(daminhvn.net) Monday, 17 December 2012
02:10
L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế OP.
Nhiều người tỏ ra băn khoăn lo ngại vì dường như giữa đức tin và cuộc
đời có một cái gì bất ổn : bất ổn ở chỗ đức tin dạy
một đàng trong khi người tin lại phải sống một nẻo với bao vấn đề cụ thể phức
tạp. Đối với những người này, đức tin xem ra chỉ quả quyết mà không minh chứng,
chỉ an ủi xoa dịu mà không giải quyết những nỗi khó
khăn người ta gặp phải trên đường đời, chỉ chú trọng đến phần linh thiêng mà bỏ
rơi hay coi nhẹ phần vật chất nơi con người. Nói tóm lại, giữa đức tin và cuộc
đời cụ thể, có cái gì hình như xung khắc.
Thật vậy, nếu chỉ nhìn qua vấn đề thì không
thể không có những cảm giác như thế. Nhưng nếu nhìn đức tin và cuộc đời mỗi bên
theo một phương diện thì lại khác, vì phải nhận rằng
hai bên thuôc hai phạm vi khác nhau, tuy rằng bên này có ảnh hưởng đến bên kia.
Đã không giống nhau thì phải phân ra mà nhận định mới khỏi lẫn lộn và thấy rõ
được pham vi của mỗi bên.
Đức tin thuộc phạm vi thiệng liêng và siêu
nhiên. Chỉ nguyên thế cũng đã thấy đức tin là một thực tại
không giống những thực tại khác rồi và đủ để gây ra những khó khăn cho người
thời nay. Vậy cần phải hiểu rõ bản tính đức tin để thấy được phạm vi riêng biệt của đức này mà sống và giữ vững đường lối cần
phải có của một tín hữu.
Tin là gì ?
Tin là hoàn toàn xác nhận những điều Chúa nói, những việc Chúa làm là
chân thật, dù ta chưa hiểu hết ý nghỉa hay thấu cảm thấy gì cả. Ngoài ra, tin
cũng là công nhận Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc
nhân loại và đạo Người lập ra là đạo mặc khải từ trời mang xuống, dù đạo này bị
người đời nhạo báng, khinh thường hay sát hại. Bản sắc của
Ki-tô giáo chính là ở chỗ đó.
Quả thế, Thiên Chúa đã bày tỏ dự định cứu chuộc cho loài người qua những
giai đoạn chuẩn bị trong lịch sừ, và khi đến thời đến buổi, Người đã sai Con
minh đến giảng dạy, hướng dẫn và cuối cùng lấy cái chết của chính Người Con ấy,
để minh chứng và làm dấu thị thực cho tình yêu của Người đối với nhân loại.
Thánh Phao-lô định nghĩa đức tin là : “Substantia
omnium rerum sperandarum et argumentum non apparentium.” (Hr 11.1) : Đức tin là bao đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng
chứng cho những điều ta không thấy. Công đồng Va-ti-ca-nô l cũng định nghĩa
đức tin là “Nhân đức siêu nhiên, nhờ đó, được ơn Chúa thúc đẩy và nâng đỡ,
chúng ta tin những điều Người mặc khải là chân thật, không phải vì chân lý nội
tại của sự việc mà ánh sáng tự nhiên của lý trí thấu hiểu nổi, nhưng vì uy
quyền của chính Chúa mặc khải, vì Người không thể bị lừa cũng không thể đánh
lừa.”
Cụ thể, tin là sáp nhập vào Chúa Ki-tô
Công đồng Va-ti-ca-nô II, khi muốn định
nghĩa Ki-tô hữu là ai đã lấy chính Đức Ki-tô để làm công việc này. Điều đó thật hiển
nhiên vì Ki-tô hữu là người thuộc Đức Ki-tô, bởi Đức Ki-tô mà ra. Vì thế, trong các từ ngữ Âu Mỹ, danh hiệu Ki-tô hữu thường được rút
ra từ chữ Ki-tô. Bởi vậy Công đồng nói : “Ki-tô hữu công khai xưng tụng
Đức Giê-su là Chúa và là Chủ, Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài
người, để tôn vinh Thiên Chúa độc nhất là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
(Sắc lệnh Hiệp nhất số 20). Đó là chân lý căn bản của Ki-tô giáo, trung tâm cốt
yếu và sống động của đức tin. Ngay từ đầu, khi đạo mới được rao truyền, người
ta đã gọi những người theo đạo là Ki-tô hữu : “Tại
An-ti-ô-khi-a, lần đầu tiên, người theo đạo được gọi là Ki-tô hữu” (Cv 11,26)
vì họ đã đón nhận Tin Mừng của Đức Ki-tô, họ là những người theo môn phái
Ki-tô.
