.
3. Tình yêu và hạnh phúc nơi Chúa Phục Sinh:
Nếu chiều kích Ba Ngôi làm cho mầu nhiệm Thập Giá trở nên
sâu sắc và gần gủi, thì điều đó càng nỗi bật hơn trong mầu nhiệm Phục Sinh.
Biến cố Phục Sinh là kỳ công lớn nhất của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Là
lúc Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Người đối với Đức Giêsu và tất cả
nhân loại chúng ta. Là lúc Thiên Chúa thể hiện tất cả quyền năng của Người.
Giáo Hội luôn luôn coi Thiên Chúa là tác giả đầu tiên của biến cố Phục Sinh.
Chính Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu (Cv 2,24). Thiên Chúa đã đặt Người làm
Chúa và làm Kitô (Cv 2,36). Thiên Chúa đã tự nhận là Cha của Đấng chịu đóng
đinh.
Thiên Chúa đã phê phán và lên án sự gian ác của con người
trong vụ án Chúa Giêsu. Phục Sinh Đức Giêsu là đảo lộn cách sắp xếp của loài
người, đảo lộn trật tự của trần gian khởi đầu bằng sự xúi giục của thần dữ. Đối
với Thiên Chúa, không có trật tự nào vượt lên trên tình yêu và công lý. Sự Phục
Sinh chính là lời chúc phúc, là sự tôn vinh Thiên Chúa dành cho Con Yêu Dấu của
Người, Đấng đã vâng phục Người cho đến chết.
Nhờ biến cố Phục Sinh, chúng ta hiểu được quá khứ của ngài
Giêsu Nazarét là lịch sử của Con Thiên Chúa ở giữa loài người, chúng ta biết
được Đức Giêsu là Đấng Hằng Sống đã chiến thắng sự chết, là Đấng Chúa sẽ trở
lại trong vinh quang.
Biến cố Phục Sinh đã đưa Đức Giêsu, ngay cả trong tư cách
là con người, đến tột đỉnh của vinh quang và hạnh phúc. Sự Phục Sinh của Đức
Giêsu là Phục Sinh cánh chung. Người đã đạt tới cùng đích mà Thiên Chúa muốn
dành cho con người. Người đã mở ra cho nhân loại một tương lai rực rỡ. Người mở
cửa Thiên đàng cho nhân loại. Chính Người là Cửa Vào Cung Lòng Chúa Cha.
Sự Phục Sinh của Đức Giêsu biểu lộ sự đúng đắn của con
đường mà Người đã chọn, con đường nhỏ bé, thấp hèn, con đường đi với những
người nghèo, những người tội lỗi, những người bị thế gian loại trừ, là con
đường lòng thương xót của Chúa Cha, là con đường của lòng nhân đạo tuyệt vời
nhất. Thập Giá của Người đã chiến thắng tội lỗi, chiến thắng lề luật và sự
chết, chiến thắng bất công và hận thù, chiến thắng thế gian. Phục sinh là chiến
thắng của tự do, của ân sủng và của tình yêu. Phục Sinh là dấu chỉ Tiếng Nói
cuối cùng thuộc về Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho loài người, là Tiếng Nói
của hạnh phúc, của tương lai. Tin vào Chúa Phục Sinh là tin vào hạnh phúc của
nhân loại và kêu gọi mọi người hãy vui lên.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở sự Sống mà Chúa
Cha, vì yêu thương mà trao lại cho Chúa Giêsu, làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ
cõi chết. Hơi thở ấy, không những Người trao lại cho Chúa Giêsu, mà qua Chúa
Giêsu, Người muốn trao ban cho tất cả nhân loại. Đức Giêsu Phục Sinh đầy Thần
Khí vẫn được Chúa Cha sai đến với nhân loại chúng ta để ở cùng chúng ta mọi
ngày cho đến tận thế. Từ nay mọi sự gặp gỡ với Đức Giêsu đều là gặp gỡ trong
Thần Khí, để lãnh nhận Thần Khí, chia sẻ Thần Khí, chia sẻ Sự Sống mà Chúa Cha
ban cho Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần là Quyền Năng, là Sức Mạnh của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thể hiện trọn vẹn Quyền Năng của Người trong biến cố Phục Sinh.
Phục Sinh là lúc mà Chúa Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ nhất và đã làm cho Chúa
Giêsu trỗi dậy. Chúa Thánh Thần là Quyền Năng Phục Sinh, Quyền Năng này đã hoạt
động nơi Chúa Giêsu thế nào, thì cũng hoạt động nơi chúng ta như vậy. Chính vì
thế mà càng gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta càng có được sức mạnh và quyền
năng của Ngài.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Hiệp Thông mà Chúa Cha trao lại
cho Chúa Giêsu trong biến cố Phục sinh, để nối kết Chúa Giêsu lại với Chúa Cha,
làm cho Chúa Giêsu nên một với Chúa Cha, cũng được ban cho nhân loại chúng ta,
để chúng ta được nối kết lại với Thiên Chúa và nối kết lại với nhau. Chúa Thánh
Thần nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa bằng cách tháp nhập chúng ta vào Chúa
Kitô Phục Sinh, làm cho chúng ta nên một với Chúa Kitô, cho chúng ta sự sống
mới của Chúa. Chính Chúa Thánh Thần là Sự Sống mới ấy.
Ngày hôm nay, nhờ Giáo Hội, chúng ta vẫn được gặp Chúa Kitô
Phục Sinh mỗi lần bẻ bánh. Hiệp thông khi bẻ bánh không chỉ là tưởng nhớ sự
chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, mà là thông phần thực sự vào Sự Sống của
Ađam Mới, là chia sẻ Thần Khí của Chúa Kitô, là đón nhận Sự Sống mà Chúa Cha ban
trong Chúa Kitô, như chính Người mong muốn : Tôi đến để cho chiên được sống và
sống dồi dào (Ga 10,10).
Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh được gọi là Mầu Nhiệm Vượt
Qua, vì Chúa Kitô là Chiên Vượt qua của chúng ta, là Chiên Con đã chịu sát tế
vì chúng ta, cho chúng ta được cứu thoát. Được gọi là mầu nhiệm vượt qua, nhắc
lại biến cố vượt qua biển đỏ của dân Chúa trong Cựu Ước. Đó là biến cố giải
phóng ra khỏi đất nô lệ để đi vào đất hứa. Biến cố Vượt Qua là biến cố cứu độ.
Trước hết, đó là biến cố của chính Chúa Giêsu, vượt qua thế gian để về cùng
Chúa Cha, vượt qua tội lỗi và sự chết để đi vào sự sống. Nhưng đối với Chúa
Kitô Phục Sinh, về cùng Chúa Cha cũng là đến với nhân loại cách trọn vẹn, để
làm Đấng Emmanuel mọi ngày cho đến tận thế.
Đối với chúng ta, sống mầu nhiệm Vượt Qua, trước hết là để
cho Chúa Thánh Thần tháp nhập chúng ta vào Chúa Kitô Khổ Nạn và Phục Sinh, để
chúng ta cùng chết với Chúa và sống lại với Người. Được tháp nhập vào với Chúa,
chúng ta cùng vượt qua với Chúa. Chúng ta đến với Chúa Cha nhờ Chúa Kitô và
trong Chúa Thánh Thần. Cuộc đời kitô hữu chúng ta là một hành trình đi về Nhà
Cha. Nhưng đến với Cha cũng là đến với anh chị em, tiếp nối sứ mạng yêu thương
và phục vụ của Chúa Giêsu tại trần gian, nơi chúng ta sống và được sai đến.
Bài 7
THÁNH THẦN CỦA CHA VÀ CON
I. THÁNH THẦN, TÌNH YÊU THẦN LINH
Tân ước thường xuyên nối kết hai từ ngữ Thánh Thần và Tình
Yêu, mặc dù đây không phải là gia tài của Cựu ước. Tương quan này, tuy không
hiển nhiên trong nhiều đoạn Kinh thánh, nhưng chắc chắn có, vì phát xuất từ
kinh nghiệm của đời sống Kitô giáo.
Đoạn minh nhiên hơn cả là Rm 5,5 : "Thiên Chúa đã đổ
Tình Yêu của Người vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta".
Tuôn đổ là một từ ngữ của Kinh thánh thường được dùng để chỉ ân sủng hay Thánh
Thần được ban cho một cách tràn trề. Thánh Thần Thiên Chúa cũng là tình yêu của
Thiên Chúa được ban cho chúng ta làm chúng ta không bao giờ phải thất vọng. Sự
hiện diện của Thánh Thần bảo đảm ơn cứu độ, mà hiện sủng chỉ là khai ân.
