II. THÁI ĐỘ DUY KHOA
HỌC VÀ NIỀM TIN
Bạn thân mến,
Có nhiều người đồng ý rằng tôn giáo không có gì ngược với khoa
học. Nhưng họ lại bảo chỉ có khoa học mới có giá trị về phương diện trí thức
cũng như về phương diện hành động. Còn tín ngưỡng chỉ là một não trạng lạc hậu,
nếu không hẳn là mê tín dị đoan, thì cũng chỉ là một cách giải thích mơ hồ về
những điều mà ánh sáng khoa học chưa soi dọi tới, nhưng rồi nay mai khi khoa học
tiến bộ, sẽ được khoa học giải đáp thôi!
Hơn nữa tôn giáo cũng chỉ là thuốc phiện thoa dịu đau khổ tất
nhiên của cuộc sống dành cho những tâm hồn uỷ mị tìm cách trốn chạy những đau
khổ phải có ở đời. Còn những tâm hồn sáng suốt và dũng cảm thì chỉ bằng lòng
với ánh sáng của khoa học trong nhận thức và với hiệu năng của kỹ thuật trong
đời sống hành động chứ không chạy trốn vào một thế giới huyền ảo nào cả. Họ cho
thế giới của tín ngưỡng là thế giới của uỷ mị vẩn vơ, nếu không thần thoại thì
cũng chỉ là huyền thoại! Thường thường những người này cũng có một thái độ
tương tự đối với triết học và nhất là đối với siêu hình học.
Thiết tưởng không ai phủ nhận khoa học đã đem lại cho nhân loại
nhiều kiến thức về ngoại giới (một em bé lên sáu ngày nay biết rất nhiều về vũ
trụ mà Platon hay Lão Tử hay các tiên tri Do Thái không biết) và đã phục vụ con
người rất nhiều về cuộc sống vật chất cũng như văn hoá. Con người cũng tự hào
về ngành khoa học kỹ thuật và nên cố gắng tiến xa mãi trên con đường ấy. Tuy
nhiên tự hào khác với tự mãn! Và nhất là lại không nên tưởng rằng thái độ suy
tôn khoa học ấy là một thái độ của tinh thần khoa học. Vì vậy trước hết ta phải
ý thức:
Thái độ suy tôn khoa học, cho khoa học độc tôn, không phải là
hậu luận tất yếu của tinh thần khoa học, là chỉ là một thái độ triết lý của khoa
học, về tri thức luận, mà ta gọi là “duy khoa học”.
Tinh thần khoa học là một phương pháp sưu tầm, làm việc theo
những nguyên tắc của khoa học thực nghiệm, phát kiến sự kiện, thiết lập qui
luật, đề nghị học thuyết lý giải các sự kiện vật chất và văn hoá. Còn nói rằng
khoa học sẽ lý giải tất cả mọi vấn đề tri thức, sẽ giải quyết mọi vấn đề hành
động, là vượt ra ngoài phạm vi khoa học, gán cho khoa học một giá trị quá sức
mà khoa học (trong phạm vi của mình) không bao giờ vơ lấy cho mình cả. Quan niệm
duy khoa học ấy, dù là một khoa học gia nổi tiếng đề ra, cũng không dựa trên
nền tảng khoa học mà chỉ dựa hơi khoa học vì lúc ông ta tuyên bố như vậy, ông
ta không làm việc với những phương pháp khoa học mà làm việc với tư cách một
nhà lý luận học, một nhà triết học suy tư về triết lý khoa học, về tri thức luận.
Quả vậy, khoa học bao giờ cũng phải dựa vào sự kiện và kiểm
chứng: mà sự kiện thì chỉ cho ta thấy khoa học lý giải được NHIỀU sự vật chứ chưa
có sự kiện nào cho thấy và kiểm chứng rằng khoa học sẽ lý giải TẤT CẢ sự vật và
giải quyết TẤT CẢ mọi vấn đề. SẼ là một cái gì còn phải CHỜ được kiểm chứng mới
có giá trị khoa học. Nếu chưa thì có khác gì một niềm tin như sẽ thấy linh hồn
bất tử sau khi chết, sẽ thấy thiên đàng, hoả ngục sau ngày tận thế v.v… Với cái
SẼ, giả sử gì mà chẳng được.
Còn nếu khiêm tốn hơn, mà bảo rằng mình chỉ tin vào khoa học
và chỉ chờ vào ánh sáng hiệu năng của khoa học, thì cũng tốt thôi! Có điều chỉ
xin những người ấy hãy sáng suốt và liêm khiết trí tuệ nhận định rằng đó chỉ là
một thái độ có thể là rất đúng nhưng nếu đúng thì không phải vì như thế mới hợp
với tinh thần khoa học, vì tinh thần khoa học chỉ nằm trong phạm vi tìm kiếm lý
giải sự kiện chứ không lan sang vấn đề giá trị độc tôn của khoa học. Do đó rất
nhiều nhà khoa học trứ danh vẫn không tự mãn (tuy vẫn tự hào) với ánh sáng của
khoa học và hiệu năng của kỹ thuật mà còn có những suy nghĩ về tôn giáo mà
không thấy mình thiếu tinh thần khoa học.
Thực vậy, một khoa học gia sau khi ở phòng thí nghiệm ra, ý
thực được sự bất lực của khoa học về vấn đề sự khổ, sự dữ, sự chết, mà có nỗ lực
suy tư triết học hay đời sống tín ngưỡng để tìm ánh sáng soi rọi các vấn đề ấy,
không hề đi ngược với khoa học, vì tinh thần khoa học không ngăn cản mà cũng
chẳng khuyến khích ai suy tư triết học hay sinh hoạt tôn giáo, tương tự như
khoa học không cấm ai, cũng chẳng khuyên ai nghe nhạc, ngâm thơ hay… yêu đương
cả!
Thích suy tư triết học hay không? Thấy cần hay không? Đó là
một vấn đề sống, thuộc triết lý về nhân sinh quan chứ không thuộc về khoa học, không
hề hấn gì đến tinh thần khoa học cả!
Cầu nguyện để tìm sự kết hiệp giữa bản thân mình với Đấng Siêu
Việt. Điều đó không phản khoa học, chỉ khi nào cầu nguyện để xin Đấng Siêu Việt
làm giùm cho bài toán vật lý mới là phản tinh thần khoa học (mà cũng là ngược
với một đức tin trưởng thành, chính đáng nữa). Sau khi đã tìm hiểu vì sao các
chất hoá học hàm chứa trong các loại phân lại giúp cho cây hoa hồng trổ hoa thêm
thơm đẹp, suy tư thêm để tìm hiểu sự sống thực vật là gì; hoặc nhận thấy nơi
hương sắc của muôn loài như là “Vết chân” của Ngôi Hai Sáng Tạo in lên cây cỏ
theo cái nhìn của thánh Bonaventura, thánh Gioan Thánh Giá, rồi cất tiếng hát
bài ca Mặt Trời của thánh Phanxicô Khó Khăn để ngợi khen Thiên Chúa; hoặc một
nhà chính trị xã hội học sau khi đã nhờ ánh sáng của các khoa học lịch sử, kinh
tế xã hội để phân tích tình hình nào đó của thời thế hành động có hiệu năng hơn
về bình diện tự nhiên, vẫn có thể suy nghĩ về ý nghĩa của thế sự thăng trầm và
nếu có đi đến một sử quan như của Augustino, của Bossuet, của Daniélou, của
Maritain hay của Marx, của Tonby thì cũng là việc thuận tình hợp lý chứ không
có gì là trái với tinh thần khoa học cả. Thậm chí có đọc lời cầu nguyện theo
Kinh Hoà Bình (tục truyền của thánh Phanxicô) để xin Thiên Chúa ban cho mình
trở nên khí cụ hoà bình dưới sự thúc đẩy của Thần Linh Thánh Ái cũng không có
gì là trái với tinh thần khoa học cả. Hoặc có ca bài Quốc Tế Ca của đệ Tam Quốc
Tế hầu khích lệ tinh thần của mình cũng như các bạn đồng chí thì cũng vậy thôi.
Tất cả những thái độ ấy, có khác nhau là khác nhau ở niềm tin,
ở thái độ nhân sinh và vũ trụ quan, chứ không phải là một bên có tinh thần khoa
học, một bên không; vì tất cả những niềm tin, những nhân sinh quan khác nhau ấy
đều bắt nguồn từ một cái gì ở ngoài (hoặc ở trên) phạm vi khoa học thuần tuý.
Không phải vì tu sĩ Mendel hát những thánh vịnh ngợi khen các
kỳ công của Thiên Chúa trong tạo vật mà giá trị về thuyết di truyền của ông kém
giá trị hơn những quan niệm của Lyssenkô về vấn đề này. Không phải vì Daniel
Rops tin vào sự quan phòng trong các biến cố lịch sử, mà công trình khảo sát sử
học của ông kém phần giá trị hơn của H.Lefebre vì ông này ca bài Quốc tế. Không
phải vì Teilhard de Chardin tin rằng vạn vật đồng quy hướng thượng về chung
điểm omega mà giá trị khoa học cổ sinh vật học của ông kém giá trị. Vì sao? Vì
suy tư triết học hay niềm tin tôn giáo không phải là dấu chỉ một não trạng lạc
hậu mà ánh sáng của khoa học đủ sức để đẩy lui: quan niệm như vậy chỉ là thành
kiến tương tự như thuyết “tam trạng” của Auguste Comte.
Theo thuyết này thì trí não nhân loại qua ba giai đoạn, ba trạng
thái:
1. Thần thoại (mà Auguste Comte đã lầm đồng hoá
với tôn giáo. Trong một bài nói chuyện khác, chúng ta sẽ vạch rõ sự sai lầm
này);
2. Siêu hình;
3. Thực nghiệm.
Giai đoạn đầu, loài người có xu hướng lý giải sự vật bằng những
thần linh. Thí dụ: thần sấm, thần sét v.v…
Giai đoạn hai lý giải sự vật bằng những khái niệm trừu tượng.
Thí dụ: âm, dương, hàn, nhiệt v.v…
Và giai đoạn thứ ba lý giải sự kiện bằng qui luật hằng đều.
Theo Auguste Comte, hai giai đoạn đầu chỉ là thời ấu trĩ của trí tuệ, chỉ có giai
đoạn ba mới là trưởng thành, chính xác và đúng đắn.
Nếu theo quan niêm này thì một anh sinh viên năm thứ nhất khoa
học, có lập trường khoa học sẽ trưởng thành hơn Pascal, hơn Teilhard de Chardin,
hơn Mendel vì các ông ấy còn tin vào Thiên Chúa; hơn Bergson, hơn Merleau Ponty
vì hai ông này còn suy tư triết học.
Nhìn thoáng qua ta thấy thuyết của Auguste Comte có vẻ đúng,
vì quả thực đầu tiên con người có cái nhìn thần thoại về vũ trụ, rồi sang giai
đoạn thứ hai suy tư triết học chiếm ưu thế, và hiện nay thì khoa học thực nghiệm
có vị trí vô cùng quan trọng.