Bởi đâu họ được phân loại như thế, nếu không phải vì họ tin theo Đức Ki-tô. Chính niềm tin này đã qui
định thành phần cho họ. Đức tin đã ràng buộc họ vào một ngôi vị là Chúa
Giê-su. Đối với họ, tin đã trở nên một hành động lựa chọn giữa hai đối tượng : một bên là Đức Ki-tô, một bên là người, vật, chủ
nghĩa và bao sức hấp dẫn khác. Sự lựa chọn này mang tính tự do và ý thức dựa
trên sự hiểu biết và ưng theo. Vì thế, tin trước hết
là một ơn huệ Chúa ban, sau là hành vi cá nhân, tự lập, xây dựng trên việc ý
thức và nhận định rõ ràng Đấng mình tin theo. Do đó, tin là trở thành môn đồ
sống động của Đức Ki-tô, lấy Người làm tiêu chuẩn sống một cách quyết liệt,
nhất thiết cái gì cũng dựa vào đức tin như thánh Phao-lô nói
: “Vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô và chết là một mối lợi.” (Pl 1,21) để nhờ đó mà nên người công chính, vì người công chính
sống bởi đức tin (Rm 1,16) và mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô (Pl 11,5).
Bởi vậy, tin là một đòì hỏi căn bản trong đời Ki-tô hữu. Có đức tin và sống đức tin mới gọi được là Ki-tô hữu. Bỏ đức
tin ra ngoài, người ta có thể là gì khác mà không phải là Ki-tô hữu. Đây cũng chính là điều kiện cần thiết để được cứu rỗi. Trong
cuộc đời truyền đạo, Chúa Giê-su hằng luôn tha thiết kêu gọi người ta đặt tin
vào Tin Mừng Người rao giảng : “Thời kỳ đã mãn và
Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin
vào Tin Mừng.” (Mc1,15)
Sám hối và tin là hai điều kiện gắn liền
với nhau để tín hữu được cứu rỗi. Khi tin, người ta không còn phải sợ như
Chúa Giê-su nói : “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” (Mc 5,36) Người tin làm được mọi sự :
“Mọi sự đều có thể đối với người tin.” (Mc 9,23) Đó là
trường hợp của người bất toại : “Này con, cứ yên tâm,
con đã được tha tội rồi”. (Mt 9,2), của người phụ nữ
tội lỗi (Lc 7,50), của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết (Mt 9,22), của anh mù
Ba-ti-mê (Mc 10,52), của người cùi ân nghĩa. Tất cả vì tin mà
đã được cứu.
Tin là gặp gỡ, tiếp xúc với thiên Chúa
Nhưng tin không phải là thái độ chấp nhận hờ hững, mà chính là hành động
dấn thân đưa con người tới chỗ gặp gỡ Thiên Chúa một cách thât mạnh mẽ. Gặp gỡ thân tình là biểu chứng của lòng thương yêu và điều kiện tất
yếu để tăng cường đức tin của con người đối với Thiên Chúa. Chính nhờ tiếp xúc với Thiên Chúa mà tín hữu thêm hiểu biết và mến
yêu Người. Bởi vậy, thiếu tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa,
đức tin sẽ hóa ra cằn cỗi. Sự gặp gỡ này sẽ giúp khám phá ra Chúa mỗi
ngày một hơn, để hình ảnh của Người biểu lộ dưới mắt ta với tất cả vẻ trìu mến,
yêu thương và tiếng nói của Người trở nên ngọt ngào linh động như người có kinh
nghiệm về Chúa đã nói : “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành
biết mấy, hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người.” (Tv 33,9)
Kinh nghiệm này mang tính cá nhân, chỉ dành
riêng cho những ai chịu làm quen với Chúa. Nhưng nhiều khi tìm gặp
Chúa để gây thứ cảm xúc ngọt ngào này, chúng ta vẫn không được toại nguyện, vì
Chúa như lân trốn, không chịu trao đổi thử cảm xúc này với những ai chủ tâm đi