Nhiều đoạn khác, tuy không minh nhiên bằng, nhưng cũng cho
thấy rằng Tình Yêu là một sắc thái đặc biệt của Ngôi Vị Thánh Thần. Tín hữu
Colossê được Phaolô khen ngợi vì lòng mến của họ trong Thánh Thần (Cl 1,8). Gần
như có một sự tương đương ý nghĩa giữa hai thành ngữ "trong Thánh
Thần" và "trong Lòng Mến". Các tín hữu sống trong Thánh Thần và
trong Lòng Mến, hành động và nên thánh trong Thánh Thần và trong Lòng Mến (Rm
8,4. 14 và Ep 5,2; Rm 5,16 và Ep 1,4). Giáo Hội được xây dựng trong Thánh Thần
và trong Lòng Mến (Ep 2,22; 4,16; Cl 2, 2). Giáo Hội nên một với Chúa Kitô nhờ
Thánh Thần (Rm 8, 9), là một Thân Mình duy nhất với Ngài (1Cr 12,13-27). Thánh
Thần còn là sức mạnh tạo ra sự hiệp thông giữa các Kitô hữu (2Cr 13,13).
Tất cả những gì thuộc lãnh vực bác ái là do Thánh Thần. Thánh
Thần không chỉ đối lập với xác thịt như sức mạnh đối ngược với sự yếu đuối, mà
còn là Tình Yêu, là sự cởi mở vô hạn đối lập với sự ích kỷ và hận thù (Gl
5,17-23). Qua cái chết vì xác thịt yếu đuối (Rm 8,3), Đức Kitô đã trở nên Thần
Khí tác sinh (1Cr 15,45), một hữu thể tự hiến và là nguồn sự sống; Thánh Thần
đã làm cho Ngài trở nên như thế. Theo H. Schier, trong Thiên Chúa, Thánh Thần
là Sức Mạnh khai mở và tự hiến, là sự Toàn Năng của một tình yêu tràn trề. Thần
học gọi Ngài là Ngôi Vị Yêu Thương, là Quyền Năng Chủ Vị.
Nếu nơi Thiên Chúa, Thánh Thần vừa là Hành Động, vừa là
Tình Yêu, thì Chúa Cha, khi yêu thương, vì yêu thương, bằng yêu thương, trong
yêu thương, sinh ra Chúa Con. Trong Thiên Chúa yêu thương là sinh hạ. Trong
Thiên Chúa, có Đấng sinh hạ, Đấng được sinh ra và có hành vi sinh hạ; nói theo
kiểu thánh Augustinô, đó là Đấng yêu thương, Đấng được yêu thương và Tình yêu
(De Trinitate 8, 14).
Thần học kinh viện cho rằng Chúa Cha sinh ra Chúa Con không
bằng con đường tình yêu mà bằng con đường trí tuệ. Điều đó rất xa với Kinh
thánh. Nếu muốn nói theo Tân ước, phải nói rằng Đức Kitô là "Con của tình
yêu của Thiên Chúa" (Filius Dilectionis, Cl 1,13), là Con được sinh ra
trong tình yêu. Chúa Cha là Cha trong Tình Yêu là Chúa Thánh Thần; Chúa Con là
Con trong Tình Yêu là Chúa Thánh Thần, là Con trong Cung Lòng Cha (Ga 1,18).
Ngài sinh ra và sống trong sự âu yếm của Chúa Cha. Ở đây chúng ta có thể nhắc
lại, Thánh Thần không là đầu cũng không là cuối, mà có ở đầu cũng như ở cuối.
Ngài là môi sinh tình yêu trong đó mọi sự được hoàn thành.
II. THÁNH THẦN CỦA CHÚA CHA
Nếu Thánh Thần là hành vi sinh hạ, là tình yêu của Thiên
Chúa với tư cách là Cha, đương nhiên Thánh Thần tiên vàn phát xuất từ Cha (Ga
15,26). Thành ngữ thông dụng nhất trong Kinh thánh là "Thần Khí của Thiên
Chúa". Chữ Thiên Chúa trong Tân ước chỉ Chúa Cha (1Cr 8,6).
Có thể nghĩ rằng Thánh Thần là biểu đạt (caractéristique)
của bản tính Thiên Chúa Cha. Chính trong hành vi sinh hạ, nghĩa là trong Thánh
Thần mà Chúa Cha là Ngôi thứ nhất, nghĩa là Ngôi Cha. Bản chất của Thiên Chúa
Cha là sinh hạ. Nhà thần nhiệm Eckhart cho rằng "khát vọng lớn nhất của
Thiên Chúa là sinh hạ". Hữu thể thần linh của Thiên Chúa chỉ được diễn tả
trọn vẹn trong khả năng yêu thương vô hạn. Tình yêu vô hạn ấy làm cho Người ra
khỏi mình trong Chúa Con. Ngài là Cha tự bản chất, là Cha và là Thiên Chúa, là
Thiên Chúa và là Cha. Thánh Thần không tách rời khỏi hữu thể làm Cha của Chúa
Cha.
Thánh Thần là hành vi sinh hạ phát xuất từ Chúa Cha không
giống như Đấng được sinh ra là Chúa Con. Chúng ta hiểu được một phần nào sự
phát xuất của Chúa Thánh Thần. Ngài là hành động, là tình yêu. Hành động thì
không bao giờ tách rời khỏi chủ thể hành động. Tình yêu vẫn nằm trong trái tim
của người yêu, dù làm cho người ấy ra khỏi chính mình. Trong khi Chúa Con ra
khỏi Chúa Cha, đối diện với Ngài như một ngôi vị hoàn toàn khác biệt, và đi đến
mức nhập thể trở thành thụ tạo, Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha mà không rời
bỏ Ngài, Thánh Thần không bao giờ giống một người con được sinh ra, không bao
giờ đối diện với Chúa Cha. Ngài nội tại trong Chúa Cha, là Thần Khí của Thiên
Chúa làm cho Chúa Cha là Cha. Ngài cũng không phân biệt với Chúa Cha như linh
hồn của một con người phân biệt với con người ấy. Ngài là riêng biệt của Cha,
bản chất của Cha, làm cho Chúa Cha là Chúa Cha.
Chúa Cha chỉ có một Con Duy nhất, hoa quả duy nhất của hành
vi sinh hạ. Không có ngôi vị nào khác có thể sinh từ Chúa Cha, mà tất cả mầu
nhiệm nằm trong sự sinh hạ duy nhất. Nhưng Thánh Thần cũng bởi Chúa Cha. Mặc dù
Thánh Thần không phải là Con, toàn diện Chúa Cha có liên hệ tới sự phát xuất
của Chúa Thánh Thần, cũng như sự sinh ra của Chúa Con. Chính vì thế mà Thánh
Thần ngang bằng với Chúa Cha và Chúa Con, cùng được phụng thờ và tôn vinh với
Chúa Cha và Chúa Con. Dù không là Chúa Con, Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa
Cha trong tư cách là Cha, vì ngôi vị của Ngài chính là hành vi sinh hạ. Thiên
Chúa Ba Ngôi - Duy Nhất gồm có Chúa Cha và Chúa Con, cùng với vận hành vĩnh cửu
giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Chính vì thế mà Giáo hội Đông
phương thích nói "Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh
Thần".
Thần học Hy lạp đề cao tư cách khởi nguyên của Chúa Cha,
nơi Người mọi sự khởi đầu và hoàn tất. Thánh Thần phát xuất từ Cha, nhưng không
thấp hơn Cha, vì chính trong Thánh Thần mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con, chính
trong Thánh Thần mà Ngài có ngôi vị là Cha. Mọi sự đều bắt nguồn từ Chúa Cha,
và không có ngôi vị nào phát xuất từ Chúa Thánh Thần, dù Thánh Thần không thấp
hơn Chúa Cha, cũng không cằn cỗi. Trong Đấng Thiên Chúa là nguồn, Chúa Thánh
Thần chính là "sự trào vọt ra", là sự phong phú và phì nhiêu của
Thiên Chúa. Ngài không phải là đầu, cũng không phải là cuối, nhưng vừa ở đầu,
vừa ở cuối. Ngài là vận hành từ Cha qua Con, và do đó, Ngài cũng là Thánh Thần
của Chúa Con.
III. THÁNH THẦN CỦA CHA VÀ CON
Thánh Thần Thiên Chúa còn được gọi là Thánh Thần của Chúa
Con (Gl 4,6), Thánh Thần của Đức Kitô (Rm 8,9), Thánh Thần của Chúa (2Cr 3,17).
Nếu Thánh Thần là hành vi sinh hạ, là tình yêu trong đó
Chúa Con được sinh ra, không thể nói đến sự phát xuất của Chúa Thánh Thần bởi
Chúa Cha mà không có liên hệ gì đến Chúa Con. Bất cứ ý kiến nào tách rời sự
nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần với sự sinh ra của Chúa Con đều là sai lạc.
Thánh Thần thuộc về Chúa Con cũng như thuộc về Chúa Cha.