Nhưng phân tích kỹ càng và sâu xa ta sẽ thấy niềm tin tôn giáo,
suy tư triết học và khảo sát khoa học là đối tượng của ba xu hướng khác nhau
của tâm trí con người. Ba xu hướng ấy vận dụng trên ba bình diện khác nhau, và
có thể đồng thời hiện diên trong một thời đại và nơi một con người. Có lẽ lúc
đầu cả ba đều cùng hoạt động nhưng chưa ý thức được sự khác biệt về bình diện
nên tất cả được xếp chung một trật trong một hệ thống kiến thức duy nhất, rồi
dần dần với sự tiến bộ của kiến thức càng ngày người ta càng thấy rõ sự phân
hoá ra từng bình diện, chứ không có sự thay thế hay sự đẩy lùi của giai đoạn
sau xoá bỏ giai đoạn trước.
Khoa học thực nghiệm trong thời Thượng và Trung cổ quả có bị
kìm hãm trong những hệ thống nặng tính cách thần thoại hoặc siêu hình, nên ở giai
đoạn mới phát triển này cần phải đấu tranh để giành cho được sự độc lập của
mình. Nhưng thái độ duy khoa học là thái độ bành trướng bá quyền; sau khi giành
được độc lập chủ quyền lại muốn lấn át địa hạt của triết học và tín ngưỡng.
Xét cho cùng, các nhà duy khoa học có thể bị kết tội tương tự
như những nhà duy thần học hay duy siêu hình thời trước, nghĩa là những người
có cái não trạng “duy” muốn ngành của mình lên nắm quyền “bá chủ” mọi sinh hoạt
con người. Và nếu như vậy thì thật ra đó cũng chỉ là một não trạng “trung cổ”
(tuy là đảo ngược) chứ đâu có tiến bộ gì! Có lẽ chính vì thế mà phần đông các
khoa học gia thứ thiệt không có thái độ duy khoa học, trái lại họ rất khiêm
tốn, rất liêm khiết trí thức, không miệt thị siêu hình và tôn giáo, cũng không
cậy dựa vào uy tín khoa học mà biện hộ cho triết thuyết hay tín ngưỡng của họ
nếu họ có suy tư triết học hay sinh hoạt tôn giáo.
Chúng ta đồng ý rằng khoa học là kiến thức có giá trị vững chắc
nhờ vậy mà đã đem lại những áp dụng có hiệu năng về kỹ thuật (lên cung trăng,
chữa bệnh nan y v.v…). Nhưng trên bình diện trí thức, khoa học sở dĩ được vững
chắc là nhờ đã TỰ HẠN CHẾ, TỰ GIỚI HẠN lãnh vực của mình chỉ khám phá một khía
cạnh của sự vật vô cùng phong phú huyền nhiệm mà thôi. Thí dụ: sở dĩ khoa quang
học vững chắc là nhờ đã tự hạn chế, gác một bên những gì là huyền nhiệm của
muôn màu muôn sắc.
Còn triết học siêu hình và tín ngưỡng, sở dĩ không vững chắc
bằng vì suy tư triết học đáp ứng nhu cầu muốn đào sâu tận căn nguyên cội rễ của
sự vật, muốn có cái nhìn tổng hợp toàn bộ, toàn diện của sự vật; vì tín ngưỡng
phải đáp ứng nhu cầu tìm ý nghĩa rốt cùng của nhân sinh và vũ trụ, và nhất là ý
nghĩa của cuộc đời con người cá nhân, cũng như cả và nhân loại qua thăng trầm
của thế sự cũng như qua vui buồn sướng khổ vinh nhục của con người có sinh bệnh
lão tử, nhưng có yêu đương hạnh phúc, có sa ngã lỗi lầm, nhưng cũng có hy sinh
tận tuỵ v.v…
Khoa học rất vững vàng, nhưng thái độ duy khoa học gần như một
sự lựa chọn dập tắt mọi thao thức về trí thức cũng như về cuộc sống của con người,
giản lược vào một bình diện duy nhất, là bình diện đối vật (objectal chứ không
phải là objet objectif khách quan) dồn nén mọi xu hướng mọi khao khát của con
người biết đưa mắt lên cao, đào sâu vào cái huyền nhiệm vô cùng của bất cứ sự
vật gì, dầu chỉ là hạt sương lấp lánh dưới ánh triều dương trên ngọn cỏ hèn mọn.
Nếu khoa học khám phá được bí mật của vũ trụ và của con người
về bình diện đối vật thì triết học và tín ngưỡng nâng cao, đưa xa tâm trí vào
cái huyền nhiệm của vạn vật và nhất là của con người có ngã vị, có ý thức, có
tự do của một chủ thể sống với những ngã vị, những chủ thể khác.
Thế kỷ XX có thể tự hào về tiến bộ khoa học và kỹ thuật nhưng
đã biết gì về vẻ đẹp của những đoá hoa, nắm được ý nghĩa gì trong một nụ cười,
trong một giọt lệ, trong một nghĩa cử cao đẹp, hay một hành vi tồi bại, trong
thế sự thăng trầm của hai cuộc thế chiến, trong cái lo âu khắc khoải của bao
nhiêu tâm trí từ những nhà lãnh đạo các quốc gia, các vị lãnh đạo tinh thần,
các nhà tư tưởng, bác học, văn hoá cho đến những bận rộn trong cuộc sống hàng
ngày của ngàn triệu sinh linh đang vật lộn kiếm miếng cơm manh áo, hay một chân
trời sống cho xứng với phẩm giá của một con người đồng loại với những kẻ đã
khám phá ra bí mật của vật chất cực vi cũng như cực đại, đơn chất cũng như phức
hợp (tế bào não).
Thái độ tự hào về trí năng của con người là một điều phải vì
đó là một yếu tố của ý thức nhân phẩm nơi mình và nơi kẻ khác, nhưng tự mãn tự
tôn và nhất là độc tôn, lại còn dựa vào “thành quả” của bao nỗ lực kiên trì, của
bao khoa học gia khiêm tốn liêm khiết, của bao lao công của các giới kỹ thuật
đủ mọi trình độ (từ kỹ sư cho đến công nhân lao động đơn giản) thì cần phải xét
lại, xem một thái độ như vậy có giá trị gì về khoa học cũng như về nhân sinh.
Ta có thể hỏi, tại sao với sự tiến bộ và thành công rực rỡ của
khoa học kỹ thuật, cuộc sống tinh thần và văn hoá của con người ở thế kỷ XX này
vẫn bị dằn vặt tuy đời sống vật chất có phát triển và đầy đủ tiện nghi hơn trước?
Chẳng phải vì đã giản lược kích thước con người “linh ư vạn vật” vào một chiều
kích của đối vật, đánh mất đi chiều kích ngã vị chủ thể của mình, của tha nhân,
và vì mãi chúi đầu chúi mũi vào bí mật của vạn vật mà quên đi huyền nhiệm của
sự hữu (Existence-Être) sao? Chẳng phải đó là điều mà triết gia Bergson nhắc
đến khi ông nói “nhân loại thế kỷ XX cần được bổ sung bằng một mảnh tâm hồn”
(un supplément d’âme) sao?
Vì vậy, ta có thể xét lại thuyết Tam trạng của Auguste Comte
mà suy nghĩ về vấn đề này: nếu thời cận và hiện đại có một sự phát triển về
kiến thức khoa học (thực nghiệm) kèm theo hiệu năng của kỹ thuật, thì chẳng phải
sự phát triển ấy đã đem lại một sự mất thăng bằng nào đó, một sự đui chột nào
đó về khía cạnh sâu xa huyền nhiệm của vũ trụ, của lòng người? Tiến bộ hay thoái
vị?!? Hay tiến mặt này phải trả giá bằng sự thụt lùi về mặt khác!? Nếu thế thì
vai trò của văn nhân, nghệ sĩ, triết gia và thiền sư, tu sĩ, đạo nhân có lẽ
không phải chỉ là những người ủy mị viễn vông, yếm thế, trốn đời, mà có lẽ… Chỉ
hỏi thôi, câu trả lời chúng ta hãy sáng suốt, can đảm vạch trần chân tướng của
chính bản thân của cuộc sống loài người với trăm nghìn vấn đề về mọi mặt và xin
mỗi người hãy tự tìm lấy cho mình.
Nhưng dầu có trả lời bằng cách nào thì cũng xin có đủ sáng suốt
và liêm khiết trí tuệ mà ý thức rằng đó là một cách nhìn, một cách lựa chọn
thái độ trước vũ trụ, trước cuộc đời. Ai cũng có quyền tự do cả, chỉ xin đừng
dựa hơi vào khoa học chẳng những không thêm vinh quang cho khoa học mà chỉ còn
làm cho kẻ thức giả mỉm cười! Mỉm cười vì suy cho cùng cũng chỉ là một lý thuyết
giới hạn trong phạm vi lý thuyết trừu tượng, tranh luận suông, chứ ai thì cũng
có một cuộc sống thực tế và đời sống ấy đòi hỏi ta phải đối diện với đời sống
vũ trụ bao la với tha nhân và với chính bản thân, phải giải quyết cho chính
mình, cho kẻ khác trăm ngàn vấn nạn về tri thức cũng như về hành động.
Nói cách khác, ai rồi cũng phải có một thái độ sống, phải đặt
cho đời mình cũng như toàn bộ vũ trụ nhân sinh một ý nghĩa nào đó (ngay những
kẻ chủ trương thuyết hư vô hay phi lý thì cũng đã gán cho mọi sự một ý nghĩa đó
là sự vô nghĩa của tất cả). Mà đã bước sang lãnh vực ý nghĩa của vũ trụ nhân
sinh thì còn đâu là thái độ duy khoa học nữa, vì đã suy tư triết học hay ít ra
cũng đã chọn lựa, dù là vô ý thức, một thái độ trước cuộc đời rồi; mà hễ nói
tới thái độ sống là đã vượt ra ngoài phạm vi phòng thí nghiệm khoa học rồi.
Trong căn bản, thái độ sống nào cũng được xây dựng trên cơ sở
của một niềm tin cả, chứ không phải chỉ riêng cuộc sống của các tín đồ tôn giáo
mới xây dựng trên niềm tin vì cuộc sống bao giờ cũng vượt quá tầm kiến thức
chính xác thực nghiệm cả. Bước lên chiếc phi cơ đã là bao hàm niềm tin phi cơ
không gãy cánh lưng trời rồi! Chỉ có khác nhau là tin vào cái gì, tin vào ai mà
thôi!
* * *
Những suy nghĩ trên đây có thể bị hiểu lầm là chúng ta đã nhân
danh đức tin để phủ nhận giá trị của lý trí và của khoa học. Vì vậy chúng ta
cần xác định rằng khoa học là một sản phẩm rất có giá trị của công lao tích luỹ
của bao nhiêu khối óc đã dày công tìm tòi nghiên cứu, và những áp dụng kỹ thuật
của khoa học đã biến đổi rất nhiều cuộc sống của con người trong môi trường
thiên nhiên và xã hội. Ta có thể tự hào về trí tuệ của nhân loại mà mượn lời
của Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng nên mỗi loài tạo vật mà nói rằng: “Và Thiên
Chúa thấy là tốt”, và ta cũng có thể cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho con người có
một khả năng cao quý như lý trí để khám phá những kỳ công của Ngài. Ta chỉ phê
phán thái độ triết lý “duy khoa học” và thái độ dựa hơi vào giá trị, vào uy tín
của khoa học để biện hộ cho một quan niệm triết học và một vấn đề thuộc luận lý
học, tri thức luận, tức là về vấn đề vị trí của khoa học trong toàn bộ tri thức
của con người. Và như vậy chính là ta bảo vệ giá trị đích thực của khoa học
bằng cách phân biệt chính nó với cái triết thuyết lợi dụng nó, xuyên tạc nó và
do đó ngược lại với nó, đó là triết thuyết duy khoa học.