tìm nó. Đó là lúc Chúa như muốn thử thách những ai tìm kiếm Người và
tước đoạt nơi họ mọi thứ cảm xúc, khiến họ chỉ còn giữ lại đức tin như một điểm
son đã được thanh luyện cho khỏi pha trộn tính xúc
cảm. Đây là đức tin thanh thoát đã được trút bỏ mọi
tính giác quan. Người có đức tin này bám chặt vào Chúa một
cách vô vị lợi. Tất nhiên phải có đức tin của người trưởng thành mới giữ
được thái độ này và tập cho quen gỡ mình ra khỏi khuynh hướng tìm kiếm và yêu
chuộng những rung cảm giác quan trong sinh hoạt đạo đức, đành rằng những thứ đó
cũng góp phần thúc đẩy và tăng thêm những tình cảm sốt sắng. Nhưng
không nên quá bận tâm lệ thuộc vào chúng đến nỗi chỉ tưởng mình đạo đức thánh
thiện khi được những cảm giác đó yểm trợ. Vì vậy Chúa mới nói : “Giờ đã đến, những người thờ phượng đích thực sẽ
thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật “ (Ga 4,23)
Tin là từ bỏ mình, ký thác vào Chúa
Có những lúc phải đắm chìm trong gian lao thử
thách, tín hữu không biết cầu cứu ai ngoài Chúa. Tin vào sức mình ư ? Tốt lắm. Nhưng
sức mình có hạn và lắm khi bị não nề, người ta cũng đâm ra hoài nghi chính
mình, dù đã vất vả chiến đấu. Đó là những giờ phút của
nao núng chán nản. Mà ai dám tự phụ mình không bao giờ
nao núng chán nản. Bởi vậy cần phải cậy trông vào Chúa,
ký thác và bám chặt vào Người. Như vậy có phải là thoái nhiệm không ? Không. Từ
bỏ mình và ký thác cho Chúa là những hành động công nhận giới hạn thụ tạo của
mình và chứng tỏ quyền năng của Chúa Tối Cao. Đó cũng
không phải là ươn hèn, “khoán trắng” mọi sự cho Chúa như có người nghĩ, vì giữa
tín nhiệm và “khoan trắng” khác nhau. “Khoán trắng” là một cử chỉ ươn
lười, ích kỷ, lợi dụng ; còn tín nhiệm là một
hành vi thân tình, trọng kính và tin tưởng.
Nhưng tại sao phải từ bỏ mình và ký thác
cho Chúa. Tự nhiên
con người ta thường đề cao mình, tỏ ra độc lập đối với Thiên Chúa do ảnh hưởng
di truyền của tội nguyên tổ thành ra dễ trở nên đối nghịch với Thiên Chúa. Vì
thế cần phải dẹp bỏ tính tự phụ, công nhận chủ quyền tuyệt đối của Thiên Chúa
và ký thác vận mệnh đời mình trong tay Người. Trông
chờ ở quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa trong những giờ phút hoài nghi, hoang
mang, chán nản, lo lắng không phải là một hành vi làm giảm thiểu khí thế con
người, mà trái lại là một cử chỉ hợp lý chứng tỏ tính hạn định và bất túc của
bản tính con người. Đàng khác không có gì phải xấu hổ khi thấy mình phải tùy
thuộc ở Đấng đã ban chính sự sống cho ta, giống như con cái tín nhiệm và ký
thác vào cha mẹ. Cha mẹ càng quí con cái khi thấy chúng hiếu nghĩa và đặt hết
lòng tin tưởng của chúng nơi mình.
Kết
luận
Đức tin là một ơn huệ cao quí. Ơn này không phải tự nhiên mà có, nhưng là
do tình thương của Chúa. Chúa ban ơn đức tin cho ai nấy để
được sống muôn đời. Nhận được đức tin, mỗi người phải
lo gìn giữ, bảo vệ, nuôi dưỡng, làm cho tăng triển và tìm cách truyền thông cho
người khác. NĂM ĐỨC TIN nhằm nhắc bảo cho người công giáo những điều đó
mà trọng tâm là săn sóc đến đức tin của mình và lo tái truyền giảng Tin Mừng
cho người khác.