Nếu Chúa Con không sở hữu Thánh Thần như Chúa Cha, thì sự viên mãn thần tính sẽ
không đậu lại nơi Ngài, vì Thánh Thần là sự thánh thiện được ngôi vị hóa, là sự
toàn năng được ngôi vị hóa, là thần tính được ngôi vị hóa. Nếu không sở hữu
viên mãn Thánh Thần, Chúa Con không thể nói "Tất cả những gì của Cha là
của Con" (Ga 17,10). Các tín hữu là những người đồng thừa tự với Đức Kitô
(Rm 8,17) vì được thông phần Thần Khí của Người (Gl 4,6).
Chúa Con sở hữu Thánh Thần khác với Chúa Cha. Chúa Cha là
Nguồn, Chúa Con lãnh nhận, vì Chúa Con được sinh ra trong Thánh Thần. Ngôi Hai
là Con, Chúa Con là Thiên Chúa nhờ đón nhận.
Nhưng Chúa Con cũng không lãnh nhận Thánh Thần cách thụ
động. Thánh Thần không để cho mình được sở hữu cách thụ động, vì Ngài là hành
vi yêu thương thần linh, làm cho Thiên Chúa xuất ra khỏi chính mình. Ngài làm
cho Chúa Cha cũng như Chúa Con luôn luôn tự hiến, đó là bản chất thần linh của
các Ngài. Chúa Cha là Thiên Chúa nhờ tự hiến cho Con, Chúa Con là Thiên Chúa
nhờ hướng về Cha, Cha và Con là Thiên Chúa trong tình yêu hỗ tương là Thánh
Thần. Thánh Thần được ví như dòng nước trào ra. Ngài phát xuất từ Cha mà không
rời bỏ Cha, từ Con mà không rời bỏ Con, vì Ngài là tình yêu tự hiến giữa hai
bên. Nhưng Ngài là như thế tiên vàn nơi Chúa Cha, vì Ngài là tình yêu của Cha,
rồi mới nơi Chúa Con như là tình yêu, là Thánh Thần của Con.
Đón nhận quà tặng là để cho Người tặng có thể tặng. Sự đón
nhận không thuần túy tự động; đó cũng là một thứ nguyên nhân. Khi hai người yêu
nhau, mỗi người làm cho người kia yêu. Khi đón nhận, Chúa Con thông phần vào
chính sự sinh ra của mình, sự trào vọt của Thánh Thần. Chúa Cha tự bản chất
sinh ra Chúa Con, nhưng cũng là một đáp trả yêu thương cho sự đón nhận của Con.
Chúa Con sinh ra và đón nhận sự sinh ra của mình với tư cách là Con và trong tự
do. Trong tình yêu vô hạn, không có sự đối chọi giữa tất yếu và tự do.
Đức Giêsu tại thế mạc khải tương quan làm con đối với Chúa
Cha. Chúa Cha sinh ra Ngài, nhưng Ngài như đồng tình với sự sinh ra ấy. Con
người, các hành vi và lời nói của Người là bởi Cha. Tất cả những gì Cha ban cho
Con, thì ban cho Ngài nhờ sinh hạ (Augustinô). Trong sách Tân ước, sự thuận
tình của Đức Giêsu đối với Chúa Cha được gọi là vâng phục. Thánh Gioan trình
bày sự vâng phục như một nhân đức riêng của Con, biểu đạt tư cách làm Con. Sự
vâng phục của Đức Giêsu là thuận tình với tư cách làm Cha của Thiên Chúa, với
việc Chúa Cha sinh ra mình, cho tới ngày thuận tình cách vô hạn trong sự vâng
phục cho đến chết (Pl 2,8). Đáp lại là việc Chúa Cha sinh ra Ngài cách trọn vẹn
trong chính sự Phục Sinh (Cv 13,33). Chúa Cha phục sinh Đức Giêsu trong Thánh
Thần, sinh ra Đức Giêsu trong sự viên mãn của vinh quang. Qua cái chết, Đức
Giêsu khơi dậy hành vi của quyền năng sinh hạ của Cha là chính Thánh Thần.
Mọi sự đều bởi Cha; Cha phục sinh Đức Kitô, sinh ra Ngài
cách viên mãn. Nhưng Chúa Con cũng có vai trò tích cực trong sự Phục sinh :
"Sở dĩ Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy
lại" (Ga 10,17). Phần của Chúa Con trong hành vi phục sinh là gì ? Đó là
sự đón nhận của người con : trong cái chết, Ngài đồng tình với Cha sinh ra
Ngài. Vâng phục cho đến chết Ngài khơi dậy hành vi tôn vinh của Cha (Pl 2,8).
Chính Cha ban Thánh Thần trong đó Đức Giêsu Phục sinh; nhưng Đức Giêsu khơi dậy
sự ban tặng ấy. Điều này mạc khải một chân lý thẳm sâu là Chúa Con thông phần
vào sự nhiệm xuất vĩnh hằng của Thánh Thần với tư cách là Con (Dt 9,14).
Cũng có thể kết luận như trên khi chúng ta dùng phạm trù
yêu thương thay cho từ ngữ vâng phục. Tình yêu khơi dậy tình yêu. Theo Ga 14,31
Đức Giêsu yêu mến Chúa Cha, và vì yêu thương, sẵn sàng
chịu chết. Chúa Cha là Đấng yêu thương trước (Ga 17,24.26), nhưng tình yêu của
Ngài cũng được khơi dậy bởi sự quảng đại của Chúa Giêsu trong cái chết. Thánh
Thần Thiên Chúa là tình yêu được Ngôi vị hóa. Trong Ba Ngôi, tình yêu của Chúa
Con đối với Chúa Cha là một sự khơi dậy vĩnh hằng. Thánh Thần là tình yêu phát
xuất từ Cha, đáp lại sự khơi dậy của Con. Như vậy là Con có phần trong sự nhiệm
xuất của Thánh Thần. Khi đón nhận tất cả, Chúa Con để cho Chúa Cha là tất cả,
làm Cha sinh ra con trong Thánh Thần.
Thánh Thần của tình yêu sinh hạ là Thánh Thần của Cha và
của Con, hiệp nhất với nhau trong sự bất khả phân của một Ngôi vị. Đồng thời
Thánh Thần cũng làm nên sự khác biệt không thể giản lược giữa Chúa Cha và Chúa
Con. Chỉ có một Thánh Thần duy nhất, nhưng trong Chúa Cha, thì đó là Tình Cha,
trong Chúa Con, đó là Tình Con. Cùng một tình yêu duy nhất vừa là cho đi (Chúa
Cha), vừa là đón nhận (Chúa Con). Tiên vàn trong Chúa Cha, yêu thương là cho đi
chính mình, trong Chúa Con, yêu thương là đón nhận. Nhưng rồi Con lại dâng
hiến, và đến lượt Cha đón nhận.
Câu Ga 15,26 hết sức quan trọng để cho chúng ta hiểu mầu
nhiệm Ba Ngôi, nhưng thường chưa được khai triển đúng mức : "Khi Đấng Bảo
Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí
Sự Thật phát xuất từ Chúa Cha ...". Thần học La tinh coi câu này là bằng
chứng cho quan điểm "và Con" (Filioque) của họ. Nhưng thần học Hy lạp
thì lại cho rằng chỗ nói Chúa Con sai Thánh Thần từ nơi Cha thuộc về bình diện
lịch sử cứu độ. Thực ra không thể nào tách rời lịch sử cứu độ (économie) với
thần học (théologie) trong Tin Mừng Gioan. Trong Gioan, Đức Giêsu là bộ mặt hữu
hình của mầu nhiệm Ngôi Lời, Ngài là Chúa Con nhập thể, Đấng đạt tới chóp đỉnh
sự hiến thánh trong mầu nhiệm Vượt Qua, đạt tới sự viên mãn của vinh quang làm
Con (Ga 17,5). Trong sự viên mãn ấy, Đức Giêsu vừa là Chúa Con phải được tôn
thờ, vừa là Nguồn Suối ban Thánh Thần cho nhân loại (Ga 20,28). Hơi thở của
Chúa Cha cũng là hơi thở của Đức Kitô Phục sinh (Ga 20,22).
Trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Thần học trở nên
nhiệm cục, mầu nhiệm vĩnh hằng được hoàn thành cho chúng ta. Trong khi thần học
đề cập đến Ba Ngôi tự tại, mầu nhiệm này trở nên "vì chúng ta và để cứu
rỗi chúng ta". Trong mầu nhiệm cứu độ, Chúa Cha sinh ra Chúa Con cho chúng
ta, Đức Kitô là Con Thiên Chúa cho chúng ta, Chúa Thánh Thần đối với chúng ta
là sự sinh hạ thần linh, nhờ đó chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa trong Con
Duy Nhất của Người.
(Viết theo “L'esprit
du Père et du Fils”, Durrwell, Paris 1989)
Bài 8
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN BAO TRÙM TOÀN
THỂ ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
(GLHTCG, số 688)
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cho chúng ta biết, Giáo
Hội chính là môi trường trong đó chúng ta kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần.