Ngoài ra, không những nhờ vậy ta tránh được thái độ tự ti mặc
cảm trước thành quả của khoa học kỹ thuật hoặc thái độ lên án khoa học, mà trái
lại ta còn có thể có một cái nhìn tích cực hơn về mối tương quan giữa đức tin
Kitô giáo và khoa học.
Thực vậy, nhiều sử gia về tư tưởng chẳng hạn như nhà bác học
kiêm triết gia P.Duhem, đã đi đến nhận xét như sau: mặc dầu một vài sự kiện lịch
sử như vụ án Galilê, làm cho ta có cảm tưởng đức tin trái với sự tiến bộ khoa
học, nhưng nếu đào sâu suy kỹ thì thấy trong căn bản, chính môi trường văn hoá
Thiên Chúa giáo lại thuận lợi cho sự phát sinh ra tinh thần thực nghiệm của khoa
học vì lý do chính sau đây:
A/ Trong bài trước ta đã thấy nơi những trang đầu của Sáng Thế
Ký, vũ trụ vật chất được phi linh hoá. Chính nhờ vậy mà con người được giải thoát
khỏi thái độ “thần thoại” mà Auguste Comte đã phân tích: người Thiên Chúa giáo
từ xa xưa đã biết không có thần sấm, thần mưa v.v… đã biết trăng sao tinh tú,
cầm thú thảo mộc, tất cả chỉ là tạo vật, chỉ là sự vật được đặt dưới chân con
người để con người khai thác tìm hiểu, chứ không thờ lạy chúng. Người tín hữu
Thiên Chúa giáo từ xa xưa đã nhìn vũ trụ như một toà nhà do Cha mình tạo nên,
mình là con, mình có quyền, có khả năng lục lọi, khám phá, sử dụng, quản lý
trong khi các dân tộc khác vẫn còn đắm chìm trong bóng tối của thần thoại. Và
đó là mầm sống của khoa học kỹ thuật. Nên nhớ rằng người được xem như thuỷ tổ
của khoa học thực nghiệm là Roger Bacon, một tu sĩ dòng Phanxicô (con cháu của
vị thánh làm bài thơ ca ngợi anh mặt trời, chị nước, chị trăng, anh sao v.v…).
Suy cho kỹ ta sẽ thấy rằng con cháu của vị thánh đã ý thức được sâu xa về mầu
nhiệm của vũ trụ do Thiên Chúa sáng tạo (nên là anh em của con người) lại là
ông tổ của phương pháp khoa học thực nghiệm không phải là ngẫu nhiên, mà là
đúng như nhận xét của Duhem cái nhìn của Thiên Chúa giáo về vũ trụ vật chất như
là những sự vật thụ tạo đã giải thoát con người khỏi trạng thái thần thoại, là
điều kiện để khoa học có thể phát triển.
B/ Trong bài trước ta cũng đã lưu ý là giữa nỗ lực suy tư thần
học (khác với triết học duy tâm suy lý trừu tượng) với duy tâm khoa học thực
nghiệm có cái gì tương tự, đó là TÔN TRỌNG SỰ KIỆN, dù sự kiện ấy thế nào ta
cũng không phủ nhận cách tiên quyết. Trong Thánh Kinh Tân Ước ta thấy có hai người
có tinh thần rất gần với “trạng thái duy nghiệm” đã được Auguste Comte đề cao,
đó là thánh Tôma khi ngài nói: “Có được thọc tay vào các vết thương của Giêsu
mới tin Giêsu sống lại!” (xem Gioan 20,25). Có lẽ không có ai có tinh thần thực
nghiệm như vậy ở cái thế kỷ của ngài. Còn thánh Phêrô (ông già chài lưới vô học
chứ không phải nhà triết học hay thần học) thì tuyên bố: “Các ngài bảo tôi đừng
làm chứng về Giêsu Kitô làm sao được, vì tôi không thể phủ nhận những điều tôi
đã chứng kiến: tai nghe, mắt thấy, tay sờ” (xem TĐCV 2,32; 3,15; 4,17-20).
Nền tảng đức tin của chúng ta xây dựng trên sự kiện duy thực,
và cũng nên lưu ý rằng triết học của Giáo Hội có xu hướng duy thực theo truyền
thống của Aristote chứ không theo truyền thống duy ý (Idéalisme) của Platon. Vì
vậy đối với người Kitô giáo sự hiện hữu của vũ trụ vật chất là CÓ THẬT chứ
không phải chỉ là sự hình dung của tâm trí loài người hoặc tâm trí một đấng
thần linh siêu nghiệm nào cả! Cây thập giá, các đinh đóng vào tay, chân Chúa
Giêsu là CÓ THẬT, máu và mồ hôi, nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài là CÓ THẬT,
và thánh Gioan đã ghi chú rõ là người đã CHỨNG KIẾN THỰC SỰ mầu nhiệm cứu độ
trên đỉnh đồi Golgotha (xem Gioan 19,35) là một ngọn đồi có thật, dưới một thời
điểm có thật mà bất cứ nhà địa lý và sử học nào cũng có thể khảo sát và tìm
kiếm được.
Khởi đầu chương 2 Tin Mừng theo thánh Luca là một cách biên
niên của một tài liệu lịch sử. Còn sách Công Vụ Các Tông Đồ lại toàn là địa danh
với nhân danh sử học, mà khảo cứu thì tha hồ! Từ Phêrô giáo hoàng tiên khởi cho
đến Gioan Phaolô II, là một chuỗi dây nhân chứng liên tục tài liệu đầy đủ, ai
có thời giờ, có khoa sử học thì tha hồ mà khảo sát phê phán!
Và có thể nói, đại cương Thánh Kinh là một tài liệu lịch sử
ghi chép sự kiện Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người. Abraham, Moise, Đavít, –
Phêrô, Phaolô… Gioan Phaolô II đều bị Thiên Chúa gọi (như Ngài gọi Samuel vậy!)
và hầu hết đều sợ, đều có ý muốn thoái thác cả, chứ không phải là những nhà suy
tư, mơ mộng bóp đầu bóp trán nặn ra Thiên Chúa đâu! Vì vậy, có kẻ đã táo bạo nói:”Thiên
Chúa của Thánh Kinh là một sự thực hiện hữu, mà phần lớn chứng nhân đã đạp phải
như đạp phải cái đinh, nhiều khi muốn Ngài đừng có cho ổn, nhưng khốn nỗi Ngài
hiện hữu ‘thù lù’ như cái đinh muốn phủ nhận, muốn trốn cũng không được chứ đâu
phải là một ý tưởng, một phóng đại, một hình dung của tâm trí con người tạo ra!”
Quả vậy, những chân lý như Thiên Chúa Ba Ngôi, Giêsu phục sinh,
Mình và Máu trong bí tích Thánh Thể, Giáo Hội thừa biết là chỉ làm cho người ta
khó chấp nhận, bỏ đi e có lẽ sẽ có nhiều người theo đạo hơn, nhưng làm sao
được! Vì đó là sự kiện, đâu có phải do các Tông đồ suy tư tạo ra mà là do Phêrô,
Tôma v.v… đã CHỨNG KIẾN THỰC NGHIỆM giao cho Giáo Hội phải bảo tồn và lưu
truyền. Còn ai muốn nghĩ sao thì nghĩ: sự kiện là vậy đó! Hiểu sao đó thì cố
gắng mà tìm hiểu lấy: khoa học thực nghiệm cũng vận dụng tương tự như vậy. Và
nếu chúng ta đọc kỹ những lời tuyên bố của chính Chúa Giêsu thì cũng sẽ thấy một
tinh thần tương tự: Ngài cũng phải làm chứng về sự thật, về những điều mà Ngài
nhận từ Thiên Chúa Cha, chứ không phải tự chính mình Ngài suy tưởng, mơ mộng
viễn vông mà “DỰNG ĐỨNG” nên đâu! Và theo chân Chúa Giêsu, các thánh Tông đồ, các
vị tử đạo hay nói chung các kẻ LÀM CHỨNG về Thiên Chúa đều đi đến chỗ thà chết
chứ không thể nói ngược lại những điều mình đã nhận thức được và có nhiệm vụ
phải LÀM CHỨNG (làm chứng nhiều hơn là chứng minh một chân lý trừu tượng vì đây
là một sự kiện cụ thể. Về ý nghĩa của hai từ cụ thể và trừu tượng, xin xem phần
chú giải).
C/ Ngược lại, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nếu không rơi
vào cạm bẫy của thuyết duy khoa học cũng là một trong những điều kiện thuận lợi
để con người trưởng thành hơn trong tương quan với Thiên Chúa Cha cả về hai mặt
nhận thức cũng như hành động. Vì tự bản chất sự tiến bộ này vốn là điều tốt, nó
thể hiện cái sứ mạng mà Thiên Chúa Cha đã giao phó cho con cái của Ngài là được
vinh dự tự mình tiếp tục hoàn chỉnh sự nghiệp tạo dựng của Cha mình. Do đó với
viễn tượng này, ngay cả khẩu hiệu “Vắt đá thành nước, thay trời làm mưa” tuy
mặc hình thức vô thần và khá ngạo nghễ, nhưng nó vẫn có giá trị nói lên quyền
làm chủ thiên nhiên nằm trong cái sứ mạng mà Thiên Chúa đã giao phó cho con người
để tiếp tục hoàn chỉnh và cải biến vũ trụ vật chất này.
Qua Thánh Kinh, ta thấy rằng sự hiểu biết về Thiên Chúa và cách
đối xử của con người với Thiên Chúa Cha, cũng qua một quá trình từ ấu trĩ đơn
sơ đến trưởng thành chín chắn. Thí dụ từ quan niệm một Thiên Chúa quốc gia (Bien
National) đến một Thượng Đế phổ quát, một đời sống duy luật nhãn tiền đến một
đời sống đạo đức, nội tâm, có chiều hướng siêu nhiên, liên hệ đến đời sau v.v…
Ngay các Tông đồ cũng vậy, sống cận kề Chúa Giêsu đêm ngày,
mà mãi sau khi Chúa Giêsu về trời vẫn còn có phần nào ấu trĩ, phải đợi khi Thánh
Linh ngự xuống mới hiểu được nhiều điều mà trước đó vẫn chưa lãnh hội nổi. Giáo
Hội trong cuộc lữ thứ trần gian cũng có một sự tiến triển tương tự cho đến ngày
Chúa trở lại. Đức tin cũng cần phải chín muồi hơn, sâu sắc hơn.
Thí dụ trong thời kỳ khoa học và kỹ thuật chưa phát triển, khi
cầu nguyện phần “xin xỏ nhờ cậy” (khác với đức trông cậy) thường chiếm quá nhiều.
Nay khoa học kỹ thuật phát triển, có thể để chúng ta dễ ý thức được sâu xa hơn:
cầu nguyện chủ yếu là để con vâng ý Cha chứ khộng phải để Cha làm điều con muốn
và gương mẫu là lời cầu của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Chẳng như ý con,
một như ý Cha” (xem Mt 14,36; 26,39; Lc 22,42).
