NHỮNG VẤN ĐỀ
KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
THÁNH KINH VỀ NGUỒN GỐC VŨ TRỤ VẠN VẬT
VẤN ĐỀ 05: Những điều tôn giáo dạy về nguồn gốc vũ trụ và con người trong Thánh
Kinh đều sai lạc và phản khoa học. Khoa học ngày nay đã khám phá ra nguồn gốc
vũ trụ ngược hẳn với những điều ghi chép trong sách Thánh Kinh.
I. TRẢ LỜI
1.Ngày nay khi đọc 2
chương đầu của sách Sáng Thế Ký thuộc bộ Thánh Kinh Cựu Ước, nói về việc Thiên
Chúa sáng tạo vũ trụ (St 1,1-31; 2,1-4) và tạo dựng con người (St 2,4-25) nhiều
người bất mãn, vì xem ra Thánh Kinh nói nhiều điều vô lý và phản khoa học.
Chẳng hạn:
-Thiên Chúa thiêng liêng
vô hình lấy đâu ra miệng lưỡi để nói ? Lấy tay đâu để nặn đât sét thành hình
người rồi thổi hơi vào ? Không có xác thì sao lại phải nghỉ mệt ngày Thứ Bảy ?
-Trong ba ngày đầu tiên,
khi chưa có mặt trời thì dựa vào đâu để xác định thời gian: “ Thế là hết một
buổi chiều và một buổi sáng ?”
-Thiên Chúa lại làm những
việc ngược đời, phản khoa học như: Dựng nên ánh sang trước khi sáng tạo nên mặt
trời, vậy thì ánh sang ấy từ đâu phát ra ? Dựng nên cây cối trước khi dựng nên
mặt trời, thì cây cối ấy làm sao sống được ? Thánh Kinh còn nói Thiên Chúa tạo
dựng tất cả trong thời gian 6 ngày, đang khi khoa học khám phá ra vũ trụ được
hình thành trong thời gian mấy tỷ năm !
Các vấn nạn sẽ chồng chất
lên mãi nếu người ta cứ hiểu bản văn hoàn toàn theo nghĩa đen như trên…Vậy ý
nghĩa đích thực mà tác giả Kinh Thánh muốn diễn tả trong mấy chương đầu sách
Sáng Thế Ký như thế nào ?
2.Thực ra, Thánh Kinh
không vô lý và phản khoa học vì những lý do sau:
1)Trước hết, Thánh Kinh là sách dạy tôn giáo chứ không
nhằm dạy khoa học cho lòai người. Khi viết hai chương đầu trong sách Sáng
Thế Ký, tác giả Sách Thánh chỉ muốn ghi sâu vào tâm trí loài ngưới những chân
lý Đức Tin như sau:
-Vũ trụ vạn vật không tự
nhiên xuất hiện như có người lầm tưởng, nhưng đã do Thiên Chúa tạo thành từ hư không (St 1,1). Công việc Ngài làm rất tốt đẹp, và loài người có bổn phận phải nhận biết, tỏ lòng biết ơn bằng sự tôn thờ
yêu mến và cầu xin Ngài (St 1,4.12.25.31; 2,3).
-Trong số các tạo vật của
Thiên Chúa, loài người có giá trị nhất
vì được tạo dựng cuối cùng, được Thiên Chúa trực tiếp thổi hơi phú ban cho có linh hồn thiêng liêng bất tử
“giống hình ảnh Thiên Chúa” và còn được
trao quyền cộng tác với Chúa để làm chủ vũ trụ nữa (St 1,26).
-Người nữ không phải là tôi tớ của người nam như quan niệm của dân
ngoại thời bấy giờ, nhưng là bạn ngang
hàng, có cùng một bản tính người ngang hàng với người nam. Tư
tưởng này được diễn tả qua việc Thiên Chúa lấy xương sườn của A-đam làm thành
E-và, rồi liên kết hai người thành vợ chồng “một xương một thịt” (St 2,18-24).
-Để tỏ lòng biết ơn Thiên
Chúa, loài người phải dành trọn ngày
cuối trong một tuần lễ để nghỉ các việc làm ăn thường lệ và dành thì giờ làm
việc phụng thờ Ngài. Đó là ngày Thứ Bảy “Sa-bát” (St 2,2-3).
2)Những chân lý ấy vì
được nói trước tiên với người Do Thái đương thời, là những người có trình độ
văn minh thấp kém, nên tác giả Thánh Kinh đã phải dùng lối văn kể chuyện cụ thể dễ hiểu, phải sử dụng những kiểu nói
bình dân, phù hợp với những điều mắt
thấy tai nghe. Giả sử tác giả trình bày việc hình thành vũ trụ theo cách
nói của các nhà khoa học ngày nay, thì chắc chắn sẽ làm rối trí khán giả cách
vô ích, và khó lòng thuyết phục họ chấp nhận tin thờ Thiên Chúa. Ngày nay, dù
đang sống giữa thời đại văn minh khoa học, thế mà trong câu chuyện thường ngày,
người ta vẫn thường dùng kiểu nói như: “Mặt trời mọc ở phương Đông vào mỗi buổi sáng và lặn ở phương Tây vào mỗi buổi chiều. Bầu trời hôm nay thật trong xanh… Mà không thấy ai lên tiếng phê
bình phản đối. Thế thì tại sao một số người lại dựa vào môt vài kiểu nói bình
dân trong Thánh Kinh để cho rằng Thánh Kinh nói những điều vô lý và phản khoa
học được ?