1. Nơi các sách mà Chúa Thánh Thần linh hứng
Trong thinh lặng, lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, Giáo Hội
để cho Chúa Thánh Thần đào tạo, giáo dục, kích thích, vì Ngài ngỏ lời với chúng
ta qua các sách Kinh thánh. Trong khi Giáo Hội đón nhận và nuôi dưỡng chúng ta
bằng Lời Chúa, Giáo Hội trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Chúa của
mình, và triển nở trong hiệp thông và sự duy nhất của Thánh Thần duy nhất. Chúa
Thánh Thần đưa dẫn Giáo Hội là các môn đệ của Chúa Kitô vào trong chân lý viên
mãn.
Sách Kinh thánh được Chúa Thánh Thần linh hứng, và phải
được lắng nghe trong Chúa Thánh Thần, đòi hỏi chúng ta, với tư cách cá nhân,
với tư cách cộng đoàn, Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn cầu, phải đọc, phải
nghiên cứu, phải suy gẫm, phải chiêm ngắm, phải cầu nguyện với sách Kinh thánh,
làm chứng cho Lời Kinh thánh bằng cuộc sống và hoạt động tông đồ.
Hình thái loan báo và lắng nghe Lời Chúa một cách đặc biệt
trong Giáo Hội, là phụng vụ Lời Chúa, được coi như thì mạnh của hoạt động Chúa
Thánh Thần. Lời ấy được loan báo và giải thích bởi Vị Thầy và Nhà Chú giải thần
linh trong Giáo Hội, theo lời hứa của Chúa Giêsu (Ga 16,13). Nhờ Chúa Thánh
Thần mà tiếng nói sống động của Tin Mừng vang lên trong Giáo Hội (MK 8) và việc
thấu hiểu lời Kinh thánh được tiến bộ dưới sự trợ giúp của Ngài qua việc rao
giảng của các mục tử, qua việc học hỏi, việc suy niệm và hiểu biết sâu sắc các
thực tại thiêng liêng. Mẫu mực của Giáo Hội lắng nghe Lời Chúa luôn là Đức
Maria (Marialis Cultus số 17).
Một văn kiện cô đọng cái nhìn đại kết về vấn đề này như sau
: Chúa Thánh Thần hiện diện và được trao ban trong việc loan báo, lắng nghe và
chia sẻ Lời Chúa. Loan báo gồm việc đọc công khai lời Kinh thánh và bài giảng
dựa vào đó. Chính vì thế mà trước khi đọc Lời Chúa và giảng, nên có một lời
khẩn nguyện Chúa Thánh Thần .
Phụng vụ Lời Chúa là không gian mạc khải Thánh Thần, Đấng
là tiền hô và loan báo Tin Mừng mầu nhiệm Chúa Kitô.
2. Trong truyền thống, mà các thánh Giáo phụ là
những chứng nhân luôn hiện đại
Giáo Hội của các Tông đồ, các thánh tử đạo và các giáo phụ
cho tới hôm nay, vẫn là Giáo Hội duy nhất không ngừng đổi mới, đáp ứng với các
dấu chỉ thời đại. Trải dài trong lịch sử, Giáo Hội tự diễn tả mình nhiều cách
khác nhau, làm thế nào để khuôn mặt Chúa Kitô chiếu sáng nơi chính mình, và
Giáo Hội trở nên khả tín đối với nhân loại mọi thời và mọi nền văn hóa. Giáo
Hội trở nên Công giáo nhờ trung tín với Chúa Thánh Thần, hay đúng hơn, chính
Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội trở nên Công giáo.
Chính nhờ sự hiệp thông Giáo Hội trải dài trong lịch sử, mà
hôm nay chúng ta được kết hiệp với mọi người đã đi trước chúng ta trong đức
tin. Sự thánh thiện trong mọi thời và mọi nền văn hóa thuộc về mỗi một người,
cũng như sự thánh thiện của mỗi một người thuộc về mọi người. Tất cả chúng ta
hoàn toàn hiệp nhất trong Thánh Thần Duy Nhất, trong mầu nhiệm Hiệp thông Ba
Ngôi. Đó cũng là sự hiệp thông các thánh.
3. Trong Huấn Quyền của Giáo Hội mà Ngài trợ
giúp
Đức Kitô đã yêu cầu chúng ta lắng nghe và đón nhận các Tông
đồ và những người kế vị như là đối với chính Ngài. Ngài cũng hứa ban Chúa Thánh
Thần cho các vị, để Chúa Thánh Thần khai mở tâm trí các vị ra với toàn thể chân
lý. Do đó, Huấn Quyền của Giáo Hội trở thành điểm quy chiếu quyết định để nhận
biết ý muốn của Thiên Chúa. Huấn Quyền là sự biện biệt cộng đồng về cách sống,
cách làm chứng và truyền đạt Tin Mừng cho mọi thời và mọi nơi.
Giáo Hội soi sáng, giải thích, đưa ra lý lẽ cho đời sống
Phúc âm và hoạt động mục vụ của toàn thể Dân Chúa, và nhờ sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần, trở thành tiêu chuẩn đức tin, lời chỉ dẫn và mời gọi sống.
4. Trong phụng vụ Bí tích, qua lời và biểu
tượng, Chúa Thánh Thần cho chúng ta được hiệp thông với Chúa Kitô
Chúa Thánh Thần bao trùm tất cả phụng vụ của Giáo Hội là
công việc thánh hóa và thờ phượng trong Thánh Thần (GH 50,51). Thực vậy, nhờ
Đức Kitô, Chúa Cha đổ Thánh Thần xuống trên chúng ta. Chúa Thánh Thần là sự
hiệp thông trong chân lý và sự sống, trào vọt từ nguồn suối Ba Ngôi. Ngài là sự
đáp lại của đức tin, lời cầu nguyện và việc dâng hy lễ hướng về với Chúa Cha,
nhờ Đức Kitô, (trong Chúa Thánh Thần).
Không có sự thánh hóa, nếu không có sự can thiệp của Đấng
Chí Thánh và cũng là Đấng Thánh Hóa. Chúng ta phải khám phá ra hoạt động của
Ngài trong phụng vụ Thánh Thể và Bí tích, môi trường thánh hóa và hiệp thông
trong chân lý và sự sống của Thiên Chúa.
Mọi diễn tả trong phượng tự, việc tuyên xưng đức tin, việc
đón nhận Lời, việc ca ngợi, khẩn cầu, thống hối và dâng của lễ, hy tế thiêng
liêng tự nguyện gắn bó với thánh ý Thiên Chúa và thi hành thánh ý, chỉ có thể
sống và thực hiện trong Chúa Thánh Thần.
Mỗi Bí tích, với tư cách thể hiện các kỳ công của Thiên
Chúa, là sự thông ban ân sủng, là hành vi đức tin và phượng tự thể hiện sự viên
mãn của Chúa Thánh Thần một cách đặc thù và chuyên biệt.
Phụng vụ diễn tả tương quan phải có giữa Chúa Thánh Thần và
các Bí tích bằng lời khẩn nguyện chứa đựng trong các Tiền Tụng hiến thánh hay
các công thức Bí tích. Có thể thiết lập một tương quan đặc biệt giữa các yếu tố
Bí tích và Thần Khí thánh hóa.
Thánh Thần là ân ban tha tội và là ân sủng; là sức mạnh và
là an ủi đối với bệnh nhân trong Bí tích xức dầu. Thần Khí thánh thiện được ban
bởi ân sủng và thừa tác vụ phó tế, linh mục và giám mục. Trong Bí tích hôn
phối, Ngài là ân ban tình yêu cho đôi bạn.
Bánh Thánh Thể và Rượu Giao Ước mới được liên kết cách đặc
biệt với hoạt động của Chúa Thánh Thần, vì chính là Mình và Máu vinh hiển,
thiên thánh của Đức Kitô Phục Sinh đầy tràn Thần Khí. Thánh Ephrem có những
cách nói rất mạnh dạn về Chúa Thánh Thần và Bí tích Thánh Thể : Trong bánh của
Ngài có ẩn giấu Thánh Thần không thể ăn được, trong rượu của Ngài có lửa không
thể uống được. Thánh Thần trong bánh, lửa trong rượu, một kỳ diệu cao vời mà
môi miệng chúng ta lãnh nhận... Trong bánh và chén có lửa và Thánh Thần.
Việc thông phần hồng ân duy nhất là Chúa Thánh Thần làm cho
Giáo Hội trở nên một Thân Mình và một Thần Khí.