Nào có khác gì tương quan cha con ở trần gian, con càng lớn,
càng tự lập, đạo hiếu càng sâu hơn, vì không còn là để cậy nhờ vào cha mới hiếu
thảo với cha, mà trái lại sẽ phụng dưỡng cha với thái độ hiến dâng vô cùng!
Chẳng phải như vậy ý niệm Chúa quan phòng sẽ sâu sắc, phong
phú hơn là quan niệm một Ông Chúa Trời, cứ đợi người ta kêu cầu rát cả cổ mới chịu
chạy xuống tra tay can thiệp từng vụ một y như kiểu cửa quyền chờ người ta “năn
nỉ”, thậm chí phải “trà nước” mới giải quyết cho sao? Và đỉnh cao của cầu nguyện
chẳng phải là ở chỗ không “xin xỏ” mà còn đến chỗ quên mình, không ý thức rằng
mình cầu nguyện đó sao?
Một thí dụ khác: Khái niệm “mầu nhiệm” trong một nền văn minh
mà khoa học kỹ thuật tiến bộ, sẽ được hiểu sâu sắc hơn. Thực vậy, có thể vì
trình độ khoa học còn thấp mà “mầu nhiệm” đôi khi bị lẫn lộn với “bí mật” của
vũ trụ, và Thiên Chúa được xem như là đáp số chung cho những gì mà con người
chưa tìm hiểu được, hay nói cách khác, khi đó Thiên Chúa được xem y như là
thùng chứa “chỗ bí” của con người. Mầu nhiệm đâu phải như thế! Chẳng hạn ngay
khi khoa thực vật đã lý giải được sự sinh sôi nảy nở của một hạt giống thành
cây, đâm hoa kết quả (tức là tất cả bí mật của nó đã được khám phá) cái MẦU
NHIỆM CỦA SỰ HIỆN HỮU của một cánh hoa hé nở dưới ánh bình minh rung rinh điểm
giọt sương mai vẫn còn nguyên vẹn. Khoa sinh vật học đã khám phá bí mật của sự
thụ thai đẻ trứng, nở thành gà con, nhưng cái mầu nhiệm của một con gà mái ấp ủ
đàn con, can đảm xông lên chiến đấu chống lại quạ đen, vẫn còn y nguyên. Đó là
chưa nói đến tình mẫu tử nơi con người. Còn từ ngữ “mầu nhiệm” mà thánh Phaolô
dùng trong các thư của ngài thì lại càng không phải bí mật vũ trụ mà là chương
trình của tình yêu cứu chuộc.
Trong môi trường khoa học tiến bộ khái niệm “nguyên nhân” khi
chỉ về Thiên Chúa cũng được hiểu sâu hơn, vì nếu Thiên Chúa là nguyên nhân vạn
vật thí không phải là nguyên nhân theo kiểu cái trứng là nguyên nhân con gà,
rồi con gà lại là nguyên nhân cái trứng, – để bị dồn vào chỗ bí: Nguyên nhân
đầu tiên là gì? Thiên Chúa không phải là cái mốc đầu tiên của một chuỗi dây
xích theo chiều ngang, mà Ngài hiện diện nơi từng nguyên tử để giữ nguyên tử ấy
trong sự hiện hữu từng giây phút một hầu khỏi rơi vào hư vô.
Có thể có những chuyến bay vũ trụ giúp ta ý thức hơn từ ngữ
“trên trời”. Tuy rằng khi cầu nguyện ta vẫn ngước mắt trông lên, hoặc giơ hai tay
lên cao, nhưng nhà phi hành Nga đầu tiên đã nói cho chúng ta biết Chúa không có
ở trên trời cao; và có lẽ nhờ đó mà ta hiểu thấm thía câu nói của thánh
Augustinô: “Ngài ở sâu thẳm trong tôi, hơn chính sự sâu thẳm của tôi nữa”.
Như vậy, từ Albert Legrand, Roger Bacon cho đến G.Mendel, Teilhard
de Chardin qua bốn, năm thế kỷ khoa học và kỹ thuật phát triển, giữa đức tin và
khoa học THỰC NGHIỆM thuần tuý, không có gì là mâu thuẫn cả. Và có thể nói đức
tin Kitô giáo tự nó (nghĩa là không bị lẫn lộn với các triết truyết duy tâm,
duy linh) với truyền thống tôn trọng sự kiện, mọi cái nhìn duy thực, với quan
niệm phi linh hoá vũ trụ vật chất chính là môi trường thuận lợi cho khoa học kỹ
thuật phát triển. Và ngược lại, một nhà bác học quen TÔN TRỌNG SỰ KIỆN (dù là
những sự kiện xem ra khác thường) dễ đi đến chỗ chấp nhận sự kiện vĩ đại: Thiên
Chúa đi vào lịch sử loài người để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài.
Chúng ta không rơi vào việc dại dột dựa hơi khoa học để nói
rằng khoa học chứng minh có Thượng Đế. Chúng ta chỉ cần xác định: nhân danh khoa
học mà phủ nhận Thượng Đế là việc, nếu không nói là phản khoa học, thì ít nhất
cũng ngoài phạm vi khoa học, để đặt Thượng Đế vào bình diện triết học của nó.
Chúng ta cũng chưa đi đến kết luận cho thuyết vô thần là sai mà chỉ cần nhớ rằng:
1- Khoa học không bàn đến vấn đề có hay không có
Thượng Đế;
2- Nhân danh khoa học để chứng minh hay phủ nhận
Thượng Đế là sai!
3- Giữa tinh thần khoa học thực nghiệm và thái độ
chấp nhận sự kiện cứu độ và suy tư thần học có điểm tương tự.
4- Có thể môi trường Kitô giáo thuần tuý tạo
điều kiện cho óc khoa học kỹ thuật phát minh và phát triển.
5- Người có tinh thần thực nghiệm thực sự và không
bị một triết thuyết nào, ngay cả thuyết duy khoa học chi phối, sẽ dễ chấp nhận
sự kiện cứu độ, nhờ không bị thành kiến tiên quyết nào ràng buộc cả;
6- Và cuối cùng NẾU thuyết vô thần có đúng đi nữa
thì cũng đúng vì luận cứ triết học, hữu thể học chứ không phải vì luận cứ khoa
học.
Vậy ta không có gì phải sợ hãi đố kỵ và cũng không để cho thuyết
duy khoa học làm lung lay đức tin của mình.
Vấn đề lý trí cũng vậy! Ý thức giới hạn của các loại “lý” không
phải là kìm hãm dồn nén yêu sách chính đáng của lý trí, dập tắt ánh sáng của lý
trí, nhưng trái lại là đưa yêu sách ấy đi xa hơn, lên CAO hơn, đào SÂU hơn, mở
RỘNG hơn. Và như vậy càng ngày càng phát hiện ra cả một giai tầng (hiérachie)
về các loại
”lý” càng lúc càng sắc bén hơn, uyển chuyển hơn, linh hoạt sống động hơn thay vì
cứng rắn, khép kín, chết cứng trong một loại “lý” độc nhất.
Tự tín nhưng khiêm cung trước SỰ KIỆN trước Thực hữu, đó mới
là thái độ chân chính của lý trí. Lý trí là một năng khiếu, một dụng cụ để khám
phá từ từ: từ gần đến xa, từ thấp lên cao, từ cạn đến sâu, từ đơn giản đến phức
tạp, cái vô cùng tận của thực hữu, dù là thực hữu của một ngọn cỏ.
Cũng nên cần biết rằng các loại lý, các nấc thang của tri thức
không bao giờ ngược nhau, nhưng các bình diện càng lên cao hay càng đào sâu thì
càng phức tạp, càng tinh tế hơn. Một định luật khoa học không ngược với một
định luật toán học nhưng phức tạp hơn, tràn ra ngoài những định luật toán học,
vì đối tượng của nó phức tạp hơn, phong phú hơn. Một thực tại sinh lý không
ngược với các định luật lý hoá nhưng bao hàm những định luật ấy trong một phức
hợp rắc rối hơn. Một xu hướng tâm lý vẫn dựa trên những thực hữu sinh lý nhưng
kéo dài những định luật sinh lý đi lên, hay ăn sâu vào một phức hợp rắc rối hơn
v.v… cứ thế mà đi lên mãi cho đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Và mỗi lần vượt
qua một nấc thang tri thức khác, thì lý trí lại phải vươn lên, mở rộng, mài
sắc, tinh vi hoá, uyển chuyển hoá đến độ phải giằng co giữa những căng thẳng
gần như phải đứt ra vỡ tung ra, khác nào như con chim, phải mổ cho vỡ cái vỏ
trứng ra mới bay cao lên được để thấy cả bốn phương trời bao la bát ngát. Và có
thoát khỏi vỏ trứng, con chim mới định vị được cái vỏ trứng mà xưa nay mình
tưởng là cả vũ trụ chỉ là một tù ngục giam hãm mình trong tối tăm chật hẹp, che
mất ánh sáng của thực hữu và chân lý muôn trùng diệu vợi.
Có thể nói rằng đức tin là ánh sáng vượt lên, bao trùm mọi tia
sáng nhỏ. Đức tin không nói gì ngược lại những khám phá đích thực của lý trí,
không dồn nén những yêu sách chính đáng, đúng mức của lý trí. Trái lại, đức tin
mời gọi lý trí lên cao, đào sâu mở rộng tầm nhìn vượt khỏi mọi giới hạn. Và rồi
đến một lúc nào đó thì chính những mầu nhiệm đức tin sẽ giúp chúng ta hiểu rõ
hơn một phần nào (tức là khám phá ra một phần nào) cái lý của nhiều vấn đề đã
từng làm bao tâm trí đông tây kim cổ băn khoăn thắc mắc, mà vẫn chưa tìm ra lời
giải đáp.
Thí dụ: Quen suy niệm về mầu nhiệm thánh giá sẽ hiểu được phần
nào (tìm thấy phần nào cái lý) của sự khổ, sự dữ. Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể
có thể giúp ta thấy rõ hơn đôi chút tương quan mật thiết kỳ lạ giữa vật chất và
tâm linh. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đem lại một ánh sáng nào đó cho ta hiểu sâu
hơn về ngã vị và tình yêu. Người ta thường ví đức tin như mặt trời, nhìn thẳng
vào thì quáng mắt (vì mắt yếu chứ không phải vì mặt trời tối!) nhưng chính nhờ
ánh sáng của mặt trời mà mọi sự đều được soi tỏ, tức là trở nên có lý.
Thánh Augustinô nói: “Tin để hiểu, hiểu để tin”. Thực vậy, giữa
đức tin và lý trí có một tương quan biện chứng. Nếu biết vận dụng cho đúng, hai
ánh sáng ấy sẽ nương nhau mà lên cao, cao mãi, mở rộng, rộng mãi, đào sâu, sâu
mãi vô cùng vô tận như chính sự vô cùng vô tận của Đấng thực hữu đã mặc khải
mình là HỮU (xem Xh 3.14; Ga 8,24 v.v…).
Và chẳng phải một yếu tố của phúc lạc đời sau là yêu sách của
lý trí sẽ được thoả mãn tràn đầy sao: “Ta sẽ thấy được Thiên Chúa không phải
như qua một tấm gương mờ, nhưng Ngài thế nào ta sẽ được thấy y như vậy.” Thánh
Phaolô đã hứa chắc như thế (1Cr 13,12). Lý trí còn có yêu sách nào cao xa hơn
thế nữa không? Thiết tưởng những khiếu nại của phái duy lý chật hẹp, thiển cận
khác nào một đứa bé chẳng biết cha mẹ đã dành riêng cho mình cả một kho tàng
châu báu vô tận mà đi vòi vĩnh những cái không đâu.