TÓM LẠI: Những điều tôn
giáo dạy về nguồn gốc vũ trụ và con người trong Thánh Kinh không đối lập hay
phản khoa học, vì Sách Thánh không nhằm dạy khoa học về nguồn gốc vũ trụ thiên
nhiên, nhưng chỉ muốn trình bày những chân lý Đức Tin tôn giáo cho loài người.
Tuy nhiên, vì được nói trước tiên với người xưa, nên tác giả Kinh Thánh đã phải
sử dụng lối văn kể chuyện sao cho dễ hiểu, phù hợp với kiến thức và trình độ
hiểu biết khoa học của người đương thời, để họ dễ dàng mở lòng đón nhận đức
tin. Hồng y LIÉNART đã nói: “thực là sai lầm nếu có ai muốn đối chiếu trực tiếp
Kinh Thánh và khoa học, vì họ đã không nhận ra rằng: Kinh Thánh và khoa học
không đứng trên cùng một bình diện và không đồng một thể loại. Kinh Thánh theo
đuổi một mục đích khác với mục đích của khoa học. Không khoa nào có thể phủ
nhận khoa nào”.
II. TƯỜNG THUẬT CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO THEO SÁCH SÁNG THỂ (St
1,1-2,3):
Vì nhằm mục đích dạy loài
người chân lý: “Thiên Chúa chính là Đấng Tạo Hóa và là Chúa tể của vũ trụ vạn
vật”, nên tác giả Thánh Kinh đã trình bày công việc sáng tạo theo một thứ tự
riêng, phù hợp với mục đích dạy đức tin. Tác giả đã chia công trình tạo dựng vũ
trụ vạn vật thành 7 giai đoạn:
Đầu tiên là những vật vô
tri bất động và tiếp đến là những vật có sự sống rồi những động vật có giác
quan mà quan trọng nhất là loài người có linh hồn thiêng liêng bất tử. Cuối
cùng tác giả kết luận: “Tất cả vạn vật đều do Thiên Chúa tạo dựng” và lòai
người được nhận làm nghĩa tử vì được dựng nên cuối cùng, giống như bà mẹ trước
khi sinh con đã chuẩn bị sẵn nhà cửa và các đồ dùng quần áo cho con, Thiên Chúa
cũng sáng tạo nên vũ trụ vạn vật trước khi dùng bùn đất làm ra lòai người. Lòai
người phải thánh hóa nghỉ việc xác ngày Thứ Bảy để dành làm việc thờ phượng
Chúa như Ngài đã nêu gương.
Công trình sáng tạo của
Thiên Chúa được tác giả Sách Thánh trinh bày theo thứ tự phân biệt và trang
điểm như sau:
1)Ngày thứ Nhất Thiên Chúa dựng lên ánh sáng và phân biệt ánh sáng với bóng tối. Ánh sáng được gọi là ngày và bóng
tối được gọi là đêm (x St 1,3-5).
2)Ngày thứ Hai Thiên Chúa dựng nên cái vòm giữa khối nước. Ngài phân biệt nước phía dưới vòm với nước
phía trên làm thành bầu trời (x St 1,6-8).
3)Ngày thứ Ba Thiên Chúa truyền cho nước phía dưới trời tụ lại, làm
cho chỗ cạn nhô lên. Ngài gọi chỗ cạn là “đất” phân biệt với khối nước tụ lại là “biển”. Ngài cho đất phát sinh
thảo mộc hoa trái (x St 1,9-13).
4)Ngày thứ Tư Thiên Chúa trang
điểm cho ngày thứ Nhất: Ngài dựng nên hai vầng sáng giúp phân biệt ngày và
năm tháng. Ngài gọi vầng sáng lớn là mặt trời chiếu sáng ban ngày và vầng sáng
nhỏ là mặt trăng soi chiếu ban đêm. Ngài cũng dựng nên các vì tinh tú (x St
1,14-19).
5)Ngày thứ Năm Thiên Chúa trang
điểm cho ngày thứ Hai: Ngài dựng nên chim bay trên bầu trời và dựng nên cá
lội dưới lòng biển (x St 1,20-23).
6)Ngày thứ Sáu Thiên Chúa trang
điểm cho ngày thứ Ba: Ngài dựng nên các loài thú vật và cuối cùng dựng nên
lòai người và trao cho họ quyền làm chủ trái đất (x St 1,24-31).
7)Ngày Thứ Bẩy Thiên Chúa nghỉ việc để nêu gương cho lòai người cũng
phải nghỉ việc để thánh hóa ngày này (St 2,1-3).
III. LỜI CẦU:
-Lời
Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự
nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm
kia” (Tv 18).
-Lạy Thiên Chúa Cha từ bi
nhân ái. Cha đã sáng tạo nên vũ trụ van vật “vì và cho” loai người chúng con.
Xin cho chúng con nhận biết tình thương của Cha để không ngừng ngợi khen cảm tạ
Cha. Xin cho chúng con biết cộng tác với Cha để làm chủ và kiện tòan thiên
nhiên theo thánh ý Cha hầu mang lại cơm no áo ấm cho chúng con. Xin cho chúng
con biết làm cho môi trường sống ngày thêm sạch đẹp, hầu làm sáng danh Cha và
mang lại hạnh phúc muôn đời cho chúng con. AMEN.
LM ĐAN
VINH
www.hiephoithanhmau.com