5. Trong lời cầu nguyện, Thánh Thần khẩn cầu
cho chúng ta
Mọi lời cầu nguyện của Giáo Hội đều thể hiện trong Chúa
Thánh Thần và là lời cầu nguyện của Thánh Thần. Sự duy nhất của Giáo Hội trong
cầu nguyện là công trình của Chúa Thánh Thần, cùng một Thánh Thần trong Đức
Kitô, trong toàn thể Giáo Hội và trong mỗi người chịu Phép rửa. Cùng một Thánh
Thần ấy đến trợ giúp sự yếu đuối của chúng ta và cầu bầu cho chúng ta bằng
những tiếng kêu khôn tả (Rm 8,26). Nhờ Ngài mà chúng ta có thể kêu lên Abba,
Cha ơi (Rm 8,15). Không thể có lời nguyện Kitô mà không có hoạt động của Chúa
Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Giáo Hội toàn cầu, đưa dẫn Giáo Hội nhờ Chúa Con đến
với Chúa Cha (instruction générale sur la liturgie des heures, n.8).
Cầu nguyện là một chiều kích cốt yếu của phụng vụ; thái độ
tôn thờ, lắng nghe và đáp trả, cơ cấu chính yếu của đời sống cầu nguyện của
Giáo Hội thấm nhuần tất cả phụng vụ Thánh Thể và đạt đến cao điểm trong Kinh
Nguyện Thánh Thể, trong đó Thánh Thần rút ra từ trong tâm hồn cầu nguyện của
Giáo Hội những cách diễn tả đặc biệt nhất các tâm tình đối thoại con thảo : cảm
tạ, hiến dâng, cầu khẩn, kêu cầu. Tất cả đều hoàn thành trong Thần Khí : bài hát
thánh ca và sự thinh lặng, lời cầu nguyện của thừa tác viên, lời thưa Amen của
Dân Chúa, lời tuyên tín và lời nguyện giáo dân.
Thánh Thần hiện diện trong cả năm phụng vụ, để biểu lộ và
truyền thông mầu nhiệm Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là vị Tiền Hô, là chứng nhân
huyền nhiệm trong Mùa Vọng, là niềm vui và ánh sáng trong Mùa Giáng Sinh và
Hiển Linh, là vị Thầy nội tâm của Mùa Chay, Đấng đưa Đức Kitô và Giáo Hội đến
mầu nhiệm Vượt Qua. Chúa Thánh Thần còn là hồng ân vượt qua của Chúa Kitô ;
Ngài hiện diện ẩn giấu trong Mùa Thường Niên, Đấng bày tỏ mầu nhiệm của Chúa và
Lời của Ngài, chuẩn bị Giáo Hội cho ngày Quang Lâm vinh hiển.
Trong ngày lễ các vị thánh và các thánh tử vì đạo, chúng ta
mừng những con người thiêng liêng của Giáo Hội và Thánh Thần là Đấng làm cho họ
trở nên thánh thiện, giống hình ảnh của Con Một yêu dấu là Trưởng Tử của Thiên
Chúa. Mỗi lễ của Đức Mẹ, chúng ta cũng mừng Đấng Chí Thánh đã làm cho Mẹ trở
nên một thụ tạo hoàn toàn mới.
6. Trong các đoàn sủng và các thừa tác vụ xây
dựng Giáo Hội
Qua Phép rửa, Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên con cái
của Thiên Chúa, cộng đoàn huynh đệ, Giáo hội, thông phần cùng một tình yêu duy
nhất của Thiên Chúa. Mỗi người đều được mời gọi tái khám phá và sống ơn gọi
Phép rửa của chính mình và với những người thân cận trong cương vị làm con
Thiên Chúa. Mỗi người được mời gọi sống và cử hành các tương quan yêu thương
đối với nhau mà chính Chúa Kitô đã có đối với chúng ta; được mời gọi trở nên,
đối với nhau, những người mang đến tình yêu của Thiên Chúa bằng cách chia sẻ
cho nhau những của cải thiêng liêng,vật chất và văn hóa.
Chính Ngài là Đấng ban phát các hồng ân khác nhau, các đoàn
sủng và các thừa tác vụ, để xây dựng Giáo Hội. Chính Ngài hướng dẫn Giáo Hội
hoàn thành sứ mạng.
Chúng ta được mời gọi nhận biết và cử hành các hồng ân khác
biệt, các đoàn sủng và các thừa tác vụ diễn tả ân sủng muôn hình vạn trạng của
Thánh Thần phục vụ cho sự duy nhất của Chúa Kitô (Ep 4,1-16). Đời sống trong
Thánh Thần là chân thật, khi mỗi người và mọi người yêu thương nhau và khuyến
khích vừa sự đa dạng, vừa sự duy nhất. Giáo Hội phải là một cộng đồng hiệp
thông, chia sẻ cùng một sự sống, trong tình yêu và chân lý (GH 7).
7. Các dấu chỉ và đời sống tông đồ truyền giáo
Giáo Hội được sai đến với thế giới bởi Chúa Kitô và trong
Chúa Thánh Thần. Giáo Hội không là mục đích cho chính mình, mà phải phục vụ
Nước Thiên Chúa và sự lan rộng của vương quốc ấy trong thế giới. Giáo Hội được
mời gọi làm sống lại sự dấn thân tông đồ truyền giáo bắt đầu từ biến cố Ngũ
Tuần.
8. Trong chứng từ của các thánh và các vị tử vì đạo, nơi
Thánh Thần biểu lộ sự thánh thiện và tiếp tục công việc cứu độ của Ngài.
Trải dài trong lịch sử, các thánh nói với chúng ta rằng sự
thánh thiện không phải là một sự kiện riêng tư, nhưng là một sự kiện Giáo Hội :
trong thời đại của các ngài, các ngài là những dấu chỉ và dụng cụ cho sự thánh
thiện của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Sự thánh thiện được sống như một lời mời
gọi, như chân trời hoàn thiện và như hành trình hiệp thông Giáo Hội.
Đời sống trong Thánh Thần (cá nhân và cộng đoàn), là linh
đạo riêng của Giáo Hội hiệp thông, là cách sống và hoạt động mục vụ. Đó là linh
đạo đòi sự khổ chế cộng đồng, sự dấn thân cộng tác vào công việc cứu độ phổ
quát và duy nhất của Thiên Chúa nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần.
Bài 9
CHÚA THÁNH THẦN
VÀ NGÔI LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO
HỘI
LỜI MỞ
Tôi xin mở đầu bài thuyết trình bằng những tâm tình này:
tôi đến từ Việt Nam, một xứ sở xa xôi với anh chị em ở đây về mặt địa lý, nhưng
một chuyến bay khá dài đã đưa tôi đến gần với anh chị em; tôi rất hân hạnh được
hiện diện ở đây với anh chị em tại Hội nghị này; và giờ đây tôi cảm nhận thực
sự gần gũi với anh chị em về mặt tâm linh. Cám ơn Chúa vì hoàn cảnh xa mà gần
này. Cám ơn vì sự hiện diện của anh chị em ở đây, và cám ơn vì anh chị em đã
tạo cơ hội cho tôi được hiện diện với anh chị em.
Như chuyến bay dài đã đưa tôi đến gần với anh chị em, tôi
muốn gần gũi với anh chị em hơn nữa trong đời sống đức tin bằng một nhịp cầu là
chính nội dung bài thuyết trình của tôi, "CHÚA THÁNH THẦN VÀ NGÔI LỜI
TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO", để nối kết những suy tư, những thao thức, những
kiếm tìm, những xây đắp, những sẻ chia, những chứng tá về niềm tin công giáo
của chúng ta giữa lòng xã hội hôm nay.
Với nhịp cầu này, chúng ta cùng đi bằng những bước sau đây:
trước hết chúng ta cùng nhau xác tín lại sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì
theo các sách Phúc Âm (A); kế đến, chúng ta tìm hiểu vai trò của Chúa Kitô và
Chúa Thánh Thần trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh (B); và sau cùng chúng ta
cùng nhau khám phá những nẻo đường của Lời Chúa, qua đó chúng ta thực thi sứ vụ
truyền giáo (C).
A. SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO LÀ GÌ ?
Để có thể trả lời câu hỏi này cho đúng và đầy đủ, chúng ta
phải dựa vào các tác giả Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng. Mỗi tác giả Tin
Mừng đều có quan điểm riêng, nhưng các quan điểm ấy bổ túc cho nhau, cho ta một
cái nhìn đa dạng và phong phú về việc truyền giáo.
Trước hết đối với thánh Marcô, sứ vụ truyền giáo là sứ vụ
rao giảng Tin Mừng (Mc 16,15), loan báo Chúa Kitô, làm cho mọi người nhận biết
Đức Giêsu là Đấng Kitô (Mc 8,29), nhận biết Đức Giêsu chịu đóng đinh là Con
Thiên Chúa (Mc 15,39).
Đối với thánh Matthêu, truyền giáo là thiết lập và xây dựng
Hội Thánh Chúa Kitô, làm cho nhiều người trở nên môn đệ Chúa Kitô (Mt 28,19-20;
16,18): việc rao giảng Tin Mừng được bổ túc bằng huấn giáo và cử hành Bí tích.