Trên đây là một vài ý tưởng vội góp ý với bạn. Hy vọng chúng
ta sẽ có dịp chia sẻ với nhau sâu sát hơn. Hẹn bạn thư sau.
PHỤ LỤC: Ý NGHĨA
CÁC TỪ CỤ THỂ VÀ TRỪU TƯỢNG, TÂM VÀ VẬT
1. Cụ thể và Trừu tượng
2. Tâm và Vật
CỤ THỂ và TRỪU TƯỢNG
Chúng ta thường lẫn lộn giữa hai nghĩa khác nhau của các từ
CỤ THỂ và TRỪU TƯỢNG. Sự lẫn lộn này có thể tạo dịp cho ta rơi vào ngụy biện
trong các suy luận. Vậy ta cần phân biệt cho thật rõ ràng.
Hai từ này thường được dùng theo hai nghĩa hoàn toàn khác
nhau.
1/ NGHĨA PHỔ THÔNG: (nghĩa này không được chính xác lắm và đáng
lẽ không nên dùng mà phải dùng từ khác cho chính xác hơn)
Thông thường người ta dùng chữ trừu tượng và cụ thể để phân
biệt hai loại sự việc có những đặc tính khác nhau:
Trừu tượng được dùng để chỉ đặc tính của những sự vật không
thuộc về thế giới vật chất, khả giác, hữu hình.
Thí dụ: Tảng đá là một vật cụ thể, tâm tình của con người là
một sự vật trừu tượng; vì tảng đá ta sờ được, đo lường được, còn tâm tình của
con người, ta chỉ có thể phỏng đoán (và có khi lầm to) qua các biểu hiện gián
tiếp chứ tự nó thì ta không sờ được, không đo lường lớn nhỏ nặng nhẹ được.
Theo nghĩa này thì linh hồn (nếu có), Thượng Đế (nếu có) thuộc
về các sự vật trừu tượng. Và khi nói rằng một sự vật hay sự việc nào là trừu
tượng thì không hề đề cập đến khía cạnh nó có hay không mà chỉ muốn nói lên cái
đặc tính của nó là thuộc về loại vô hình, bất khả giác, không thuộc về vật chất
(như tư tưởng con người, như một nguyên lý toán học). Còn khi nói một sự vật
hay sự việc nào là cụ thể thì ta cũng khôg hề đề cập đến vấn đề nó có thực hay
không mà ta chỉ muốn nói lên đặc tính hữu hình, khả giác, thuộc về vật chất
(như tảng đá, cành hoa, giọt nước v.v…).
2/ NGHĨA CHUYÊN MÔN CỦA LUẬN LÝ HỌC (VÀ NHẤT LÀ
CỦA VẤN ĐỀ TRI THỨC)
Theo nghĩa chuyên môn này thì hai từ trừu tượng và cụ thể không
phải dùng để chỉ tính chất (đặc tính) của sự vật nơi chính tự nó, mà để chỉ:
đứng về bình diện nào mà xét.
a. Khi muốn chỉ một sự vật (dù hữu hình hay vô hình, khả giác
hay bất khả giác, vật chất hay không thuộc về vật chất) mà ta xét về chính trong
sự hiện hữu thực sự của nó như là một sự vật đặc thù thì ta dùng từ “cụ thể”.
Thí dụ: Một em bé vấp phải một cục đá lúc 4 giờ 25 phút 30 giây
ngày 22 tháng 11 năm 1978 trên một đoạn đường nhất định nào đó. Hòn đá đó khối
lượng bao nhiêu, trọng lượng bao nhiêu, màu sắc ra sao, hình thù thế nào, thuộc
loại đá gì v.v… thì trong vũ trụ vô biên khoáng hậu này chỉ có một mình nó độc
nhất vô nhị là chính nó, với vô số vô lượng vô biên chi tiết đặc thù làm cho nó
là nó cá thể chứ không phải là một hòn đá khác. Và không có trí óc nào có thể
kiểm kê cho tận tuyệt hết được tất cả những chi tiết đặc thù của nó (vì là vô
hạn, vô cùng tận). Chỉ có một trí óc vô biên như của Thượng Đế (nếu có Ngài)
mới múc cạn được các chi tiết của nó thôi.
Vậy trong sự hiện hữu cụ thể thì sự vật nào , sự việc nào cũng
vậy cả: một sợi lông mi cũng vậy, một nỗi buồn của một em bé ngủ trưa dậy không
có gì bỏ vào miệng cũng vậy, một tảng đá cũng vậy, Thượng Đế cũng vậy (nếu có
Ngài), linh hồn của một người nhất định nào đó cũng vậy (nếu có linh hồn).
Do đó không phải sự vật này là cụ thể, sự vật kia không là cụ
thể mà sự vật nào (nếu có và giả sử như là có) thì đều có thể xét về bình diện
cụ thể, tức là xét về bình diện trong sự hiện hữu của nó hay nói đúng hơn, xét
về nó trong sự hiện hữu của nó như là nó, với tư cách một hữu thể đặc thù cá
thể. Một tảng đá nào đó, Thượng Đế hay một vị thần linh nào đó, hay linh hồn một
người nào đó đều có thể xét về BÌNH DIỆN cụ thể cả.
b. Khi muốn chỉ nội dung (hay nội hàm) của sự biết của con người
NÓI CHUNG về một sự vật (hay đúng hơn: một loại sự vật nào đó), qua sự hình
dung của trí óc con người, chứ không phải chính sự vật trong sự hiện hữu cá thể
đặc thù của nó thì người ta dùng từ trừu tượng. Và sự biết qua hình dung của
trí óc này được gọi là trừu tượng vì nó là kết quả của một động tác của trí năng
qua hai giai đoạn:
- Trừu: rút tỉa ra.
- Tượng: hình dung lên.
Nghĩa là trong vô số vô lượng chi tiết đặc thù của mỗi sự vật
cá thể thuộc một loại (thí dụ: đá), tính năng chỉ rút ra, tách rời ra (trừu)
một số những đặc tính chung cho mỗi cục đá, rồi kết hợp lại thành một tổng hợp
toàn bộ, và hình dung lên (tượng) trong trí não để rồi có thể áp dụng sự hình
dung ấy cho bất cứ hòn đá nào.
Theo nghĩa này trừu tượng nghĩa là tính cách của nội dung (hoặc
nội hàm) của những khái niệm do trí năng tạo ra để hình dung một loại sự vật
hoặc phẩm tính hay động tác của sự vật nói chung.
Khái niệm đen là trừu tượng vì quạ đen, gà đen, mực đen, tóc
đen v.v… mỗi sự vật đen mỗi kiểu, nhưng trong khái niệm đen do trí óc hình dung
thì chỉ ghi lại những nét chung đã do trí năng tách rời ra khỏi các thứ đen cá
biệt.
Khái niệm đá là trừu tượng, vì có đá vôi, đá cuội, đá hoa cương
v.v… mỗi thứ đá, mỗi cục đá có nhiều chi tiết đặc thù, nhưng trong khái niệm đá
do trí óc hình dung lên thì chỉ ghi lại những nét chung do trí năng tách rời ra
khỏi các thứ đá, các cục đá cá biệt.
Khái niệm chạy là trừu tượng vì mỗi người, mỗi con vật chạy
mỗi cách cá biệt đặc thù, nhưng trong khái niệm chạy thì trí óc chỉ hình dung lên
những nét chung cho bất cứ kiểu chạy nào của các sự vật đang chuyển động nhanh:
người chạy, ngựa chạy, xe chạy v.v…
Vậy trừu tượng không có nghĩa là do trí óc con người dựng đứng
lên mà không có trong thực tế, cũng không phải là tính chất của sự vật vô hình,
mà có nghĩa là tính chất của sự hình dung về sự vật do trí năng tạo ra để biết
về sự vật (dù là vật hữu hình hay vô hình, khả giác hay bất khả giác, vật chất
hay không vật chất). Cho nên KHÁI NIỆM đá là TRỪU TƯỢNG, KHÁI NIỆM Thượng Đế là
TRỪU TƯỢNG, chứ không phải đá là trừu tượng, mà cũng chẳng phải Thượng Đế là
trừu tượng.
Nói tóm lại theo nghĩa chuyên môn này, bất cứ sự vật nào nếu
xét dưới bình diện trong sự hiện hữu cá thể đặc thù của chính mình nó thì đều
là cụ thể cả: cục đá mà đứa bé vấp phải chiều hôm nọ trên quãng đường ấy là cụ
thể, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn người chinh phu nọ trong buổi chiều tà kia bên
khung cửa sổ ấy cũng là cụ thể, linh hồn (nếu có) của ông sinh ngày tháng năm
nọ tại chỗ kia v.v… cũng là cụ thể, Thượng Đế (nếu có) xét trong chính sự hiện
diện cụ thể của Ngài cũng là cụ thể.
Còn khái niệm do trí năng tạo thành bằng hai động tác trừu và
tượng là trừu tượng. Khái niệm đá, khái niệm chạy, khái niệm linh hồn, khái niệm
Thượng Đế v.v… bất kỳ khái niệm nào cũng là trừu tượng cả!
Vậy chân lý trừu tượng là chân lý do trí năng hình dung lên,
không phải là nó không có hay không đúng, nhưng nó thuộc về bình diện tri thức.
Thí dụ chân lý: nếu A>B và B>C thì A>C. Không rõ A,B,C là gì, là ở
đâu, là vào thời nào, chỉ biết lập luận trên là một cái gì rất đúng nhưng thuộc
về hình dung của trí năng.
Ta có thể chứng minh chân lý trừu tượng đó bằng nguyên lý mâu
thuẫn: vì nếu A<C thì A<B và như vậy trái với tiền đề A>B. Do đó A phải
>C thì mới không tự mâu thuẫn.
Nhưng Thiên Chúa của chúng ta không thể chứng minh nhu thế được,
vì nếu như vậy thì chỉ có người mất trí mới phủ nhận Ngài (trong lúc thực tế có
nhiều nhà vô thần là những đầu óc thông minh sáng suốt hơn người) và vì Thiên
Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của Abraham, của Issac, của Giacob, của Phêrô,
của Phaolô, của Gioan Phaolô II v.v… của các bà phước tận tuỵ hy sinh trong
trại cùi, của ông Lê Bảo Tịnh thà chịu chết chứ không chịu chối Chúa, của cậu
Đôminicô Saviô còn bé mà đã có đời sống hơn người v.v… nghĩa là của các chứng
nhân đã “vấp phải”, đã “đụng phải” chính Ngài trong sự hiện hữu của Ngài, tức
là trong sự cụ thể của Ngài, y như một em bé vấp phải cục đá chảy máu chân ra
không thể chứng minh sự hiện hữu của hòn đá theo kiểu chân lý trừu tượng A>B
và B>C thì A>C, mà chỉ khóc vì đau thật, chỉ đưa chân bị thương chảy máu
ra (tức là các sự kiện) cho mẹ xem, cho cô y tá băng lại.