Trong các tác phẩm của thánh Luca, sứ vụ truyền giáo được
coi như một chứng tá (Lc 24,48; Cv 1,8), đặc biệt là về sự Phục Sinh của Đức
Kitô (Cv 1,22). Tác giả nhấn mạnh "sức biến đổi của Tin Mừng Phục
Sinh", ngài kêu gọi hoán cải để được cứu thoát khỏi tội lỗi và sự dữ.
Tin Mừng theo thánh Gioan thì nhấn mạnh việc tiếp nối sứ vụ
của Đức Kitô: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em"
(Ga 20,21). Sứ vụ của các Tông Đồ xây dựng trên sứ vụ của Đức Kitô, và lấy sứ
vụ của Đức Kitô làm mẫu mực: "Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con
cũng sai họ đến thế gian" (Ga 17,18).
Mục tiêu của sứ vụ truyền giáo là làm cho nhân loại có được
sự sống đời đời: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy
nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô" (Ga
17,3). Nhân loại được mời gọi hiệp thông với tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa
Con. Chính vì thế, công việc đầu tiên của truyền giáo là sống yêu thương và
hiệp nhất: "Để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta. Như vậy thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai
Con" (Ga 17,21).
Như vậy người tông đồ truyền giáo trước hết bằng tình yêu
và cuộc sống, rồi mới bằng lời nói và việc làm.
B. CHÚA KITÔ VÀ CHÚA THÁNH THẦN TRONG SỨ VỤ
TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI THÁNH
1. Loan báo Chúa Kitô
Hội Thánh không ngừng loan báo Chúa Kitô. Sứ mạng của Hội
Thánh là làm cho nhân loại nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên
Chúa Hằng Sống. Việc loan báo Chúa Kitô không là công việc thuộc lãnh vực tự
nhiên, mà là một công việc siêu nhiên, là công việc của Chúa Thánh Thần. Chính
Chúa Thánh Thần chủ động loan báo cùng với Hội Thánh và qua Hội Thánh. Hội
Thánh không ngừng công bố Tin Mừng Phục Sinh, không phải với sự hùng biện của
khoa ngôn ngữ hay sự khôn ngoan theo kiểu thế gian, nhưng với sức mạnh và khả
năng thuyết phục của Thánh Thần: Thánh Thần tác động trên những người loan báo,
đồng thời tác động trên những người nghe (Cv 2,37).
2. Xây dựng Hội Thánh
Truyền giáo là ra đi, thâu nạp môn đồ về cho Chúa Kitô, làm
cho nhiều người gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, xây dựng Cộng
Đồng, Nhiệm Thể Chúa Kitô, xây dựng Hội Thánh trên đá tảng Phêrô, trên nền móng
các "Tông Đồ".
Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh, nhưng Hội Thánh được xây
dựng nhờ Chúa Thánh Thần. Hội Thánh sống bằng sự sống của Chúa Kitô, cũng chính
là Thần Khí của Chúa Phục Sinh. Thần Khí ấy được ban qua các Bí tích, đặc biệt
là Bí tích Rửa Tội và Thánh Thể.
Việc xây dựng Hội Thánh còn được thực hiện bằng việc huấn
giáo, dạy dỗ để đức tin và đời sống đạo của Kitô hữu ngày một sâu sắc hơn.
Truyền giáo là dạy sống Tin Mừng (Mt 28,20). Tất cả những điều này, chỉ thực
hiện được cùng với Thánh Thần và trong Thánh Thần. Thánh Thần là ánh sáng chiếu
soi tâm hồn Kitô hữu, để Kitô hữu mỗi ngày thêm hiểu Chúa Kitô, sống theo giáo
huấn Chúa Kitô.
3. Làm chứng cho Chúa Kitô chịu Khổ nạn và Phục
Sinh
Truyền giáo là "thông truyền", là chia sẻ cho
người khác kinh nghiệm của mình về Đức Giêsu Kitô: kinh nghiệm tiếp xúc với
Chúa, kinh nghiệm về tương quan giữa mình với Chúa, kinh nghiệm về hạnh phúc,
về sự sống đã nhận lãnh từ Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Sự sống và tình yêu mà ta
nhận lãnh từ Đức Kitô Phục Sinh chính là Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh.
Chính vì thế, truyền giáo là chia sẻ kinh nghiệm về Thánh Thần, chia sẻ kinh
nghiệm thiêng liêng.
Kinh nghiệm này có thể là kinh nghiệm cá nhân, hay là kinh
nghiệm tập thể. Kinh nghiệm cá nhân thường rất giới hạn, nên mỗi người chúng ta
nên đưa các dự tòng, tân tòng đến với các Kitô hữu khác, đưa họ vào cộng đồng
Hội Thánh, để họ được chia sẻ kho tàng mà Chúa ban cho Hội Thánh (Cv 2, 46-47).
Chứng tá đời sống thường đi đôi với tác động biến đổi của
Chúa Thánh Thần.
4. Tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô
Chúng ta loan báo Chúa Kitô, đi thâu nạp môn đồ cho Chúa,
chia sẻ sự sống của Chúa cho người khác, không phải do tùy hứng; nhưng đó là
một sứ vụ có gốc rễ sâu xa trong lòng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như Chúa Cha đã sai Chúa Kitô, Chúa Kitô sai chúng ta, vừa
để tiếp nối sứ mạng của Chúa (mạc khải tình yêu của Chúa Cha) vừa để cho nhân
loại nhận ra sứ mạng của Chúa, nhận biết Người là Đấng được Chúa Cha sai đến.
Chúng ta chỉ có thể tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, khi
chúng ta hiểu Chúa và yêu Chúa. Chúng ta chỉ có thể hiểu và yêu Chúa nhờ Thánh
Thần của Chúa.
Điều sâu thẳm nhất, quan trọng nhất nơi Chúa Cha, cũng như
nơi Chúa Kitô là tình yêu hiệp thông giữa các Ngài, là sự Duy Nhất giữa các
Ngài. Đức Giêsu muốn cho nhân loại nhận ra sự duy nhất giữa Người và Chúa Cha,
nhận ra Người bởi Cha, nhờ đó, được thông phần tình yêu hiệp thông, cũng chính
là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chính sự hiệp thông giữa các môn đệ của Chúa là dấu chỉ để
cho nhân loại nhận ra sự Hiệp Thông giữa Người với Chúa Cha. Kitô hữu không
những truyền giáo bằng lời nói và việc làm, mà còn truyền giáo bằng cuộc sống,
bằng tình yêu hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần chính là tình yêu hiệp thông trong lòng
Thiên Chúa Ba Ngôi. Có Chúa Thánh Thần chúng ta có tình yêu hiệp thông ấy. Chúa
Thánh Thần nối kết chúng ta, làm cho chúng ta nên một với Chúa Kitô và nên một
với nhau.
C. SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI THÁNH VÀ NHỮNG NẺO
ĐƯỜNG CỦA LỜI CHÚA
Chúa Giêsu, khi còn tại thế, đã rời bỏ gia đình, bước đi
trên nhiều nẻo đường, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, gieo hạt giống Lời
Chúa khắp nơi. Trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài đã trao sứ vụ cho các Thánh
Tông Đồ: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ."
(Mt 28,19).
Ngày hôm nay, ngoài thành ngữ "cánh đồng truyền giáo
mênh mông", chúng ta còn có một cách nói khác rất cụ thể và dễ hiểu để nói
về sứ vụ loan báo Tin mừng, đó là thành ngữ "những nẻo đường của Thiên
Chúa". Nếu đường đời muôn vạn nẻo, thì Lời Chúa phải được gieo vãi trên
vạn nẻo đường, vì chính Chúa đã "vào đời".
Các thứ "đường đi" trong thời đại
chúng ta
Thời đại của chúng ta có nhiều "đường đi" hơn
trước, và có cả một mạng lưới truyền thông bao trùm hoàn vũ (internet). Chúng
ta có thể gieo vãi Lời bất cứ ở đâu, bất cứ dưới hình thức nào. Mảnh đất loài
người rồi cũng có cơ may đón nhận. Đừng ái ngại, chần chờ, nhưng hãy mạnh dạn
làm bất cứ điều có thể làm được để gieo hạt giống Lời Chúa. Mọi nẻo đường của
nhân loại đều cần ánh sáng của Lời Chúa. Những con đường càng tăm tối càng cần
nhiều ánh sáng hơn.
Có những con đường không ai muốn đi, đó là những con đường
đau khổ, bất hạnh, bị bỏ rơi, bị cô đơn, con đường của sự chết, con đường có vẻ
như "vắng bóng" Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa như hoàn toàn im lặng,
không lên tiếng. Chúng ta không được quên những con đường ấy, nhưng cứ hãy dọn
những con đường ấy cho Chúa Giêsu, vì Chúa đến trần gian để cứu chuộc những gì
đã hư mất.
Ngày hôm nay, lời mời gọi loan báo Tin mừng Chúa Giêsu tỏ
ra cấp bách hơn bao giờ hết. Hơn bao giờ hết nhân loại ngày hôm nay đang cần
ánh sáng của Chúa, vì họ không thấy hướng đi. Nhiều cá nhân, tập thể, nhiều dân
tộc, nhiều nền văn minh đang mất hướng. Ngày hôm nay hơn bao giờ hết Hội Thánh
có cơ may thực hiện điều Chúa Giêsu đã yêu cầu: "Điều Thầy nói với anh em
lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy
lên mái nhà rao giảng" (Mt 10,27).
Người gieo giống phải không ngừng khám phá những con đường
mới, kể cả những con đường sỏi đá, gai góc. Lời Chúa đi qua những con đường ấy
để đốt cháy những bụi gai, vạch trần các tội ác. Nhưng quan trọng hơn, Lời Chúa
mở ra những con đường hy vọng, để loan báo Tin mừng hy vọng cho đến tận cùng
trái đất (Lc 4,18-19).
Hãy mang chứng tá Kitô giáo đi khắp nơi: chứng tá về vương
quốc tình yêu và chân lý, chứng tá về ân sủng và sự thánh thiện, về sự sống
viên mãn, về công lý và hoà bình.
Con đường của Cái Đẹp
Ngày hôm nay, con đường của "Cái Đẹp" (via
pulchritudinis) là một con đường rất quan trọng. Thế giới của chúng ta hôm nay
là một thế giới yêu chuộng nghệ thuật. Các nghệ sĩ là những con người có sức
tác động trên tâm hồn người khác nhiều hơn cả. Trong một thế giới còn nhiều
điều man rợ và xấu xa do tội ác của con người và xã hội, nhiều người khao khát
cái đẹp, không chỉ về thể lý, mà cả về tâm linh.
Người Kitô hữu hãy hãnh diện về cái đẹp của Mạc khải, của
Tin Mừng mà Hội Thánh chuyển tải. Đừng vì bất cứ thứ mặc cảm nào mà làm hỏng
"gia sản Lời Chúa" đã được chuyển giao cho chúng ta trải qua bao
nhiêu thế hệ.
Hãy làm cho các nghệ sĩ biết Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa,
gợi hứng từ Lời Chúa. Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, trong thư gởi cho các nghệ
sĩ năm 1999, đã nhắc lại thành ngữ của thi hào người Pháp Paul Claudel
"Kinh Thánh là một ngữ vựng mênh mông" (vocabulaire immense), và của
hoạ sĩ Chagall "Kinh Thánh là một bản đồ các ảnh tượng" (atlas
iconographique) (THĐGMTG 12, số 15).
Con đường của Công nghệ thông tin
Ngày 23 tháng 1 năm 2009, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã
mời gọi giới trẻ công giáo đem đức tin vào thế giới "tin học", vì họ
hầu như "rất mau lẹ và dễ dàng" sử dụng các phương tiện truyền thông
mới. Chủ đề của sứ điệp Đức Thánh cha gởi cho ngày truyền thông thế giới là:
"Kỹ thuật mới, tương quan mới. Cổ võ cho một nền văn hoá tôn kính, đối
thoại và bằng hữu".
Đức Thánh Cha mời gọi: "Tôi xin anh chị em hãy đem vào
nền văn hoá của môi trường truyền thông và kỹ thuật thông tin các giá trị mà
trên đó anh chị em xây dựng đời sống"... "giới trẻ cần phải lãnh
trách nhiệm phúc âm hoá trong "lục địa kỹ thuật số này"... Xin hãy
hăng say loan báo Tin Mừng cho những người đồng thời".
Đức Thánh cha nói đến "một thế giới nối kết" nhờ mạng
lưới truyền thông hôm nay. Rất nhiều người được hưởng lợi ích do nền văn hoá
truyền thông hôm nay. Các gia đình có thể liên lạc với nhau qua những khoảng
cách thật xa. Các sinh viên và các nhà khảo cứu có thể tìm tài liệu, các nguồn
dữ liệu và các khám phá khoa học cách nhanh chóng và dễ dàng. Do đó họ có thể
cộng tác với nhau từ các địa điểm khác nhau.
Quả đây là một dấu chỉ của thời đại: dấu chỉ Chúa kêu gọi
chúng ta nỗ lực tối đa để gieo hạt giống Tin Mừng Tình yêu nối kết mọi người
nên một như "Chúa Cha và Chúa Con là Một". Chúng ta được kêu gọi
"tạo nên tình thân hữu khắp nơi, không những trên mạng và qua mạng
internet, mà ngay cả trong cuộc sống thực tế hằng ngày. Sự ích kỷ đã lỗi thời
trong thế giới hôm nay.
Nếu trong hai phần ba thế kỷ trước, Hội Thánh không thể nào
có đủ phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng cho cả thế giới, vì các
phương tiện truyền thông nằm trong tay Nhà Nước hay các tập đoàn tư bản giàu
có, thì ngày hôm nay, mọi người đều có cơ hội ngang nhau để loan báo điều mình muốn.
Hội Thánh đã có cơ may để "rao giảng trên mái nhà" những gì Chúa
Giêsu đã nói với các môn đệ.
Con đường của Gia đình
Còn một con đường rất gần gũi với chúng ta, con đường trên
đó ta đang đi, con đường hiện nay vẫn còn bao quanh ta, con đường mà Chúa Giêsu
thích sử dụng, vì nó rất thân thương với Người, con đường Người đã trải qua lúc
còn tại thế, đã đi hơn 30 năm, đó là con đường gia đình. Vì con đường đó là môi
trường quá gần gũi, quá gắn liền với ta, nên nhiều khi ta không còn ý thức rằng
đó cũng là nẻo đường quan trọng nhất cần nhận lãnh các hạt giống Tin Mừng.
Thượng hội đồng Giám mục thế giới lần thứ 12 nhắc chúng ta
lưu tâm cách dặc biệt tới gia đình: "Gia đình phải đề ra những hình thức
và kiểu mẫu giáo dục cầu nguyện, huấn giáo, học hỏi sử dụng Kinh Thánh, để các
thanh niên, thiếu nữ, người già và trẻ em (Tv 148,12) lắng nghe, hiểu, chúc
tụng và sống Lời Chúa." (Sứ điệp THĐGMTG 12, số 11).
Nền văn minh thiên về duy vật và hưởng thụ của thế giới hôm
nay đang làm lung lay tận gốc rễ các giá trị truyền thống của gia đình Việt
nam. Thư mục vụ của HĐGMVN năm 2008 về Giáo dục gia đình đã có nhận định như
sau: "Xã hội Việt nam nói riêng và thế giới nói chung đang chuyển mình
cách mạnh mẽ với những thay đổi tích cực nhưng cũng với những mất mát to lớn,
trong đó đáng kể nhất là những giá trị cơ bản liên quan đến sự bền vững của hôn
nhân gia đình và tình liên đới giữa các thành viên" (x. Thư mục vụ số 9).
Các gia đình Việt
Con đường của Đối thoại Tôn giáo
Trong một thế giới mà sự giao lưu giữa các nền văn hoá và
các tôn giáo trở thành sự kiện phổ quát và bình thường, chúng ta không thể nào
bỏ qua con đường đối thoại với các tôn giáo. Sứ điệp THĐGMTG 12 nhắc nhở chúng
ta: "Cả các Kitô hữu chúng ta, dọc theo những con đường của thế giới, cũng
được mời gọi đi vào cuộc đối thoại, trong sự kính trọng, với các thiện nam tín
nữ các tôn giáo khác mà không rơi vào lập trường pha trộn các tôn giáo và làm
suy giảm căn tính thiêng liêng của mình" (ib. số 14).
Thế giới hôm nay vẫn còn rất nhiều ngộ nhận giữa các tôn
giáo. Nhiều nơi sự ngộ nhận đã đưa tới những xung đột đẫm máu, nhất là khi có
những thế lực chính trị lợi dụng, nhằm phục vụ cho những ý đồ chính trị phe
phái của mình. Vì Tin Mừng Tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta đừng ngại mở ra
những con đường đối thoại. Đối thoại sẽ đưa đến sự gặp gỡ nhau trong tình yêu
và chân lý. Đối thoại là điều vô cùng cần thiết, và không thể thiếu, là con
đường của hy vọng, vì đối thoại là "khai thông", là "mở
ra", không bao giờ khép lại. Đó là con đường tốt nhất để gieo hạt giống
Lời Chúa.
Sứ điệp của THĐGMTG 12 có những dòng rất tích cực về các
tôn giáo: "Kitô hữu cũng tìm thấy một hoà điệu chung với nhiều truyền
thống tôn giáo vĩ đại của Phương Đông. Các trước tác thánh của họ dạy ta biết
kính trọng sự sống, biết chiêm niệm, biết giữ thinh lặng, biết sống đơn giản,
biết từ bỏ mình, như Phật giáo chẳng hạn" (số 15).