Thánh Phêrô không chứng minh Chúa Giêsu sống lại theo kiểu
A>B và B>C thì A>C, mà chỉ nói trước Hội đồng tư tế Do thái là: “Tôi không
thể phủ nhận những gì mắt thấy tai nghe, tay sờ được và Ngài sống lại thật,
theo sự kiện Chúa sống lại, và chẳng thà chết chứ không thể phủ nhận sự kiện
Giêsu chết và phục sinh. Cũng như em bé vấp phải đá chảy máu thì phải khóc và
chỉ đưa chân ra làm chứng mà thôi!
Không minh chứng Thiên Chúa như chứng minh một chân lý mà làm
chứng về Thiên Chúa như một sự kiện, làm chứng bằng cách sống và nếu cần thì
bằng cái chết. Tử đạo, Martyr có nghĩa là làm chứng mà!
Tiện dịp, cũng xin vạch rõ sự ngụy biện trong một tam đoạn luận
thường hay bị lợi dụng vì vô tình hay hữu ý lẫn lộn hai nghĩa của trừu tượng:
1/ Thiên Chúa (A) là trừu tượng (B).
2/ Trừu tượng (B’) là chỉ có trong sự hình dung của trí óc
(C).
3/ Vậy Thiên Chúa chỉ có trong sự hình dung của trí óc!
Tam đoạn luận này mới xem qua tưởng là đúng quy tắc, nhưng thực
ra là phạm luật vì:
Trong tiền đề thứ nhất, trừu tượng (B) có nghĩa theo nghĩa thông
thường, thần linh, vô hình, không vật chất (từ trừu tượng trong mệnh đề này
không sát nghĩa và thực ra là sai).
Còn trừu tượng (B’) trong tiền đề thứ hai có nghĩa theo nghĩa
chuyên môn: đặc tính của các khái niệm (chữ trừu tượng ở đây mới thật là sát
nghĩa, là đúng).
Vậy tuy cùng một chữ “trừu tượng” nhưng thực ra là hai hạn từ
(terme) hoàn toàn khác nhau. Đáng lẽ ra phải nói:
1/ Thiên Chúa (A) là thuần linh (là vô hình, là không vật chất)
(B).
2/ Cái gì trừu tượng (thuộc về khái niệm) (B’) thì do trí năng
tạo ra (C).
Rõ ràng hai mệnh đề trên không tạo để cho phép ta rút ra một
kết luận nào hết vì không có hạn từ chung cho cả hai mệnh đề cả vì khi A=B và
B’=C không cho phép ta kết luận A=C được (B và B’ khác nhau mà!!!)
Sau khi đã phân biệt rạch ròi các nghĩa khác nhau của hạn từ
trừu tượng và cụ thể, và vạch rõ những nguỵ biện do sự lầm lẫn giữa các nghĩa
ấy, chúng ta cùng nhau đào sâu sự phân biệt của Pascal khi ông nói Thiên Chúa
của chúng ta là “Thiên Chúa của Abraham, của Issaac, của Giacob, chứ không phải
Thiên Chúa của các nhà triết học”.
Đã nhiều lần chúng ta nhấn mạnh đến vai trò của các SỰ KIỆN,
và thấy rằng về phương diện phương pháp luận, có một cái gì tương đồng giữa
tinh thần khoa học thực nghiệm và suy tư thần học Kitô giáo: cả hai đều tôn
trọng, đón nhận, khiêm tốn trước các SỰ KIỆN. Nghĩa là cả hai hướng về thế giới
cụ thể với tất cả những sự phong phú vô cùng vô tận của nó, rồi cố gắng tìm
hiểu, tìm cách lý giải, và nếu cần thì cũng không ngấn ngại phá tung ngay cả
những hệ thống dù cổ truyền khả kính mấy đi nữa.
Cũng chính Pascal (nên nhớ Pascal là một nhà khoa học) đã nói:
“Thực tại (thực hữu) đem lại cho chúng ta (cung cấp cho chúng ta) hằng hà sa số
sự việc nhiều gấp trăm ngàn lần các điều mà đầu óc ta có thể tưởng tượng nổi”.
Vì thế trí óc của con người có đức tin không trùm lên Thiên Chúa những quan niệm,
những biểu tượng, những hệ thống của con người, không bắt Thiên Chúa phục tùng
khuôn khổ của cái lý của mình (tức cái trừu tượng) nhưng mở mắt ra mà nhìn, mà
đón nhận Thiên Chúa như một SỰ KIỆN CỤ THỂ (dù mới xem qua thì gần như phi lý).
Thí dụ: mỗi lần dự lễ và rước lễ, người tín hữu Công giáo mở
mắt NHÌN, lắng tai NGHE, đón nhận vào miệng lưỡi (tức là nếm với vị giác) Mình
Thánh Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể, Tử nạn, Phục sinh. Và để đơn
giản cho dễ thấy, chúng ta đã thưa AMEN khi linh mục trao Mình Thánh và nói:
“Mình Thánh Chúa Kitô”. Vậy ở năm ân phúc 1979 này, Thiên Chúa của người Công
giáo là miếng bánh mà linh mục truyền phép trên mỗi bàn thờ có dâng lễ tạ ơn
(và có một sự kiện tương tự nơi các toà cáo giải có linh mục ban bí tích xá giải).
Sự kiện là như thế đó, chấp nhận hay không tuỳ ý. Và nếu chấp nhận thì đào não
bới óc ra mà tìm hiểu lấy!
Sự kiện là năm 1979 này, có một ông già xuýt xoát 60, có lẽ
đang trằn trọc khó ngủ vì đau bụng, đang hơi bực mình vì người bồi dưỡng nấu bữa
cơm chiều không hợp khẩu vị lắm, và khí hậu Rôma khác với khí hậu ở Balan v.v…
nhưng lại dám cả gan lãnh nhận trọng trách kế vị thánh Phêrô làm Tảng đá cho
Giáo hội, vị Hiền thê của Ngôi Hai Thiên Chúa, nắm trong tay lời hứa Vô Ngộ về
chân lý đức tin cứu độ! Sự kiện là như thế đó (và trong các vị tiền nhiệm của
ông già ấy có bậc thánh thiện như Piô X, nhưng cũng có ông quá tệ như Alexandre
VI – Borgia)!
Cho nên Thượng Đế của chúng ta không phải là một quan niệm trừu
tượng do những trí óc (dù là thiên tài) hình dung nên nhờ suy luận, mà là một
hữu thể cụ thể đã tỏ mình ra với những cá nhân, những tập thể qua các thời đại
lịch sử từ ngày tạo thiên lập địa cho đến ngày cánh chung. Thiên Chúa của chúng
ta là Thiên Chúa của Abraham, của Pascal, của chân phước Anrê Phú Yên, của chị,
của anh, của tôi, tỏ mình ra ở đây, ở đó, trên núi Sinai, trên đường đi Damas,
có thể ở đầu đường xó chợ, thậm chí trong sòng bạc nơi ổ điếm, trong một trại
giam, nơi tiền đồn chống ngoại xâm, bên guồng máy cũng như trong cung cấm chốn hoàng
thành, giữa buổi yến tiệc vương giả hay nơi phòng the khuê các, trên bàn thí
nghiệm khoa học, qua ống kính hiển vi, qua một nụ cười, một áng mây, một nốt
nhạc, một bức tranh, một bài thơ, một câu Kinh Thánh, qua một lần thất bại cũng
như một sự thành công, mọi nơi, mọi lúc, dưới mọi hình thức, trong mọi hoàn
cảnh, với đủ mọi hạng người. Các tâm hồn gặp Chúa như đạp phải cái gai, như đâm
vào bức tường. Cứ đọc Thánh Kinh thì sẽ thấy sự Hiện Hữu cụ thể của Thiên Chúa.
Có chạy trốn, có phủ nhận cũng không được.
Thiên Chúa không phải là một cái gì con người tạo ra để cho
an tâm tĩnh trí, mà thường là một cái gì chướng tai gai mắt, ngược đời, nghịch lý
làm đảo lộn tất cả: Thiên Chúa là cơn gió lốc, là ngọn lửa thiêu, là dòng nước
lũ, là hòn đá vấp phạm cho nhiều người, lôi kéo nhiều người ra khỏi sự an thân,
ném họ vào giữa bao chống đối gian nan (xem đời Abraham, Môisen, Phaolô, các
Tiên tri, các Thánh nam nữ thì sẽ rõ!).
Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc an thần ru ngủ với ảo
ảnh một thiên đàng cực lạc xa xôi nào, mà Thiên Chúa ném chúng ta vào cuộc đời
này. Thánh Kinh là một pho lịch sử đầy chất trần gian, gồm các sự kiện: gia đình,
xã hội, quốc gia, quốc tế, kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, ái tình, chinh
chiến, thương mãi, kể chuyện từ cái đuôi con chó ve vẩy chào chủ đi xa về đến
sự hưng vong của các triều đại; và cuối cùng là một lời tha thiết nài xin khao
khát một biến cố: sự trở lại của Chúa Giêsu (xem Kh 22,20). (Đừng quên Giêsu là
một nhân vật lịch sử, lý lịch rõ ràng được ghi chép trong 4 cuốn Tin Mừng).
Có lẽ vì vậy khi Môisen hỏi Thiên Chúa là ai, Ngài không dùng
bất cứ từ nào để nói lên yếu tính (Toàn năng, Toàn thiện, v.v…) mà Ngài đã tự
xưng mình là Hằng Hữu, là Có, tức là HIỆN HỮU CỤ THỂ (xem Kh 3,14). Ngài đi vào
đời sống cá nhân cũng như nhân loại qua tiểu sử từng người cũng như lịch sử cả
loài người. Ngài thực hiện một chương trình cụ thể chứ không phải giải quyết suy
tư siêu hình trừu tượng cho một thiểu số triết gia. Cái chương trình ấy thánh
Phaolô gọi là Mầu Nhiệm được mặc khải cho những tâm hồn đơn sơ, mà lại che
khuất đối với kẻ tự xem mình tài giỏi (thật ra là vuợt quá tầm với của bất cứ
trí khôn nào ở nơi trần thế này chứ không phải bị che khuất). Cho nên một em bé,
một bà già thất học có thể thấy rõ mà những khối óc uyên thâm lại cũng không
hiểu hết, và một em bé chăn cừu có thể thực hiện đạo sống của Mầu Nhiệm ấy dễ
như chơi, trong khi những nhà khổ tu rèn luyện suốt cuộc đời vẫn thấy như không
thể nào sống nổi hay còn quá xa lý tưởng!
Thiên Chúa chúng ta là một SỰ KIỆN CỤ THỂ, nhưng vì hữu hạn,
trí óc ta không thể nào múc cạn được sự kiện cụ thể ấy cả (nên nhớ rằng trí óc
hữu hạn của ta không thể nào biết hết được tất cả, hình dung hết được tất cả về
bất cứ một sự kiện nào, huống hồ là Thiên Chúa!), cho nên ta lại phải TRỪU TƯỢNG
để hình dung Thiên Chúa như hình dung bất cứ một sự kiện nào! Mà đã là trừu
tượng thì bao giờ cũng đại khái, cũng có hạn, cũng khiếm khuyết, cũng mô phỏng
theo quan niệm, thành kiến, lập trường, vị tri, hoàn cảnh, tâm tình, cơ thể của
mỗi người, mỗi văn hoá, mỗi thời đại, nghĩa là ta cũng đóng khung Thiên Chúa
vào những khuôn khổ chật hẹp của ta: trừu tượng hoá.
Vì thế, dưới ảnh hưởng của triết thuyết Platon, ta có xu hướng
hình dung Thiên Chúa như là Linh Niệm Chí Thiện; dưới ảnh hưởng học thuyết Aristote,
ta có xu hướng hình dung Thiên Chúa như là Hiện thể (Acte) toàn hảo; còn dưới
ảnh hưởng của Nho giáo, ta lại có xu hướng đồng hoá “Ý Cha” với thiên mệnh.
Trong một xã hội quân chủ, ta dễ quan niệm Thiên Chúa như “Vua cả trên trời”;
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, hình ảnh người thợ mộc thành Nadarét trở nên phổ
biến. Một cựu quân nhân như Inhaxiô Lôyôla quan niệm phục vụ Thiên Chúa như
phục vụ một vị nguyên soái đi mở Nước Trời; một thiếu nữ vốn được Cha già âu
yếm đùm bọc như Têrêxa Hài Đồng thì chỉ muốn trọn đời sống âm thầm lặng lẽ ca
ngợi tình yêu xót thương của Thiên Chúa, v.v… Một cuộc đời bầm dập giáp trận
với tội lụy đau thương của nhân thế như Eve Lavallière thì chìm đắm trong mầu
nhiệm khổ giá luôn luôn khắc khoải như đối đầu với sự dữ. Một cuộc đời không có
biến cố gì như Elisabeth de la Trinité thì lại muốn hoà tan vào trùng dương bát
ngát và vắng lặng của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Sự hình dung Thiên Chúa và cách sống mối tương quan giữa Ngài
với con người và vũ trụ, bao giờ cũng bị giới hạn và nếu không luôn luôn cảnh
giác và thanh lọc, thì dễ bị biến thành những khái niệm trừu tượng, những ngẫu
tượng lệch lạc, ô nhiễm bởi những hiện tượng tâm lý xã hội, mà Freud và Marx đã
phân tích một cách rất sâu sắc. Thực ra, những nhà thần nhiệm học cũng đã biết
và đã phân tích đến nơi đến chốn những hiện tượng đó trong các giai đoạn của
cuộc đời thần hiệp dưới các khái niệm như đêm tối giác quan (nuit des sens) và
đêm tối tâm linh (nuit de l’esprit). Và các ngài cho thấy những sự tinh luyện,
thanh lọc ấy có được một phần nào là do cố gắng của tâm hồn, nhưng phần lớn
chính là nhờ tác động của Ân sủng Thiên Chúa mời gọi lên đến đỉnh cao của thần
hiệp.
Con người bao giờ cũng dính bén, bám víu vào những đối tượng
không phải là Thiên Chúa, nên Thiên Chúa phải can thiệp để giúp con người “từ
bỏ” tất cả những gì có thể tha hoá chính con người, làm con người vong thân trong
những thần tượng do mình tạo nên theo con đường “thăng hoa” như Freud đã phát
hiện ra diễn tiến, hoặc con đường tha hoá như Marx đã phân tích và nêu rõ (vì
thế xét về mặt này, Freud và Marx là hai vị đại ân nhân đã giúp đức tin ý thức
về chính mình để đề cao cảnh giác mọi thăng hoa tâm lý và mọi tha hoá xã hội,
luôn luôn đe doạ làm mờ tối, lệch lạc, khô cứng, phiếm diện, hủ hoá nguồn mạch
sự sống, ánh sáng của đức tin vẹn tuyền tinh tuý). Và nếu đời sống cá nhân phải
qua những chặng đường thử thách tôi luyện, thì đời sống của Giáo Hội trong cộng
đoàn cũng phải qua những chặng đường thử thách, những “đêm tối” tương tự.
Có thể nói gọn là những thử thách của cuộc đời cá nhân, cũng
như những “thăng trầm” của dân Israel đời Cựu ước, của Giáo Hội đời Tân ước chỉ
là những tinh luyện mà Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đi qua để thoát khỏi sự trừu
tượng hoá về Ngài, để nhận chân chính mình Ngài trong sự hiện hữ cụ thể của
Ngài, để có thái độ của một niềm tin sống động, không biến thành những ý hệ khô
cứng dù là màu mè tín ngưỡng.
TÂM và VẬT
Có một cặp từ ngữ khác cũng thường gây nên nhiều ngộ nhận và
do đó gây nhiều tranh luận vô bổ. Đó là TÂM và VẬT, và nhất là từ Duy tâm. Lý
do chính là vì chữ TÂM có rất nhiều nghĩa khác nhau:
Có khi nó có nghĩa chuyên môn hữu thể luận như khi nó được dùng
để chỉ một loại bản thể vô hình, bất khả giác. Ví dụ linh hồn bản thể là Tâm,
thân xác bản thể là Vật.
Có khi nó có nghĩa chuyên môn triết học đạo đức luận, như khi
nó được dùng để đối lập với chữ Tài. Khi ấy nó có nghĩa gần như là Đức.
Có khi nó có nghĩa chuyên môn về khoa học nhân văn như trong
các từ ngữ: tâm lý học thực nghiệm, tâm lý học loài vật, v.v… khi đó nó được
dùng để chỉ về một loại hiện tượng thuộc về lãnh vực ý thức hoặc là ý thức thực
sự, hoặc là những động thái tương tự như có ý thức.
Và cuối nó đã được dùng sai (hay ít là không được chính xác
lắm!) trong từ DUY TÂM hiểu theo nghĩa là ngoại giới không có thực mà chỉ do tâm
trí con người hình dung ra, biểu tượng ra, tưởng ra (như trong ảo giác, trong
giấc mộng); đáng lẽ ra ở đây phải dùng chữ TƯỞNG (duy tưởng) mới đúng!
Vậy trong khi biện luận mà có từ DUY TÂM, trước khi tranh luận,
cần phải xác định rõ xem chữ DUY TÂM đang bàn đến được hiểu theo nghĩa nào. Ví
dụ khi có người đặt vấn đề học thuyết Platon có phải là duy tâm không, hoặc
Thiên Chúa Giáo có duy tâm không, thì trước khi trả lời ta cần phải hỏi lại xem
TRONG MỖI MỘT CÂU HỎI đó người ấy đã hiểu từ duy tâm theo nghĩa nào.
Sở dĩ thường có sự lẫn lộn giữa các giữa các nghĩa của từ duy
tâm như vậy là vì từ duy tâm vốn được dịch từ chữ « IDÉALISME » mà ra! Và chữ
Idéalisme lại được tạo thành bởi chữ IDÉE, thế mà chữ idée thì có nhiều nghĩa lắm.
Đại khái nó có những nghĩa sau đây:
1/ NGHĨA THÔNG THƯỜNG: nó dùng để chỉ
một hiện tượng tâm lý:
a) Hoặc là chỉ sự hình dung do trí óc tạo ra tưởng ra. Ví dụ:
ý tưởng về con chó trong trí khôn của tôi (l’idée du chien dans mon esprit).
b) Hoặc là chỉ ý tưởng, chủ ý (intension). Ví dụ: tôi có ý đến
thăm bạn (j’ai l’idée d’aller vous voir).
Ta thấy chữ IDÉE ở đây chỉ ý tưởng có trong đầu óc con người.
2/ NGHĨA TRIẾT HỌC TRONG THUYẾT PLATON: Idée (linh niệm)
là những hữu thể có THỰC trong một thế giới thực (thực hơn là thế giới khả giác
hữu hình) vốn là khuôn mẫu, nền tảng của thế giới khả giác. Như vậy, chữ Idée ở
đây được dùng để chỉ một thực thể đặc biệt mà ta gọi là Linh Niệm.
Nhưng để có thể hiểu rõ hơn các nghĩa của từ Duy tâm, có lẽ
ta cần phải phân biệt 2 vấn đề triết học sau đây:
- Thứ nhất là vấn đề về sự hiện hữu của ngoại giới và giá trị
của tri giác (tức là sự biết của con người về ngoại giới ấy). Trước vấn đề này
ta thấy thường có hai cách trả lời: Duy Thực (Réalisme) và Duy Tâm (Idéalisme
subjectif, mà ta tạm gọi là Duy Tâm A, đúng ra nó phải được gọi là Duy Tưởng
mới hợp lý).
- Thứ hai là vấn đề về hữu thể học, về bản thể của sự vật (của
bất cứ vật nào). Trước vấn đề này thường ta cũng có hai cách trả lời: Duy Vật
(Matérialisme) và Duy Tâm (Idéalisme objectif mà ta tạm gọi là Duy Tâm B).
Xin nói ngay rằng chính sự lẫn lộn giữa Duy Tâm A và Duy Tâm
B là đầu mối của mọi sự ngụy biện, sai lầm. Nhưng Duy Tâm A khác Duy Tâm B như
thế nào? Duy Thực và Duy Vật là gì?
Sau đây chúng ta sẽ trình bày qua các vấn đề này và nhận định
xem sao:
DUY THỰC và DUY TÂM A (đáng ra phải dùng
từ Duy Tưởng mới đúng).
Theo xu hướng tự nhiên thì ai cũng có thái độ duy thực về vấn
đề tri giác và ngoại giới, nghĩa là cho rằng:
a) Ngoại giới là có thực. Ví dụ: cuốn sách tôi đang cầm đọc
đây là có thực chứ không do tôi tưởng tượng ra như trong giấc mơ.
b) Và sự hình dung của tôi về nó là đúng y hệt như nó là tự
chính nó, nghĩa là cái màu xanh của bìa sách tôi đang cầm nghĩa là có thật ở nơi
chính tấm bìa chứ không phải chỉ có trong sự hình dung bởi tâm trí tôi.
Chúng ta không đi vào chi tiết chuyên môn mà chỉ ghi nhận rằng
vấn đề này có 2 loại triết thuyết chính:
- Thuyết Duy Thực là thuyết cho rằng ngoại giới có thật.
- Thuyết Duy Tâm A cho rằng không có ngoại giới; ngoại giới
chỉ do sự hình dung của tâm trí ta mà có y như giấc mộng vậy. Nếu hiểu từ Duy Tâm
theo nghĩa (A) này (tức là Duy Tưởng), thì học thuyết Platon không phải là Duy
Tâm (Duy Tưởng) mà là Duy Thực, vì Platon vẫn cho rằng ngoài tâm trí con người
có một thực thể khác. Theo nghĩa này thì Thiên Chúa giáo cũng là Duy Thực vì
tôn giáo này quan niệm rằng ngoài tâm trí con người còn có Thiên Chúa là Hữu Thể
có thực và ngoại giới do Thiên Chúa tạo nên cũng là có thực.
Vậy nếu bây giờ ta phải trả lời cho câu hỏi: Học thuyết Platon
có phải là Duy Tâm không? thì ta có thể trả lời ngay là VỀ VẤN ĐỀ TRI THỨC, học
thuyết của Platon không phải là Duy Tâm nhưng là Duy Thực (nghĩa là quan niệm
ngoài trí óc con người còn có những hữu thể khác có thực không phải do trí óc
tưởng tượng ra), nhưng VỀ VẤN ĐỀ HỮU THỂ thì học thuyết này là Duy Tâm (theo
nghĩa B) nghĩa là cho rằng cái hữu thể khác có thực ấy bản thể không phải là
vật mà là Tâm (đáng lẽ ra phải dùng chữ Linh mới phải vì chữ Idée (linh niệm)
khác với Idée (Ý tưởng) như trên đã phân biệt.