Vấn đề đối thoại với các tôn giáo, tuy là một vấn đề rất
quan trọng, đã bị nhiều người hiểu sai, và do đó làm chùn bước các sứ giả Tin
Mừng. Điều này bó buộc Hội Thánh phải lên tiếng khẳng định lại cách mạnh mẽ và
xác quyết sứ mạng loan báo Tin mừng Chúa Kitô của Hội Thánh và của mỗi người
Kitô hữu. Đối thoại và loan báo Tin Mừng không đi ngược chiều. Đối thoại là con
đường của tình yêu và chân lý, mà loan báo Tin Mừng là gieo hạt giống của Lời
tình yêu và chân lý.
Con đường chính trị và kinh tế
Hội Thánh còn được mời gọi gieo hạt giống Tin Mừng vào
trong các lãnh vực chính trị và kinh tế. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay
là hậu quả của những hoạt động kinh tế không lành mạnh, vì không nhằm mục đích
phục vụ và xây dựng lợi ích chung của xã hội loài người, nhưng chỉ vì lợi ích trước
mắt của một số cá nhân muốn làm giàu bằng mọi giá.
Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, cần phải có một nền đạo đức
học trong kinh tế. Nền đạo đức học này không phải là một mớ lý thuyết trên mây
trên gió, xa rời thực tại, nhưng góp phần định hướng nền chính trị và kinh tế
nhằm đúng mục tiêu là phục vụ hạnh phúc của con người. Theo thiển ý của tôi,
đạo đức của con người góp phần rất lớn làm cho nền kinh tế phát triển vững
chắc, vì được xây dựng trên nền tảng là tình yêu và chân lý.
Những ảo ảnh trong kinh tế trước sau gì rồi cũng sụp đổ, và
bấy giờ sẽ gây thiệt hại cho rất nhiều người. Việc tạo ra những giá ảo trong
thị trường, vì mục đích lợi nhuận cá nhân, là một loại tội ác tương đương với
ăn cướp và giết người. Quan niệm khá phổ biến trước đây trên khắp thế giới
"thương trường là chiến trường", là một quan niệm phi đạo đức, và
ngày hôm nay đã tỏ ra lỗi thời.
Trái lại, thời đại ngày nay là thời đại của "liên đới
trong kinh doanh", liên đới trong phát triển. Độc quyền kinh tế cách tuyệt
đối sẽ dẫn tới suy sụp, khi không còn ai có khả năng mua các sản phẩm của mình
nữa. Ngày nay, thường là khi một quốc gia giàu lên, thì các quốc gia khác được
nhờ. Một quốc gia suy sụp, có thể kéo theo sự suy sụp của nhiều quốc gia khác.
Hiện nay, học thuyết xã hội công giáo tỏ ra rất ích lợi, góp phần cho việc định
hướng chính trị và kinh tế.
Con đường của môi trường sinh thái
Môi trường sinh thái trong thế giới hôm nay cũng rất cần
hạt giống Tin Mừng, để được tôn trọng và bảo vệ. Vạn vật đều được Thiên Chúa
sáng tạo nhờ Lời và trong Lời, vì thế đều có tiếng nói. Tiếng nói đó yêu cầu
chúng ta, không được vì lợi nhuận trước mắt mà huỷ hoại môi sinh, làm cho nhân
loại không còn môi trường sống lành mạnh nữa. Cái đẹp của thiên nhiên vẫn là
một nguồn hứng bất tận cho các sinh hoạt của con người, kể cả sinh hoạt tâm
linh, làm cho con người có thể cất tiếng ca ngợi tình yêu vô bờ bến của Thiên
Chúa.
Đấu tranh cho một môi trường sạch đẹp, không những về
phương diện vật chất, mà cả về phương diện tâm linh là một ơn gọi rất hợp thời
cho mọi Kitô hữu, đặc biệt là những người trẻ. Đấu tranh chống văn hoá đồi
trụy, chống phim ảnh khiêu dâm là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chúng
ta. Nhiều người theo Hồi giáo sợ Kitô giáo lôi kéo họ vào một nền văn hoá xấu
xa bẩn thỉu phơi bầy những gì lẽ ra phải gìn giữ kín đáo. Họ cho rằng thế giới
Phương Tây mà họ đồng hoá với Kitô giáo không còn sự "bẽn lẽn" cần
thiết cho một môi trường xã hội lành mạnh.
Chân Thiện Mỹ vẫn là các giá trị nòng cốt cần thiết cho một
môi trường sạch đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần. Hạt giống Tin Mừng mà Hội
Thánh gieo vãi sẽ trổ sinh hoa trái Chân Thiện Mỹ trong lòng con người và trong
môi trường xã hội. Chính các hạt giống ấy sẽ làm sạch đẹp cho môi trường, sẽ tô
điểm cho môi trường trở thành một ngôi nhà tuyệt mỹ cho loài người được kêu gọi
trở nên gia đình Thiên Chúa tại trần gian.
Con đường của di dân
Hiện tượng Di Dân cũng là một sự kiện lớn trong thế giới
hôm nay. Khắp nơi đều có người di dân, đặc biệt là tại đất nước Hoa Kỳ hiếu
khách và tự do này, một đất nước được khai sinh từ nhiều dân tộc trên thế giới,
một nơi mà con cháu của những người di dân, dù phát xuất từ đâu, vẫn có thể đạt
tới vị trí quyền lực cao nhất.
Vì hoàn cảnh lịch sử, người Việt
Bất cứ ở đâu, anh chị em cũng được hưởng nhờ những thành
quả chung của xã hội tại đó, và vì thế anh chị em có nghĩa vụ góp phần xây dựng
xã hội và Hội Thánh nơi mình sống và sinh hoạt. Sự góp phần lớn nhất của một
Kitô hữu với quốc gia nơi mình được đón nhận là trở nên sứ giả Tin mừng Tình
yêu và Chân lý tại đó.
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nhân ngày thế giới
Di Dân năm 2009, đã xem Thánh Phaolô vừa như một "Di Dân", vừa là
"một Tông đồ của chư dân". Thánh Phaolô đã thực hiện một cách xuất
sắc sứ mạng rao giảng Tin Mừng và vai trò trung gian giữa các nền văn hóa với
Tin Mừng. Ngài quả thật là một mẫu mực tuyệt vời cho anh chị em là những người
di dân.
Các cá nhân cũng như cộng đoàn Kitô hữu Việt Nam hãy mặc
lấy cùng một lòng nhiệt thành tông đồ như thánh Phaolô, trong khi loan truyền
cho mọi người về tình yêu của Thiên Chúa (Rm 8,15-16; Gl 4,6), chinh phục nhiều
người hơn nữa cho Đức Kitô (1Cr 9,22). Hãy trở nên mọi sự cho mọi người, hầu có
thể bằng mọi cách cứu vớt được một số (x. ibid.). Hãy là "men trong
bột", hãy là "muối đất" cho môi trường anh chị em đang sống, cho
những nơi anh chị em đi đến.
LỜI KẾT
Sứ vụ rao giảng Tin Mừng, nói cách ngắn gọn, là
"truyền thông" Tin Mừng Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô cho con
người, là làm sao "nối kết" con người với Thiên Chúa, và chúng ta
thực hiện công việc đó trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Lời của thánh
Phaolô, vị sứ giả xuất sắc của việc loan báo Tin Mừng, vẫn hết sức thiết thực
cho thời đại chúng ta: "Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin?
Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao
giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Ấy vậy, có đức tin là
nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô" (Rm 10,14-17).
Với Bí tích Rửa tội đã lãnh nhận, tất cả chúng ta, giám
mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, đều thông phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng
Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô, trên những nẻo đường khác nhau của cuộc đời
mỗi người chúng ta. Điều cần thiết và quan trọng là làm sao cho Tin Mừng được
vang lên khắp nơi, đến tận cõi bí ẩn của tâm hồn mỗi kiếp người.
Như thế, công cuộc loan báo Tin Mừng Tình yêu và Chân lý
của Đức Kitô khởi sự trước hết nơi mỗi người chúng ta, nghĩa là sứ giả loan báo
Tin Mừng phải biết để cho con người và cuộc đời mình được Tin Mừng biến đổi
trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh của lời loan báo của chúng ta
chỉ có thể có được khi chúng ta biết để cho mình được loan báo bởi Lời. Chỉ
những ai được ban tặng một đức tin công giáo tinh tuyền, trưởng thành và thuyết
phục mới có nhiều cơ may dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng đích thực.
Chỉ những Kitô hữu biết chìm sâu trong mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và hạnh
phúc trong hành trình đức tin của cuộc đời mình giữa lòng Hội Thánh mới có
nhiều cơ may dấn thân hiệu quả và không cực đoan trong công cuộc loan báo Tin
Mừng. Và như thế, chỉ những sứ giả biết say mê tình Chúa và thấm đẫm tình người
mới có khả năng "nối kết" con người với Thiên Chúa.
+ Phaolô Bùi Văn Đọc
Giám mục Giáo phận Mỹ Tho
Chủ tịch Uỷ ban Giáo lý Đức tin của HĐGMVN