DUY VẬT và DUY TÂM B
Đây không còn là vấn đề tri thức luận nữa mà là vấn đề hữu thể
học về vấn đề bản thể của sự vật. Về vấn đề này ta thấy có 3 triết thuyết
chính:
- THUYẾT DUY VẬT
Thuyết này quan niệm mọi sự đều chỉ là vật chất hoặc chỉ do
vật chất tạo ra mà thôi! Ví dụ thuyết của Karl Marx cho rằng mọi sinh hoạt tinh
thần văn hoá của con người cũng chỉ dựa trên nền tảng vật chất mà thôi, vì chỉ có
một bản thể duy nhất là Vật mà thôi!
- THUYẾT DUY TÂM
Thuyết này ngược lại, quan niệm mọi sự đều là Tâm linh. Thế
giới mà ta gọi là Vật chất hoặc là không có thực chỉ do tâm trí hình dung ra như
là giấc mộng (duy tưởng) hoặc là do một sự sa đoạ nào đó của Tâm linh mà thôi
(Duy Thực kiểu Platon).
- THUYẾT LƯỠNG NGUYÊN
Thuyết này cho rằng Vật chất và Tâm linh cả hai đều là những
bản thể có thực. Có thể nói Thiên Chúa giáo thuộc về loại thuyết này.
Vậy ai khẳng định Thiên Chúa giáo là duy tâm là sai vì Thiên
Chúa giáo chủ trương rằng ngoại giới có thực và thuộc về vật chất và vật chất
là có thực. Thiên Chúa giáo không chủ trương rằng chỉ có tâm linh mà thôi! Thiên
Chúa giáo chỉ chủ trương rằng nguồn gốc của mọi sự là Thiên Chúa mà Thiên Chúa
thì thuần linh (nhưng thuần linh là muốn nói lên tính cách siêu việt của Thiên
Chúa: Thiên Chúa vô cùng phong phú gồm đủ tất cả những gì có ở trong tâm linh
cũng như ở trong vật chất và còn có nhiều nhiều vô cùng vô tận, vô hạn, vô biên
, chứ không phải là như tinh thần con người mà thôi đâu!). Thật ra có lẽ ta chỉ
nên nói Thiên Chúa là Duy Hữu; hay gọn hơn là HỮU: nghĩa là mọi cách có, có
kiểu Vật, có kiểu Tâm, tất cả đều có trong Thiên Chúa. Và trong Thiên Chúa còn
có vô vàn, vô biên, vô tận, vô hạn kiểu có mà tâm trí ta không tài nào múc cạn
hết được. Hơn nữa trong Thánh Kinh, Chúa cũng đã tự xưng Danh Mình là Đấng CÓ,
Đấng HỮU, HẰNG HỮU, chứ Ngài đâu có xưng mình là Tâm, là Vật, là Thiện, là Mỹ,
là Chúa, là gì gì cả! (xem Kh 3,14).
Thiên Chúa chỉ là… có, vì có bởi Thiên Chúa; có trong Thiên
Chúa: tâm linh, vật chất, X,Y,Z,W, v.v… và mọi kiểu có (tâm,vật, X,Y,Z,W, v.v…)
mà ta kinh nghiệm được chỉ là những yếu tính hữu hạn trong một cách có nào đó, còn
Thiên Chúa thì không có yếu tính, nếu không muốn nói yếu tính Ngài là CÓ.
Vậy khi nói Thiên Chúa là thuần linh thì phải phá vỡ khái niệm
Linh, và tốt hơn, nên bỏ cách nói như vậy đi để tránh mọi lầm lẫn. Có lẽ khi có
ai hỏi Chúa là Giêsu, hay là Vật, hay X, hay Y, hay Z, hay W, hay v.v… thì ta
cứ dùng Lời Chúa mà trả lời: Chúa là ĐẤNG-CÓ (và CÓ là bao gồm tất cả những gì
ta biết và ta không biết, là vô tận, vô biên, vô cùng, vô hạn, và cũng là nguồn
gốc tất cả, nền tảng cho tất cả mà cũng là ngàn trùng vượt trên tất cả), và đó
chính là điều chúng ta muốn nói lên khi tung hô: THÁNH, THÁNH, THÁNH ngàn trùng
chí THÁNH!
Ngoài ra, chúng ta thấy rằng khi người ta gán cho một học thuyết
hay một trường phái nào cái « nhãn hiệu » Duy Tâm thì thường là họ đã (vô tình
hay hữu ý) lẫn lộn giữa hai nghĩa (A) và (B) của từ ngữ ấy.
Ví dụ: Học thuyết Platon có thể gọi là Duy Tâm theo nghĩa (B)
(và theo nghĩa này thì cách duy tâm của nó không phải là không có giá trị, vì
nó cũng nói lên được một khía cạnh nào đó của hữu thể) nhưng người ta gây cho
người nghe một ấn tượng không mấy thiện cảm đối với học thuyết ấy vì thường người
nghe lại liên tưởng (một cách tiềm thức) với nghĩa (A) (tức là Duy Tưởng) của
từ ấy. Thực ra có rất ít người chấp nhận nghĩa (A) nầy bởi vì theo đó đến cùng
thì nó sẽ dẫn đến thuyết Duy Ngã độc hữu (Solipsisme hay Subjective Abolu) là
một học thuyết quá khích và có thể nói là sai lầm.
Khi người ta gán cho Thiên Chúa giáo hai chữ Duy Tâm thì cũng
vậy! Nếu biện bạch ra ta thấy hầu hết đều đồng ý Thiên Chúa giáo là Duy Thực về
vấn đề tri giác và ngoại giới, nhưng khi nói phớt qua, gán từ Duy Tâm cho Thiên
Chúa giáo (vô tình hoặc hữu ý) thì người ta lại muốn gợi (hoặc không muốn gợi
nhưng vô tình gợi ra) cho người nghe cái cảm tưởng là Thiên Chúa giáo thuộc về
phe Duy Tâm (nghĩa là A) tức là Duy Tưởng, tức là sai, là phi lý. Trong khi đó
Thiên Chúa giáo là Duy Hữu (và nếu có gọi là Duy Linh hay Duy Tâm đi nữa thì
phải phá vỡ khung chật hẹp thường có của hai từ ấy và cho chúng một nghĩa rộng
lớn như chúng ta đã nói trên).
Tóm lại, những cách gán ghép từ ngữ Duy Tâm ấy là vô tình ngụy
biện hay vô tình xuyên tạc bằng cách sử dụng từ ngữ một cách hàm hồ. Trong trường
hợp đó ta chỉ cần bình tĩnh sáng suốt phân tích, định nghĩa nhận định và phân
biệt rõ ràng tức thì nhiều vấn đề ngụy tạo sẽ được giải quyết hoặc nói đúng hơn
là sẽ được « dẹp đi » ngay!
Bây giờ ta thử suy nghĩ thêm về từ « VẬT » xem sao:
Thường thường mới xem qua ai lại chẳng tưởng rằng VẬT là cái
gì dễ hiểu, dễ biết rõ bản thể nhất. Hòn đá kia, khối nước nọ tôi sờ được, nếm
được, nhìn được, ngửi được, cân đo được, v.v… Đó là vật chất. Nhưng từ trước
các nhà triết học đã biết rằng dù sao thì vật chất cũng chỉ được biết qua giác
quan mà thôi. Và cái thế giới vật chất hữu hình mà ta tưởng là ta nắm bắt được
bản chất đó, thực ra là một tổng hợp giữa sự kích thích do ngoại giới và phản
ứng của giác quan. Mầu xanh, mùi thơm, vị đắng, sức nặng, độ cứng, không phải
là có tự nơi vật chất mà là một cấu tạo phối hợp giữa yếu tố kích thích và lệ
thuộc vào cơ cấu của giác quan! Nói như các nhà Duy Tâm rằng cơ thể không đau
mà chỉ có linh hồn đau khi tôi bị chặt tay thì có hơi quá, nhưng cũng là một
cách lưu ý ta về tính cách tương đối, biểu tượng của tri giác, và sự khó hiểu
biết của vật chất.
Ngày nay các nhà khoa học đã biến những đặc tính khả giác (qualité
sensible) đầy chủ quan thành những số lượng khách quan: màu xanh là bao nhiêu
chấn động, độ ấm lạnh được xác định bằng tốc độ của phân tử v.v… và vật chất
trở nên một cái gì rất trừu tượng đến nỗi cuối cùng những nhà duy vật như Lénin
cũng chỉ định nghĩa vật chất là một cái gì có thực được kết hợp giữa một bên là
thiên nhiên ngoại giới với một bên là trí năng và động năng của con người. Thật
ra từ « duy vật biện chứng » có thể chỉ có nghĩa là một quan niệm « duy thực »
về trí thức và hiệu năng hoạt động của con người trên thế giới tự nhiên, nhiều
hơn là về bản thân của sự vật, và như vậy thì… cái nhìn về tương quan của con
người và thế giới tự nhiên (về cả hai mặt trí thức và hành động) của Thiên Chúa
giáo cũng không khác hơn nhiều lắm đâu!! vì Thiên Chúa của Thánh Kinh là Thiên
Chúa của một lập trường Duy Thực, chứ không phải là Thượng Đế theo kiểu Duy
Tưởng, Duy Tâm, Duy Linh.
Cho nên nhiều lúc chúng ta có thể tự hỏi phải chăng bao nhiêu
đối lập, bao nhiêu biện luận, bao nhiêu ngộ nhận, bao nhiêu… xa cách, bao nhiêu…
xương máu hận thù sẽ được giải toả (không nói là hoàn toàn được giải quyết hẳn)
biện bạch giảm nhẹ nếu ta biết chịu khó khách quan và chân thành phân biệt cho
rõ ràng một số danh từ. Vì vậy, tuỳ theo bạn định nghĩa thế nào là Tâm là Vật
là Thực là Tưởng mà tôi có thể duy gì cũng được.
Nếu chữ Tâm được hiểu theo nghĩa (A) (tức là Duy Tưởng) thì
Thiên Chúa giáo không phải là Duy Tâm vì tôn giáo này có quan niệm Duy Thực. Ngược
lại nếu Vật được định nghĩa tương tự như là cái gì có thực mà tri giác và hành
động của con người vừa nắm được vừa phải tuỳ theo mà xử sự, thì Thiên Chúa giáo
có quan niệm Duy Vật hiểu như thế, vì thực ra lúc đó Duy Vật và Duy Thực tương
tự như nhau mà Thiên Chúa giáo là Duy Thực.
Chính vì thế nếu có nhà Thánh Kinh học nào có cho
ra một tác phẩm nào nhan đề là « Một cách đọc Duy Vật Tin Mừng theo Máccô » thì
cũng là chuyện thường nếu tác giả dùng chữ Duy Vật theo nghĩa Duy Thực, vì quả
thật trong 4 cuốn Tin Mừng, cuốn của Máccô có nhiều nét Duy Thực cụ thể nhất, chẳng
hạn Ngài ghi chép ngay cả chuyện bãi đất mà các môn đệ sắp đặt chỗ ngồi để chia
bánh cho quần chúng có mọc cỏ xanh tốt (xem Mc 6,39). Duy Vật như vậy cũng tốt
thôi!
Nguyễn Khắc Dương